Trong bí tích Hòa Giải,
tình yêu được biểu lộ bằng sự tha thứ,
sự quên mình hoàn toàn của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhân loại và cả vũ trụ vạn vật
được giao hòa trở lại với Thiên Chúa Tạo Thành.
Sự giao hòa này được thể hiện nơi Đức Kitô
mà Máu Giao Ước Mới đổ ra cho muôn người được tha tội.
tình yêu được biểu lộ bằng sự tha thứ,
sự quên mình hoàn toàn của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhân loại và cả vũ trụ vạn vật
được giao hòa trở lại với Thiên Chúa Tạo Thành.
Sự giao hòa này được thể hiện nơi Đức Kitô
mà Máu Giao Ước Mới đổ ra cho muôn người được tha tội.
Phêrô Nguyễn Văn Tú, Tu hội TSBA – Vinh
DẪN NHẬP
Không phải bằng trí
khôn tự nhiên mà con người có thể khám phá ra được Thiên Chúa là Cha đầy lòng
nhân hậu, nhưng đã phải trải qua một quá trình Mạc Khải lâu dài, trí khôn của
con người mới được mách bảo cho họ biết có một Đấng hằng yêu thương và chăm sóc họ.
Tình thương này được nhận ra khi Thiên Chúa trực tiếp can thiệp vào lịch sử của
nhân loại. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng phải dùng một phương pháp sư phạm tiệm
tiến cho phù hợp với khả năng nhận thức của con người theo đà tiến của lịch sử.
Trong muôn vàn dân tộc, Thiên Chúa đã chiếu cố và chọn lấy một dân tộc làm dân
riêng, làm sở hữu cho mình. Đó là dân Israel, được gọi là con đầu lòng của
Thiên Chúa. Chính trong lịch sử của dân này, Người đã Mạc Khải là Cha giàu lòng
nhân ái, Thiên Chúa của Giao Ước tình thương.
Mặc dù được hưởng
tình thương bao la và ơn tha thứ cách nhưng không, nhưng dân vẫn không tránh
khỏi những đam mê, cám dỗ tội lỗi. Tuy vậy, Thiên Chúa không để kế hoạch cứu độ
của Người phải thất bại. Người đã biểu lộ lòng thương xót ấy cho đến cùng bằng
cách ban cho nhân loại chính Con Một của mình. Con Một Thiên Chúa đã lấy chính
máu của mình để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Suốt cuộc đời trần thế của
Chúa Giêsu, Người đã không ngừng rao giảng Tin Mừng về lòng thương xót Thiên
Chúa và ban ơn tha tội. Người đã kêu mời mọi người sám hối, tin vào Tin Mừng và
đón nhận ơn cứu độ (x. Mc 1,15). Người đã liên đới với mọi người, đã trở nên
anh em của mọi người, nhất là những người tội lỗi, người sống bên lề xã hội...
để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi và “mở ra cho họ con đường cứu độ
đời đời.”[1]
Đi vào tận căn của
những biểu hiện bên ngoài ấy, là một khủng hoảng của tình thương đang thiếu
vắng sự chân thật, tín nhiệm, tha thứ. Nhưng thực tế vẫn cho ta kinh nghiệm về
mình, vốn bị sự ác thống trị, sự ích kỷ vẫn là bạn đường trung thành với con người, bên cạnh đó là áp lực lớn lao của địa
vị, và những nguồn lợi nhuận bảo đảm cho những nhu cầu trước mắt, khiến con
người đi lệch hướng sang phía tiêu cực, được trước mắt nhưng tai hại lâu
dài. Dù sao, đây cũng mới là nhìn nhận thực tại, nhưng giải quyết nó con người
cần một quyền năng có sức Cứu Độ chữa trị tận căn.
Mỗi tôn giáo đều kêu
gọi tín hữu của mình sám hối như điều kiện đạt tới cứu độ theo tôn giáo riêng
của họ, tùy theo sự sám hối thành tâm ít nhiều của tín đồ có thể phủ lấp những
xúc phạm do mình gây ra, điều này cho ta thấy phù hợp với lẽ công bằng. Bí tích
Hòa Giải của Kitô giáo cũng cho ta thấy sự tương tự như vậy, nhưng mang một ý
nghĩa sâu xa và phong phú hơn. Khi người tín hữu đến với bí tích Hòa Giải, là
ta nhìn nhận chính lỗi lầm là gốc rễ của mọi tha hóa con người như tác nhân cơ
bản, từ đó ảnh hưởng trên những thực tại chung quanh của cuộc sống, được diễn
tả bằng những hình thức khác nhau của nền văn hóa chết. Bí tích Hòa Giải là ơn
huệ “nhưng không” của Đấng giàu lòng thương xót, song cũng đòi hỏi sự cộng tác
tích cực về phía con người: nhìn nhận thiếu sót, thực lòng hối hận những gì đã
qua, muốn sống tích cực hơn, đồng thời thể hiện việc bác ái, đạo đức hay hy
sinh... để phần nào bù đắp lại những thiếu sót đã gây ra. Với ý thức đó con
người cần được chữa lành từ chính trong nội tâm sâu thẳm của lòng mình, chữa
lành nhân cách và được tha thứ, được đón nhận tình yêu của Đấng đầy lòng thương
xót tha thứ..
Đề tài này rất rộng
và phong phú trong lãnh vực nghiên cứu và đời sống đức tin. Tuy nhiên, trong
phạm vi nghiên cứu chỉ xin giới hạn vào ba khía cạnh: Thánh Kinh, Thần học và
mục vụ, nhằm giúp cho bản thân sống cách tích cực trong Năm thánh Lòng Thương
Xót này.
I. Kinh Thánh
1. Cựu ước : Thiên Chúa Đấng thánh thiện
Theo ngôn ngữ Semit từ “qô
dès” có nghĩa là: sự thánh thiện, vật thánh, xuất phát từ ngữ căn có nghĩa
“tách rời, tách biệt”. Thánh là cái tách biệt khỏi những gì phàm tục, nhơ uế.
Sự thánh thiện trong Kinh Thánh có một nội dung phong phú sâu xa, sự thánh
thiện là ưu phẩm thuộc về bản chất của Thiên Chúa “Thiên Chúa Đấng chí thánh”,
sự thánh thiện của Thiên Chúa không giới hạn ở đặc tính luân lý hay là tổng hợp
nhân đức, nhưng là hữu thể viên mãn của sự sống sức mạnh và tình yêu. Cựu Ước
diễn tả sự Thánh Thiện của Thiên Chúa trổi vượt bằng cách tách biệt khỏi thế
giới phàm tục, vượt lên trên mọi tạo vật. Tuy nhiên, không vì sự tách biệt ấy
mà Thiên Chúa trở nên xa lạ, khép kín với thụ tạo của Ngài, trái lại Thiên Chúa
tỏ lộ sự thánh thiện của Ngài qua các công trình kỳ diệu Ngài thực hiện trong
vũ trụ; đặc biệt “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình”[2] đồng
thời, Thiên Chúa cũng thông ban chia sẻ cho con người được tham dự vào sự Thánh
thiện của Ngài như một điều luật bó buộc: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta,
Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh.”[3] Dù vậy,
ở mỗi giai đoạn lịch sử cùng với sự tiến bộ, dân Chúa tìm hiểu nội dung sự
thánh thiện và diễn tả ở những mức độ hiểu biết ngày càng thêm sâu xa phong
phú.
Thời Môsê, thánh thiện được nhìn theo
nghĩa tách biệt vật chất, nơi chốn. Nơi Thiên Chúa hiện diện phải là nơi thánh,
con người phàm tục không thể bước vào, hoặc giả như ông Môsê tiếp cận với Đức
Chúa, ông bày tỏ thái độ kính trọng bằng việc cởi dép, vì ông đang ở nơi thánh[4]. Trong
cuộc thần hiện của Giavê trên núi Sinai[5], Ngài
hiện diện trong bụi gai bốc cháy, với mây giông sấm chớp, cột khói và cửa nhà
rung chuyển, nhằm biểu thị Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả khác xa, vượt trên
mọi suy nghĩ của người phàm tục, sự hiện diện của Thiên Chúa cùng với sự thánh
thiện của Ngài, như một quyền lực kinh khiếp và mầu nhiệm, sẵn sàng tiêu diệt
những phàm tục, bất xứng.
Thời Đavít, Hòm Bia là sự hiện diện
của Thiên Chúa giữa dân Ngài, giai đoạn này có sự phân biệt rõ rệt giữa sự
thánh và phàm, không ai được chạm tới Hòm Bia uy linh Chúa, chỉ trừ những ai
đứng trong hàng ngũ các tư tế mới được chạm đến Hòm Bia khi cử hành phụng vụ,
ngoài ra những ai không có trách nhiệm vô tình hay cố ý chạm tới Hòm Bia như
một phạm thánh tức khắc bị tiêu diệt[6].
Thời Ngôn sứ, từ quan niệm mang tính
vật thể, nơi chốn; sự thánh thiện kèm theo nghĩa luân lý và thuộc về lãnh vực
nội tâm hơn, chính các ngôn sứ là những vị giúp canh tân nội dung phong phú,
kêu gọi một cuộc sống thánh thiện phát xuất từ chính cõi lòng bằng một cuộc
quay về với Chúa cách chân thành đúng đắn. Dù vậy với thời gian nếp sống thánh
thiện cũng bị sơ cứng nơi nếp nghĩ của dân, họ coi sự thánh thiện như một sự cố
gắng phấn đấu và tự vươn lên của bản thân đơn độc, không cần ơn trên. Vì thế,
dẫn đến một quan niệm sai lầm; quan niệm vụ hình thức này sẽ được nhắc lại qua
các ngôn sứ và đặc biệt thời Tân Ước.
Con người luôn khao khát sự thánh
thiện của Thiên Chúa và ra sức tìm kiếm để bắt chước, và cũng đạt được những
kết quả nhất định, dù vậy vẫn còn có khoảng cách, tách biệt khi đối diện với sự
thánh thiện của Đức Chúa, con người còn nhận ra một sự ngăn cách mà tự sức con
người không thể thu hồi khoảng cách ấy, đó là sự thấp hèn và ô nhơ của con
người trước mặt Thiên Chúa Đấng Chí Tôn Chí Thánh, nơi Ngài không chút tì vết
của tội lỗi.
1.1. Danh thánh Đức Chúa
Tên không chỉ được
xem như một danh xưng, nhưng còn gắn liền với một con người, tên thường gợi lên
cho ta một hình ảnh sống động của một con người nào đó, ngoài ra tên còn hàm
chứa một ơn gọi sứ mạng kèm theo. Trong Kinh Thánh khi đặt tên cho vật hay
người nào, nghĩa là hàm chứa con người hay vật ấy thuộc về người gọi tên cho.
Do đó, nơi các dân tộc tên thần linh rất quan trọng; nơi dân Babilon họ gán cho
thần linh tối cao của họ là Mạc-đốt (Mardouk) bằng nhiều tên khác nhau, có lúc
dân Canaan lại dấu tên thần linh mà chỉ dùng một từ đặc biệt “Baan”, gắn liền
với nơi chốn nào đó.
Với dân Israel, Thiên Chúa lại chiếu
cố và Mạc Khải cho họ biết tên của Mình, trong nhiều dịp và nhiều biến cố khác
nhau, như dấu chỉ Thiên Chúa muốn thiếp lập mối tương giao gần gũi với dân
Người, và là tên gọi để cầu khẩn, Danh đó có sức mạnh quyền năng phù trợ con
người.
Thiên Chúa được gọi bằng nhiều tên khác
nhau và ngay rất sớm con người đã kêu cầu Đức Chúa[7], Ngài
còn gọi là El Shaddai[8] (en
sa-đai). Đấng Toàn Năng ở trên cao, ngoài ra còn được gọi Đức Chúa là Đấng Tối
Cao[9]; để chỉ
sự khác biệt khỏi các thần ít quyền năng hơn. Để có thể hiểu phần nào nội dung
của Mạc Khải Danh Thánh cần giải quyết hai vấn đề: một là nghĩa từ YHWH, hai là
ý nghĩa chung và tầm quan trọng của Mạc Khải chứa trong đó. Từ YHWH dựa vào
những từ gốc của tiếng Hípri, một số tác giả cho rằng ở đây là dạng mạnh của
động từ chủ động có nghĩa làm cho hiện hữu, là nguyên nhân của sự hiện hữu. Khi
nói về chính mình, Thiên Chúa dùng ngôi thứ nhất số ít “Ta là”. Dịch sát nghĩa:
“Ta là Đấng Ta là” tuy vẫn là một ẩn danh nhưng chính Chúa mạc khải tên cho
Môsê như một bảo đảm cho lời hứa, một danh hiệu để kêu cầu và được che chở.
Thiên Chúa là Đấng độc nhất thực sự hằng hữu, chỉ có Ngài thực sự nắm quyền và
là Đức Chúa của Israel. Dù được biết tên Thiên Chúa nhưng danh hiệu ấy trổi
vượt và luôn bí ẩn đối với Israel, nhưng Đấng ấy đang có mặt và hoạt trong lịch
sử dân Ngài và cả lịch sử nhân loại nữa.
1.2.
Khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa
√ Cha đầy yêu thương
Chiêm ngắm Chúa Kitô, người
môn đệ nhận biết Thiên Chúa là người Cha đầy yêu thương. Thiên Chúa là tất cả
mầu nhiệm ở việc sinh hạ, Người là một mầu nhiệm tình yêu. Người là Thiên Chúa
trong tư cách là Cha và sinh hạ bằng cách yêu thương (1Ga 4,9). Thiên Chúa đã
sinh hạ Chúa Con cho trần gian và qua đó cho thấy Người là tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa trước hết
hướng đến Con Chí Ái (Cl 1,13). Cha và Con liên kết với nhau bằng tương quan
tình yêu. “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi
lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh
mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là
mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được”[10]. Thái
độ đáp trả trọn vẹn của Con khơi dậy tình yêu của Cha, tức là khơi dậy hành vi
sinh hạ. Con đã lãnh nhận tất cả từ nơi Cha để rồi Con lại dâng hiến tất cả cho
Cha. Cha là cội nguồn và Con là đích điểm của hành vi sinh hạ. Ngài là tình yêu
và mọi sự hoàn thành ở nơi Ngài.
√ Cha giàu lòng từ bi hay thương
xót
Thiên Chúa là tình yêu nên không thể
dửng dưng, chẳng chạnh lòng thương xót đối với những đứa con đang chìm ngập
trong đau khổ và sự chết. Chính trong tình yêu mà Đức Kitô đã đến trần gian để
liên kết với con người và sống thân phận của con người (Hr 4,15). Những đau khổ
của Đức Kitô và của con người hẳn phải có tác động nơi lòng dạ Thiên Chúa. Thần
học gọi tâm tình đó là lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nhiều lần
bày tỏ lòng từ bi thương xót của Người đối với dân riêng[11]. Đến
thời Tân Ước, lòng từ bi nhân hậu được bày tỏ nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể là Đức
Giêsu. Đức Giêsu chạnh lòng thương xót thì cũng chính là Thiên Chúa chạnh lòng
thương xót. Thiên Chúa thương xót Đấng Kitô của Người, động lòng trắc ẩn trước
những thử thách và đau khổ của Israel; nhờ lòng nhân hậu đối với loài người,
Thiên Chúa còn đi đến và trở nên người đồng hành, cùng chịu đau khổ với họ
trong Thánh Tử.
Thiên Chúa là tình yêu. Hạnh phúc của
Thiên Chúa không thể cạn kiệt, vì đó là hạnh phúc viên mãn của tình yêu. Thế
nhưng đặc tính của tình yêu lớn lao có thể làm cho hạnh phúc và đau khổ cùng
tồn tại như pha trộn vào nhau, trong đó hạnh phúc dư tràn và bao trùm đau khổ.
Chẳng hạn, kinh nghiệm của người Cha khi tìm lại được đứa con hoang đàng[12]. Tình
yêu của Thiên Chúa vượt trên tình yêu của con người, nhưng chắc chắn phải có gì
giống với tình yêu mà Thánh Thần của Người khơi lên trong lòng tín hữu (Rm
5,5). Do đó, chúng ta có thể nói: Thiên Chúa đã ngắm nhìn Con Chí Ái vượt qua
đau khổ mà đến cùng Người với lòng chạnh lòng thương vô biên và niềm vui tràn
trề. Vậy đau khổ cùng với người mình yêu thương và hạnh phúc vô hạn không phải
là không thể đi đôi với nhau.
Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót
và cũng là Đấng nhân hậu từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng (Xh 34,6). Kinh
Thánh Cựu Ước diễn tả lòng nhân hậu của Thiên Chúa bằng từ ngữ “Hesed”: Người
là lòng tốt, tín trung, hay tha thứ[13]. Thiên
Chúa là cha mà yêu thương như người mẹ[14]. Trong
Cựu Ước, lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa khơi nguồn từ tình Cha của Đức
Giêsu là Cha đầy lòng nhân hậu (2Cr 1,3). Trong vực thẳm của đau khổ, khi Người
đã “trở nên tội vì chúng ta” 2Cr 5,21), thì Thiên Chúa đã đổ tràn trên Người
lòng từ ái của Người và đã phục sinh Người trong nguồn an ủi vô biên của Thánh
Thần.
1.3. Ca ngợi lòng nhân hậu của Thiên Chúa
Dân
Israel đã vì phạm Giao ước, cho nên họ không thể đòi cho mình có quyền hưởng
lòng nhân hậu của Thiên Chúa bằng cách dựa vào sự công bằng pháp lý. Dù vậy, Israel
vẫn có thể hy vọng và tin tưởng là mình sẽ nhận được lòng thương xót của Thiên
Chúa, vì Thiên Chúa của Giáo ước thực sự có trách nhiệm về tình thương của
Ngài. Hiệu quả của tình thương đó, chính là ơn tha thứ, sự phục hồi ân sủng và
việc tái lập Giáo ước nội tâm. Chính vì thế Dân Chúa đã không ngừng ca ngợi
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng nhân ái, chậm giận và luôn tha thứ.
Chính yếu tố đó, mà các tác giả Sách
Thánh, đặc biệt các tác giả Thánh vịnh đã không ngừng cầu khẩn và ca ngợi Thiên
Chúa với lòng tràn đầy tin tưởng “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng... lòng
thành tín của Ngài (Tv 89,2). Câu Thánh vịnh này như là một điệp khúc của bài
ca yêu mến mà mọi người sẽ hát ca khen Thiên Chúa. Đây cũng là thái độ khiêm
tốn nhìn nhận những giới hạn của con người trước lòng thương xót của Thiên Chúa[15].
Cũng thế, trước những tiếng kêu van của tác giả Thánh vịnh không ngừng vang
vọng “xin thương xót”, nhưng cũng lại chứa đầy niềm xác tín vào lòng nhân hậu
“vượt qua” và “vững bền” của Thiên Chúa[16].
2.
Tân ước: Thiên Chúa Đấng nhân lành
Tân Ước trình bày
dung mạo của Thiên Chúa là Đấng nhân lành qua Đức Giêsu, chính Đức Giêsu Ngôi
Lời đã làm Người mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha nhân lành, bởi Ngài
xuất phát từ Thiên Chúa[17] cũng
chính Ngài thể hiện lòng nhân lành của Thiên Chúa cho nhân loại yếu hèn và tội
lỗi. Mạc khải này thật gần gũi với con người và con người có thể dễ dàng nhận
ra phẩm tính này. Quả vậy, Thiên Chúa nhân lành không là một ý niệm suông, trừu
tượng, cũng chẳng phải do con người suy tư mình để rồi gán ghép cho Thiên Chúa,
nhưng là ân huệ được thông ban như một sự tham dự vào phẩm tính của chính Chúa.
Qua cuộc đời trần thế của Đức Giêsu giúp ta nhận ra những khía cạnh khác nhau
của lòng nhân lành “sao ông lại gọi Tôi là nhân lành ? Chẳng có ai nhân lành
cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lc 18,19) và kêu gọi mọi người hãy bắt chước lòng
nhân lành của Thiên Chúa. “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng
nhân từ” Lc 6,36) và lòng nhân lành ấy luôn mở rộng cho mọi người không giới
hạn, bất chấp họ là người xấu hay tốt, tội lỗi hay tốt lành: “Vì Người vẫn nhân
hậu với phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6,35). “Vì Người cho mặt trời của
Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người
công chính cũng như kẻ bất lương”[18].
Đức Giêsu Ngôi Lời phát xuất từ Thiên
Chúa và đã đến trong thế gian, chính Ngài là nguồn ân huệ Thiên Chúa ban cho
nhân loại, nơi Ngài ta nhận ra lòng nhân từ hay thương xót và tha thứ của Thiên
Chúa, và qua Ngài ta biết sống thế nào như người con thảo hiền đối với Cha trên
trời.
2.1. Đức Giêsu hiện thân của lòng
thương xót
Đức Giêsu Nadarét là người con của
dân tộc Dothái đang bị đế quốc Rôma cai trị, cha mẹ Ngài là những thợ thủ công
nghèo làm việc sinh sống bằng đôi tay lao động. Trong cuộc sống, Ngài cũng có
mối liên hệ với những người đồng hương, cũng như cả những người lân bang, Ngài
cũng mang chung nhịp đập với tình yêu quê hương dân tộc, Ngài cũng chia sẻ mọi
cảnh sống nghèo nàn cơ cực, thổn thức với người đau yếu bất hạnh, kiên nhẫn chờ
đợi, nhưng cũng thẳng thắn dứt khoát, không khoan nhượng với điều xấu, bất công
và tội ác... Các sách Tin Mừng không chỉ tường thuật Đức Giêsu như một nhân vật
lịch sử, một con Người thực tế hay siêu nhiên, nhưng trên hết các tác giả sách
Tin Mừng muốn trình bày một Đức Giêsu của Tin Mừng phát xuất từ Thiên Chúa.
Nhằm cổ võ và cùng cố niềm tin như một điều cơ bản để con người có thể tiếp cận
Thiên Chúa. Như thế, Thiên Chúa ban Đức Giêsu là quà tặng cho nhân loại, nơi
ngài là hiện thân của một Thiên Chúa ở cùng và Cứu Độ con người. “Thiên Chúa
yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến
thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người mà được Cứu độ”[19].
Tân Ước diễn tả Đức Giêsu Kitô là hiện
thân của lòng Thương Xót và Nhân Từ của
Thiên Chúa. Lòng Thương Xót ấy được bộc lộ qua lời rao giảng, chữa lành và các
phép lạ nhằm cho thấy quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu: “Xưa kia nhiều lần
nhiều cách Thiên Chúa đã phán dạy với cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng
vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con”[20]. Chúa
Kitô mang đến cho truyền thống Cựu Ước về lòng nhân từ và giải thích bằng nhiều
hình ảnh và dụ ngôn, nhất là Ngài còn Nhập Thể và ngôi vị hóa lòng Nhân Từ ấy.
Việc Nhập Thể của Ngôi Lời không phải chỉ là công việc của tình yêu Thiên Chúa,
nhưng cũng là mạc khải tột đỉnh về lòng nhân từ của Thiên Chúa đã trở thành một
Ngôi Vị. “Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người
thấy Chúa Cha làm”(Ga 5,19).
Đức Giêsu Kitô “Con duy nhất ở trong
cung lòng Chúa Cha” (Ga 1,18) ngài là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1,15)
nơi Ngài bày tỏ toàn bộ dung mạo nhân từ của Thiên Chúa Giàu lòng Thương Xót
(Ep 2,4). Chúa Kitô đến trong trần gian với cuộc đời tại thế ngắn ngủi, nhưng
từ lúc sinh ra cho tới khi sống lại, Ngài tỏ lộ rõ dung mạo Thiên Chúa giàu
lòng Nhân Từ và Thương Xót cách hoàn hảo nhất, mọi hành động lời nói cử chỉ và
mọi tiếp xúc của Ngài, đều được hướng dẫn bởi sự chạnh lòng thương và nhân từ
đối với những người lâm cảnh ngặt nghèo, những người bị bỏ rơi, những người đau
ốm bệnh tật từ khắp nơi tuôn đến với Ngài,
trong đó người nghèo, ngoại kiều và phụ nữ là loại người xã hội quên lãng bỏ
rơi vẫn luôn được Chúa quan tâm.
Trong lời rao giảng của mình, Đức
Giêsu luôn nhắc đến những lời kêu gọi thiết tha của các tiên tri xưa: “Ta muốn
lòng nhân lành, chứ không cần lễ tế” (Hs 6,6), nơi bữa tiệc tại nhà ông Lêvi
người thu thuế, Chúa Giêsu đặt vấn đề và đánh động các kinh sư “Các ông hãy đi
học cho biết ý nghĩa của những lời này”: Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần lễ
tế, hẳn là các ông sẽ không kết án người vô tội” (Mt 9,13). Khi rao giảng, Đức
Giêsu dùng nhiều dụ ngôn để nói với dân chúng, nhưng đặc biệt hơn hết vẫn là
những dụ ngôn nói về lòng nhân từ và tha thứ để loan báo lòng nhân hậu của
Thiên Chúa. Khi so sánh tâm tình của người mục tử tìm kiếm một con chiên lạc,
rồi câu chuyện đồng xu bị đánh mất lại tìm thấy, nhưng cảm động hơn hẳn phải là
câu chuyện người con trai hư hỏng, nhưng khi quay về anh được cha đón nhận
trong vòng tay nhân từ rộng mở với đầy lòng xót thương, tất cả vượt ra khỏi
những dự kiến của người con thứ có được.
Đức Giêsu hiện rõ dung mạo của Thiên Chúa
Nhân Từ và hay Thương Xót, dung mạo và tấm lòng này không bị giới hạn bởi bất
kỳ hạng người nào, bất luận ngôn ngữ chủng tộc chính kiến, người tốt kẻ xấu,
người hiền kẻ lành hay kẻ bất lương... Chúa đến với con người như bạn đồng
hành, chia sẻ, cảm thông mà con người vẫn dành cho nhau, nhưng Ngài còn dẫn mọi
người đến một nguồn hy vọng vĩnh cửu trào vọt từ cung lòng Đấng là: Niềm vui và
hy vọng được Cứu Độ. Niềm vui Cứu Độ này trở nên bất tận nhờ cái chết và sự
sống vinh hiển của Đức Kitô.
2.2. Cuộc thương khó và phục sinh của Đức Giêsu, đỉnh cao của lòng
thương xót
“Mầu nhiệm Vượt Qua từ Thập
giá đến Phục Sinh của Chúa Kitô là trọng tâm Tin Mừng mà các tông đồ và Hội
Thánh tiếp nối các Ngài, phải loan báo cho thế giới cái Chết của Thánh Tử Giêsu
Kitô đã hoàn tất ý định Cứu độ của Thiên Chúa “Một lần dứt khoát”[21]. “Khi
sống chết với tình thương của Chúa Cha dành cho con người bằng trọn trái tim
nhân loại của mình, Đức Giêsu “đã thương yêu họ đến cùng” (Ga 13,1) vì “không
có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn
hữu” (Ga 13,1). Như vậy, trong đau khổ và cái chết, nhân tính của con Người đã
trở thành dụng cụ tự do và hoàn hảo cho tình yêu Thiên Chúa luôn ước muốn cứu
chuộc loài người. Quả thật, Người đã tự do chấp nhận chịu chết vì yêu mến Chúa
Cha và yêu mến loài người mà Chúa Cha muốn cứu độ: “Mạng sống của tôi, không ai
lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Do đó,
Chúa Con đã tự do tột bậc khi hiến thân chịu chết”[22].
Trong hành trình rao giảng, Đức Giêsu
đã tiên báo về cái chết và sự sống lại của Ngài, nhưng những thính giả nghe
Ngài nói dường như chỉ dừng lại nơi kinh nghiệm về cái chết mà bất cứ ai cũng
phải trải qua, hơn là quan tâm đến việc người chết sống lại. “Con Người phải
chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết
và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31), lời tiên báo ấy được lặp lại nhiều[23].
Khi những kinh sư và Pharisêu xin Đức
Giêsu dấu lạ, Ngài nhắc lại tích truyện ông Giôna trong bụng cá ba ngày ngày
đêm, “Con Người cũng ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy”(Mt 12,40). Giai đoạn
cuối của cuộc đời rao giảng, Đức Giêsu đã sánh ví mình với đền thờ, nhằm loan
báo việc thiết lập một Đền thờ mới và một nền phụng tự mới, điều này như một
xúc phạm tôn giáo dưới góc nhìn của các thủ lãnh Dothái, họ hiểu lầm Ngài có ý
đồ phá đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo lúc bấy giờ: “Các ông cứ phá hủy
đền thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19) và họ tin vào đó như
lời chứng tố cáo Ngài “tên phá hoại”, trước Thượng Hội đồng: “Tên này đã nói:
tôi có thể phá đền thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại” (Mt
26,61).
√ Cái Chết trên Thập Giá
Đức Giêsu
đã bị đóng đinh và chết trên thập giá, đó là một trong những sự kiện chắc chắn
nhất của lịch sử của ngôn sứ thành Nadarét. Trước hết khi bàn về thời gian Đức Giêsu
đã chết vào ngày 14 hay 15 tháng Nisan, dựa vào Tin Mừng Nhất Lãm thì bữa ăn
cuối cùng của Đức Giêsu vào ngày 15 tháng Nisan. Trình bày này nhắm đến ý nghĩa
bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ là bữa tiệc Vượt qua. Nhưng Tin
Mừng Gioan thì cái chết của Đức Giêsu diễn ra vào ngày chuẩn bị mừng lễ Vượt
qua (Ga 19,14) lúc người ta sát tế các chiên vượt qua trong đền thờ, dựa vào
yếu tố này thì Đức Giêsu chết vào ngày 14 tháng Nisan và bữa tiệc cuối cùng của
Đức Giêsu với các môn đệ không phải là bữa tiệc vượt qua, mà chỉ là bữa tiệc
ly, qua đó Gioan muốn giới thiệu Đức Giêsu là Con Chiên đích thực của lễ Vượt
qua.
Khía cạnh Giao Ước: Bốn bản văn
tường thuật bữa tiệc ly, cung cấp cho chúng ta những nội dung quan trọng phong
phú: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra,
trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy”, và người cầm
chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này.
Người bảo các ông: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy, và Người cầm lấy chén
rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người
bảo các ông: Đây là Máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người”[24].
Tác giả Mátthêu thêm vào: “Được tha tôi” (Mt 26,28). Luca và Phaolô ghi lại:
“Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy”[25].
Các lời ấy liên kết những hành vi mà Chúa Giêsu sắp trải qua và hoàn tất trong
cái chết nhằm cứu chuộc nhiều người.
Khía cạnh chuộc lấy: (Hi Agorazein)
từ này có thể cho ta hiểu hai nghĩa; tiêu cực: nghĩa này đòi buộc con nợ phải
có một sự đề bù công bằng tương xứng, mới có thể chuộc lấy; nghĩa tích cực: chúng
ta được đứng về phía Chúa, nhờ Giao Ước mà các điều kiện được thỏa đáng và được
Chuộc lấy bằng giá đắt[26]; dù đây
là hình bóng của Cựu Ước được Tân Ước đưa ra mức hoàn chỉnh, nhờ Máu chiên tinh
tuyền chuộc lấy tất cả nhân loại, cho họ chung hưởng gia nghiệp của Thiên Chúa,
bằng giá Máu dành cho muôn người trong mọi thời đại (Kh 5,9).
Những hành vi này gợi lại nghi lễ
của Cựu Ước: “Máu Giao Ước” nhắc lại giao ước Sinai đã được ký kết trong Máu (Xh
24,8) xưa kia là máu tế vật, nay là hy tế mới Máu Đức Kitô sẽ đổ ra, để thực
hiện cách hữu hiệu sự hiệp thông vĩnh viễn giữa Thiên Chúa và con người. Như
thế lời hứa xưa, nay được hoàn tất trong Giao Ước mới. Đức Giêsu đồng hóa mình
như người “tôi trung đau khổ” (Is 53, 11) dâng hiến mạng sống như “hy lễ xá
tội” (Is 53,10). Nhờ đó, Ngài trở nên Đấng trung gian Giao Ước hầu làm sáng tỏ
đức công chính của Thiên Chúa, và nên ánh sáng chiếu soi muôn dân (Is 42,60).
√ Sống lại
Với nhóm môn đệ Đức Giêsu dù dã nghe
những lời loan báo về cái chết và sự sống lại của Thầy trước đó, nhưng đứng cái
chết và cuộc mai táng Thầy trong âm thầm kín đáo, với phiến đá kép cửa mồ lại,
tất cả đều dừng lại nơi mộ sâu giá lạnh, cùng với sự thất vọng ê chề và đầy
hoang mang. Rồi tin từ của hai người phụ nữ ra mộ vào lúc sáng sớm tinh sương
về loan báo “Thầy đã sống lại”, các ông không thể tin nổi, dù vậy họ cũng ra mồ
để kiểm chứng; và mắt họ chỉ là ngôi mộ trống, các ông đang còn kinh hoàng về
cái chết của Thầy, giờ các ông kinh ngạc trước sự kiện mồ trống, ngoại trừ môn
đệ Gioan, ông thấy và tin (Ga 20,8).
Với ân huệ Thánh Thần trong ngày lễ
Ngũ Tuần, các tông đồ mạnh dạn rao giảng công khai cho mọi người không chút sợ
sệt, nội dung của lời rao giảng là cái chết trên Thập Giá và sự Phục Sinh của
Đức Giêsu là đối tượng cơ bản của Đức Tin Kitô giáo. Các ông nhân danh Ngài mà
rao giảng, và chính Ngài là Đấng mang lại cứu độ cho mọi người và mọi thời đại,
“Chính anh em là những chứng nhân của những điều ấy” (Lc 24,48), không chỉ rao
giảng mà các môn đệ Đức Giêsu còn bị chất vấn, tra hỏi, tù đày và sau cùng là
cái chết để minh chứng và bảo vệ niềm tin vào Đấng Phục Sinh, và suốt dòng lịch
sử thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, biết bao con người rao giảng và làm chứng
cho niềm tin vào Đấng Cứu Độ dù họ có phải trả giá bằng tù ngục roi đòn hay
bách hại kể cả cái chết.
Cái Chết và cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu
Kitô là nền tảng không thể lay chuyển được của Đức tin Kitô giáo. Mầu nhiệm
Phục Sinh không phải là một lý thuyết trừu tượng, cũng không phải là một kinh
nghiệm mà ai có được, cũng không phải là việc hướng hy vọng của con người vào
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đây là một sự kiện được xác nhận bởi các chứng nhân,
những chứng nhân mà Thiên Chúa đã tuyển chọn và chuẩn bị cho nhiệm vụ này, khi
mời gọi họ chia sẻ cuộc sống và thừa tác vụ Chúa Giêsu[27].
Con
đường độc nhất để chúng ta đạt đến sự kiện lịch sử này là chứng tá của những
người loan báo Tin Mừng Cứu Độ, loan báo tình yêu đã thắng tội lỗi và cái chết,
trong cái chết và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô. Cuộc mạc khải ơn cứu độ do Ngài
thực hiện vẫn liên lỉ cần đến sự môi giới của lịch sử. Mặc dù mọi suy tư Thần
học đều liên kết với sự kiện này, vốn là mạc khải sung mãn của Thiên Chúa dành
cho loài người, và do đó sự kiện này mang tính chất dễ hiểu đối với con người,
có thể được diễn tả bằng lời, dù mạc khải này được xét theo sự tương hợp của nó
với chính sự kiện. Vì nếu Chúa Giêsu đã bị “trao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã
được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính”[28].
2.3. Con người được thừa hưởng ân
huệ của lòng thương xót
Đức Giêsu thiết lập nhóm mười hai
như nền tảng của dân Israel mới của Tân Ước, họ ở với Người, chứng kiến cái
chết và sự sống lại của Người, rồi trước khi rời khỏi các ông. Người truyền cho
các ông: “Anh em hãy đi và làm muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều
Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”[29]. Biến
cố lớn lao của ngày lễ Ngũ Tuần, trong tác động của Thánh Thần Giáo Hội được
khai sinh, như một cơ cấu hữu hình nhưng phục vụ cho mục tiêu và cùng đích vô
hình và thiêng liêng; cộng đoàn hữu hình quy tụ những người tin vào Chúa Kitô,
nhận lãnh phép rửa được hiệp thông với Đức Kitô, liên kết thành dân Chúa nhờ
vậy được tham dự cách thế riêng vào chức vụ tư tế ngôn sứ vương giả của Đức Kitô.
Nhằm liên kết và nuôi dưỡng lòng tin vào Đức Kitô, Cộng Đoàn tín hữu sơ khai
“Chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau,
siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). “Chắc chắn
trong mọi thời đại và mọi dân tộc, bất cứ người nào kính sợ Thiên Chúa và ăn ở
ngay lành đều được Người đoái thương (Cv 10,53). Tuy nhiên, Thiên Chúa không
muốn thánh hóa và cứu độ con người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài
muốn quy tụ họ thành một dân tộc, để họ nhận biết Nguời trong Chân lý, và phụng
sự Người trong thánh thiện. Vì thế, Người chọn dân Israel làm dân Người, thiết
lập với họ một giao ước, giáo huấn họ dần dần. Tuy nhiên, tất cả những điều ấy
chỉ là chuẩn bị và hình bóng của giao ước mới hoàn hảo sẽ được ký kết trong Đức
Kitô. Đó là Giao ước mới trong máu Người, Người triệu tập một dân đến từ dân Israel
và từ các dân ngoại, họp thành một khối duy nhất trong Thánh Thần”[30].
Kể từ cái chết và Sự Phục Sinh vinh hiển
của Đức Kitô, Ngài phá bỏ mọi hàng rào ngăn cách: “Tất cả chúng ta dù là Dothái
hay Hylạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí
duy nhất” (1Cr 12,13). Trong máu của Người, dân mới được thiết lập dành cho hết
mọi người không phân biệt, để tất cả nên một trong Đức Kitô, cùng chung chia
một lòng tin duy nhất, hầu “tất cả những ai kêu Danh Đức Chúa sẽ được cứu
thoát” (Rm 10,13). Niềm tin ấy có căn cội dựa trên những nền tảng vững chắc và
tinh tuyền nơi Tổ phụ Ápraham, ông không cậy dựa vào công việc mình làm hay
những gì luật dạy như một phương thế để nên công chính, nhưng “Ápraham đã tin
Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính” (Rm 4,3), lòng tin của người
tin Chúa gắn chặt vào lòng tin của tổ phụ “ông là người cha của mọi kẻ tin” (Rm
4,11) “và là tổ phụ của nhiều dân tộc” (Rm 4,17).
Qua Đức Giêsu Kitô, mọi người đều trở
thành đối tượng của ân huệ và lòng thương xót, mặc dù ơn huệ được ban tràn trề
nhưng không cho mọi tạo vật, nhưng lòng thương ấy cũng phải được con người đáp
lại như thiện chí cộng tác; trước hết là lòng tin kính Thiên Chúa duy nhất làm chủ vũ trụ muôn loài. Tin Đức Giêsu
Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu chết và sống lại, lên trời ngự bên hữu
Chúa Cha cũng là Đấng sẽ trở lại phán xét thế gian, lòng tin này được thể hiện
bằng việc “thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự
thật” (Ga 4,23). Tiếp đến, người tin Chúa gia nhập cộng đoàn Giáo Hội hữu hình
qua phép rửa tái sinh, nhờ lãnh nhận các Bí tích và suy ngắm Lời Chúa được nuôi
dưỡng và lớn lên mạnh nên người tín hữu trưởng thành, sống bác ái chia sẽ
khuyến khích nhau tuân giữ luật Chúa, và luyện tập nhân đức phù hợp với bậc
sống Người tin Chúa Kitô.
II. Thần học
1. Lòng nhân hậu là một sáng kiến từ Thiên
Chúa qua Con một
1.1. Sáng kiến Thiên Chúa
Lịch sử
cứu độ cũng là lịch sử hòa giải[31];
Thiên Chúa là Cha, đã hòa giải thế giới với mình trong Chúa Con, Ngôi Lời Nhập
Thể. Nhờ đó nhân loại trở thành một gia đình được hòa giải. Hội Thánh có sứ
mạng phục vụ công cuộc hòa giải mà Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô. Thực
ra, chính Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha đầy yêu
thương, một người cha không ngừng yêu thương đứa con lầm lạc và sẵn sàng tha
thứ khi nó quay trở về. Thiên Chúa luôn trung tín với tình yêu, cho dù con
người có bất trung, phản bội. Tình thương này được sáng khởi từ phía Thiên Chúa
đã được thực hiện cụ thể và hiển nhiên trong công cuộc cứu độ của Đức Kitô,
rộng tỏa khắp thế giới nhờ tác vụ của Hội Thánh.
1.2. Mầu nhiệm vượt qua là trung tâm
lòng thương xót của Thiên Chúa
Bí tích Hòa Giải được Chúa Giêsu
thiếp lập cách riêng để ban ơn tha thứ tội lỗi mà các tín hữu đã phạm sau khi
lãnh Phép rửa. Công hiệu của tất cả các bí tích đều bắt nguồn từ một mạch duy
nhất, đó là mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô “sự hữu hiệu của các bí tích là do
sức cứu độ của công cuộc Chúa Kitô đã thực hiện một lần là đủ” (GLGHCG, số
1128). Trên Thập giá, Thiên Chúa đã bày tỏ sự công minh và khoan nhân: Người
kết án tội lỗi qua hy lễ xá tội của Đức Kitô (x. 2Cr 5,21), nhưng ngược lại,
Người bày tỏ lòng khoan nhân bởi vì qua hy lễ ấy: “Thiên Chúa cất đi tội lỗi.
Vì tội lỗi là điều làm cho con người trở thành thù nghịch của Thiên Chúa. Cũng
thế, sự đau khổ mà Đức Kitô tự nguyện chịu là một điều tốt lành lớn lao đến
mức. Khi thấy điều tốt lành ấy, Thiên Chúa được nguôi lòng, không còn bị xúc
phạm vì mọi xúc phạm của nhân loại”[32]. Qua
cuộc Phục sinh của Chúa Kitô, Người đã ban Thánh Thể, sức mạnh chiến thắng tội
lỗi và sống cuộc đời mới. Bí tích Hòa Giải thông ban cho ta ơn hòa giải được
thực hiện từ biến cố Vượt Qua của Đức Kitô.
Tiếc
thay, trong quá khứ ta hay nhấn mạnh đến quyền “cầm buộc” và tháo cởi”; đến
tính cách “phán xét” của bích tích này. Tông huấn Sám hối và Hòa giải nêu rõ:
“Bích tích này là một hành vi pháp lý; nhưng hành vi này diễn ra trước một tòa
án xét xử tình thương xót hơn là lượng công chính nghiêm khắc, cho nên tòa án
chỉ giống tòa án phàm nhân theo loại suy mà thôi”[33].
Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo xếp bí tích này vào các bí tích “chữa lành”
việc chữa lành vừa hàn gắn vết thương vừa phục hồi sức để làm lại cuộc
đời.
1.3. Bí tích của tình thương
Công Đồng Vaticanô II, trong
Hiến chế Lumen Gentium có nói: “Những ai đến nhận lãnh bí tích Cáo Giải đều
được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Ngài. Đồng thời họ được giao
hòa cùng Giáo hội mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Nhưng Giáo hội hằng nỗ lực
lấy đức ái, gương lành và kinh nguyện để hoán cải họ” (số 11).
Đoạn Tin Mừng Matthêu
18,15-18;21-22 có thể nói là cốt lõi của bí tích Hòa Giải, vì đó là chỉ dẫn
cách thức của việc thực thi lòng mến. Trong cộng đoàn, nếu có người anh em nào
trót phạm tội, dĩ nhiên là tội nặng, thì hãy sữa dạy, làm cho họ hồi tâm lại mà
quay về với Thiên Chúa trong ăn năn sám hối. Nếu thất bại, hãy lập một nhóm
huynh đệ và cũng đối xử như thế với họ. Nếu tiếp tục thất bại thì mới đưa ra
cộng đoàn. Cộng đoàn sẽ loại người ngoan cố ấy ra khỏi sự hiệp thông nhưng vẫn
mong chờ có ngày sẽ nhận lại người ấy trong sự hòa giải. Đó là cách cư xử đối
với người phạm đến Thiên Chúa.
Chúa Giêsu bảo đảm rằng hết những gì Hội
Thánh dưới đất làm đối với tội lỗi và các tội nhân thì cũng được Thiên Chúa
chuẩn nhận. Cộng đoàn Hội Thánh cũng phải họp nhau cầu nguyện và xin Chúa ban
ơn sám hối cho người anh em lạc lối và đoan chắc rằng lời cầu nguyện sẽ có hiệu
lực bởi vì Người tác động và hiện diện trong cộng đoàn (x. Mt 18,20; 28,20).
Không lạ gì khi Thánh sử Mátthêu là người duy nhất nhắc đến sự hiện diện đặc
biệt của Chúa Giêsu trong cộng đoàn tín hữu, lúc bàn về sự hòa giải. Sự hiện diện
của Chúa giữa anh em Người được xác quyết mạnh mẽ. Đó cũng là một sự ủy nhiệm
Người trao cho cộng đoàn đang hình thành: “Thầy bảo thật anh em, dưới đất, anh
em cầm buộc những gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”[34].
Rõ ràng những lời trên không nhắm
trước hết cho những người đồng thời với Chúa Giêsu: Người ở giữa họ và chẳng
cần phải nhấn mạnh đến sự hiện diện ấy khi họ họp nhau lại. Sứ điệp ấy nhắn gởi
các cộng đoàn sau khi Chúa sống lại. Đời sống của họ được biểu lộ đặc biệt qua
sự tha thứ và mọi người họp nhau lại để cầu nguyện, đời sống ấy quả là nơi Chúa
hiện diện cách đặc biệt.
Thánh Mátthêu nhấn mạnh đến lệnh
truyền, sự hiện diện của Người và đời sống cộng đoàn, nhất là khi cộng đoàn thi
hành “quyền tháo cởi hay cầm buộc” cũng phải thể hiện lòng nhân hậu của Thiên
Chúa đối với hối nhân. Vì Thiên Chúa dẫn đưa những người được cứu độ đến với
Hội Thánh (x. Cv 2,47). Và mỗi hối nhân là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa.
Cộng đoàn đã được lòng thương xót của Người triệu tập, là cộng đoàn đã được
thương xót và đồng thời cũng là dụng cụ của lòng thương xót của lòng thương xót
ấy. Cho nên, cộng đoàn ban tặng ơn tha thứ cho anh em mình cách quảng đại và
nhân ái: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”[35].
Đối với thánh Gioan, sau khi Phục
sinh, Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ sự bình an và sai họ đi tiếp tục sứ mạng
của mình: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21).
Người thổi hơi trên họ, chuyển thông Thánh Thần cho họ, Thánh Thần ban sinh lực
mới và bình an (x. Ed 37,1-14). Trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu nói với các môn
đệ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người
ấy bị cầm giữ”[36].
Ở đây chúng ta phải hiểu việc tha
thứ tội lỗi không chỉ giới hạn ở việc Phép Rửa cho những dự tòng nhưng cả việc
tha tội cho những Kitô hữu sau khi lãnh nhận Phép rửa “Người đã thiết lập bí
tích Sám Hối trong Hội Thánh, để các tín hữu phạm tội sau khi chịu Phép rửa,
nhờ ơn tái ban, được giao hòa với Thiên Chúa”[37]. Quyền
này được Chúa Phục sinh trao ban cho các môn đệ, nhưng chắc chắn không chỉ giới
hạn vào số người hiện diện trong nhà Tiệc ly lúc ấy; quyền tha tội sẽ được tiếp
tục duy trì trong các cộng đoàn trải qua mọi thời đại.
2.
Bí tích Hòa Giải như là Mầu nhiệm Vượt Qua
2.1. Bí tích Hòa Giải và Mầu nhiệm Vượt Qua
Lịch sử cứu độ phát xuất từ
sáng kiến trong ý định muôn đời của Thiên Chúa và đã được can thiệp trực tiếp
vào lịch sử của con người. Sự can thiệp này phát xuất từ tình yêu vô biên và
nhưng không của Thiên Chúa Thương Xót. Người mong muốn và mời gọi mọi người
hiệp thông với Người và với tất cả anh chị em mình.
Bí tích Hòa
Giải không phải là một hành vi tâm lý nhằm giải tỏa gánh nặng lương tâm, cũng
không phải là một hành vi luân lý nhằm sửa chữa sự đổ vỡ do điều ác gây ra.
Nhưng trước hết, đó là một hành vi siêu nhiêu, một hành vi tôn giáo, là sự đáp
trả tình yêu của Thiên Chúa nhập thể trong lịch sử nhân loại. Chính trong sự
đáp trả ấy bắt nguồn từ sáng kiến và tình thương của Thiên Chúa lôi kéo hối
nhân qua Hội Thánh Người. Hội Thánh bày tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa qua
nhiều cách thức khác nhau, nhất là qua việc loan báo Tin Mừng Tình thương, hòa
giải và tha thứ. Sứ điệp này đánh động và thay đổi chiều sâu nội tâm của hối
nhân. Ân sủng của Thiên Chúa sẽ tác động tâm hồn, củng cố đức tin và dẫn dắt
từng bước trên con đường hoán cải để hối nhân có thể đón nhận lòng thương xót
của Thiên Chúa. Cuối cùng qua dấu chỉ bí tích, Thiên Chúa ban cho hối nhân ơn
hòa giải để sống thân mật với Người.
Ơn tha tội của Thiên Chúa được ban cho
nhân loại một lần duy nhất nơi Thập Giá Đức Kitô. Biến cố Vượt Qua của Đức Giêsu
là biến cố duy nhất bao gồm Tử Nạn-Phục Sinh và Lên Trời. Trong biến cố này, có
một hồng ân cao cả nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người, và đáp trả trọn vẹn
nhất của loài người dâng lên Thiên Chúa nơi Đức Kitô vâng phục và chết trên
Thập Giá. Vì Đức Kitô đã dâng hiến trọn vẹn bản thân cho Thiên Chúa nên Thiên
Chúa đã tôn vinh Người, đặt Người làm Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là một cái
chết lịch sử nhưng lại vượt trên lịch sử, đưa con người tới chỗ hoàn tất viên
mãn. Chính vì thế, nó đã trở thành bất diệt, có giá trị cứu độ cho mọi thời đại
và mọi nơi.
Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, sự
chiến thắng tội lỗi của Người vẫn hiện diện cách huyền nhiệm nơi Hội Thánh là Bí
tích của Đức Kitô Phục Sinh. Sự hiện diện này là động lực làm cho Hội Thánh
luôn hướng về sự Hoàn Tất Cánh Chung. Mỗi bí tích là một hành vi mà Hội Thánh
biểu lộ cách đặc biệt lòng nhân hậu của Thiên Chúa bằng sự hiện diện tác động
của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô trong lịch sử nhân loại. Sự biểu lộ lòng
nhân hậu này mang hai chiều kích: biểu lộ tình yêu thần linh của Đức Kitô đối
với loài người và tình yêu nhân loại của Đức Kitô đối với Thiên Chúa. Do đó,
mỗi bí tích đều là một biến cố Vượt Qua, biểu lộ và thể hiện cơ cấu bí tích của
Hội Thánh đối với mỗi người trong từng hoàn cảnh cụ thể của họ. Nhờ đó, họ được
liên kết với biến cố Vượt Qua của Đức Kitô và được cứu độ. Bí tích Hòa Giải cũng
thế, trước khi nghĩ đến ơn được tha tội, hối nhân phải nghĩ ngay đến hành động
chết và sống lại của Đức Kitô mà họ và Hội Thánh đang tái diễn, nhờ đó mới có
ơn tha tội và các ân sủng khác.
2.2. Chiều kích Vượt qua của bí tích
Hòa Giải
Khi bàn về mối liên hệ giữa biến cố Vượt Qua của
Đức Giêsu và việc cử hành bí tích Hòa Giải, các tác giả cũng giải thích khác
nhau tùy theo quan điểm của mỗi người về bí tích này. Để giải thích chiều kích
Vượt Qua của bí tích Hòa Giải, một số tác giả khởi đi bằng cái nhìn có tính
cách “tòa án”. Bí tích này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa hối nhân và Thiên Chúa làm
cho việc cử hành bí tích này xảy ra đồng thời với biến cố Vượt Qua của Đức Kitô.
Bởi vì, cái chết của Đức Giêsu trên thập giá cũng là việc xử án của Thiên Chúa,
một bản án đối với tội lỗi, một cuộc luận phạt tội lỗi của thế gian. Tuy nhiên,
với việc phục sinh của Đức Kitô thì bản án đã được đổi chiều, thay vì kết án nó
lại biến thành bản ân xá và đưa hối nhân từ sự chết đến sự sống. Vì vậy, bí
tích Hòa Giải là một bí tích mang dấu hiệu tưởng niệm cuộc luận phạt của Thiên
Chúa trên tội lỗi được thực hiện trong sự chết và sống lại của Đức Kitô.
Hơn nữa, trong bí tích Hòa Giải,
lòng nhân hậu của Thiên Chúa ban cho hối nhân còn trổi vượt hơn sự lên án, vì
hối nhân chấp nhận tội của mình bị kết án qua cái chết của Đức Kitô và được làm
hòa với Thiên Chúa qua cuộc Vượt Qua của Người. Cách giải thích trên là một cố
gắng khi đề cập đến chiều kích Vượt Qua của bí tích Hòa Giải. Việc giải thích
trên cho thấy tính cách mầu nhiệm của việc tha thứ các tội và việc lên án tội
lỗi có tính cứu độ, hoàn toàn khác xa tòa án ngoài xã hội.
Theo các nhà chú giải Thánh Kinh
ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa biểu lộ và thể hiện qua cái chết của Đức
Kitô không phải là sự công chính mang tính cách báo thù nhằm trừng phạt tội
nhân, nhưng sự công chính của Thiên Chúa có tính cứu độ, và cho thấy lòng trung
thành cũng như yêu thương của Người. Tình yêu của Thiên Chúa chỉ muốn và chỉ
thực hiện là làm cho hối nhân nên công chính, khi Thiên Chúa chấp nhận sự vâng
phục của Đức Kitô cho đến sự chết như là bằng chứng cho việc nhân loại vâng lời
để được thoát khỏi mọi tội. Sự công chính của Thiên Chúa làm cho con người nên
công chính và cứu độ nhân loại là sự công chính đầy yêu thương nhân hậu và
trung thành đối với con người, khi Thiên Chúa thực hiện sự công chính này trong
cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.
Với cái nhìn bí tích Hòa Giải như
là một tòa án, vì thế, một số nhà thần học đã đưa ra một lối giải thích khác về
chiều kích Vượt Qua của bí tích Hòa Giải. Lối giải thích này khởi đi từ cái
nhìn về cơ cấu và ý nghĩa nền tảng của bí tích. Với thời gian, bí tích Hòa Giải
có những hình thức bên ngoài thay đổi những điểm chính yếu trong cách cử hành như
cử hành của Hội Thánh lo cho hối nhân trở về hòa giải với Người và với Hội
Thánh. Việc hòa giải này được thực hiện qua Hội Thánh và trong Hội Thánh theo
lệnh truyền của Thiên Chúa.
Dấu hiệu bên ngoài được cấu tạo do
hành động sám hối của hối nhân và lời tha tội của thừa tác viên. Các hành động
của hối nhân được biểu lộ ra bên ngoài và cụ thể là sự nỗ lực trở về của hối
nhân. Còn hành vi tha tội cách hữu hiệu biểu lộ ra bên ngoài tình yêu nhân từ
thương xót của Thiên Chúa trong Chúa Kitô, để đáp ứng lại hành vi sám hối nhân
và chính hành vi sám hối trở về này cũng đã là một ân huệ của Thiên Chúa ban
cho hối nhân rồi.
Qua
việc cử hành này, Hội Thánh được Chúa Thánh Thần của Đức Kitô hướng dẫn, chiến
đấu để đạt tới chiến thắng chống lại tội lỗi nơi các phần tử của mình, cũng như
thế giới. Đồng thời Hội Thánh cũng cộng tác tích cực trong việc hòa giải họ với
Thiên Chúa và với nhau, nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần. Như vậy, bí tích
Hòa Giải trước tiên là dấu hiệu của một cuộc trở lại và việc hòa giải những hối
nhân đang thực tâm sám hối trước mặt Chúa và với tha nhân.
Từ
ý nghĩa đầu tiên và nền tảng này của bí tích Hòa Giải, chúng ta nhận ra cuộc
gặp gỡ giữa hối nhân và mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Bí tích Hòa Giải là một
dấu hiệu tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô: Người chấp nhận chịu
chết trên Thập giá như dấu hiệu cao cả nhất của tình yêu và sự vâng lời đối với
Thiên Chúa để cứu độ nhân loại. Nghĩa là việc chịu chết này được coi như là
dấu hiệu yêu thương của Con Người hướng về Thiên Chúa và tha nhân.
Bí tích Hòa Giải còn là dấu hiệu
tưởng niệm biến cố Vượt Qua của Đức Kitô, vì đây là việc hòa giải nhưng không
của con người tội lỗi với Thiên Chúa và với nhau. Hơn nữa, đây là dấu hiệu
tuyệt đỉnh của tình yêu nhân từ của Thiên Chúa đầy lòng trung tín. Trong sự
chết và sống lại của Chúa Kitô, Con Một Yêu Dấu, Thiên Chúa ký kết một giao ước
mới vĩnh viễn và hòa giải họ lại với nhau. Hiểu như vây, chúng ta sẽ ý thức
việc xưng tội và lãnh nhận ơn tha tội không chỉ là việc làm riêng tư giữa
“Thiên Chúa và tôi” nhưng là một việc có liên hệ tới biến cố Vượt Qua của Đức Kitô.
Chính nhờ biến cố này mà bí tích Hòa Giải có được tất cả hiệu lực để tha tội và
hòa giải. Trong khi thực hiện cuộc Vượt Qua. Chúa Giêsu chấp nhận cái chết như
Chúa Cha muốn. Sự chấp nhận này đã chiến thắng sự bất tuân của loài người đối
với mệnh lệnh và chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Khi con người chấp nhận
việc sám hối các tội lỗi của mình và quyết tâm quay trở về với Thiên Chúa thì Hội
Thánh và hối nhân chấp nhận điều Đức Kitô đã thực hiện trên Thập Giá xưa. Việc
chấp nhận này được coi như hành động yêu mến, vâng lời, quay trở về với Thiên
Chúa và với người khác. Hành động sám hối này cũng được coi như là một thái độ
xa lìa tính ích kỷ cố chấp của mình. Đó là những điều làm cho con người đóng
kín lòng trước các yêu sách của tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Bí tích Hòa Giải cũng là dấu hiệu
biểu lộ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, vì tình yêu nhân từ thương xót của Thiên
Chúa được thể hiện hữu hình qua các dấu hiệu bên ngoài và qua việc Hội Thánh
trung thành với sứ mạng rao giảng lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là lời tha
thứ và thanh tẩy hòa giải với Thiên Chúa, tất cả liên kết chặt chẽ với hành vi
sám hối của hối nhân khi quyết định quay trở về Thiên Chúa và Hội Thánh.
Ngoài mục đích tưởng niệm và biểu lộ
biến cố Vượt Qua của Đức Kitô, bí tích Hòa Giải còn là dấu hiệu tiên báo mầu
nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô trong ngày Cánh chung. Qua việc cử hành bí tích
này, Hội Thánh cử hành các dấu hiệu cho thấy chiến thắng của Đức Kitô trên tội
lỗi và làm cho chiến thắng này được thành toàn trong ngày sau hết. Bí tích Hòa
Giải như là biến cố Vượt Qua của Đức Kitô làm nổi bật tình yêu nhưng không của
Thiên Chúa đối với con người tội lỗi. Tình yêu ấy được tiếp nối qua việc cử
hành của Hội Thánh. Hội Thánh cử hành bí tích Hòa Giải để làm tan biến tội lỗi
nơi hối nhân và trả lại tình trạng ơn thánh nơi họ. Bề ngoài, việc đi xưng tội
và linh mục giải tội xem ra có tính cách máy móc và có vẻ như là ma thuật với
một cách thế vừa kín đáo bí mật lại vừa đơn giản công khai, nhưng thực sự tất
cả (linh mục giải tội và hối nhân) đang làm lại biên cố Vượt Qua của Đức Kitô.
Chính nhờ Mầu nhiệm này, mà các hiệu quả tha tội, giao hòa với Thiên Chúa và
được nhận lại ơn thánh mới có thể thực hiện được và tất cả đi vào trong đời
sống người tín hữu và làm nên cuộc đời họ.
2.3. Bí tích Hòa Giải và mầu nhiệm Ba
Ngôi
Khi nói đến chiều kích Vượt
Qua của bí tích Hòa Giải, chúng ta cũng nói tới chiều kích Ba Ngôi của bí tích
này. Vì khi hối nhân tháp nhập vào biến cố Vượt Qua của Đức Kitô là họ được
giao hòa và được gặp gỡ Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta đã tìm hiểu lòng nhân hậu
của Thiên Chúa trong Thánh Kinh qua tư tưởng của thư gởi tín hữu Do thái về
hành vi tự nguyện của Chúa Giêsu để đem ơn cứu độ cho nhân loại. Nói theo thánh
Gioan: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người đã hy sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những
điều Thầy truyền dạy”[38]. Theo
thư thứ nhất của thánh Phêrô: “Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1Pr
4,8). Tình yêu thì không cố chấp, không tính toán gì cả, mà chỉ có cho và tha
thứ mà thôi[39].
Như vậy trong bí tích Hòa Giải,
chúng ta đón nhận tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống cho những người mình yêu.
Tình yêu này đã phục hồi sự sống mà chúng ta đã đánh mất khi phạm tội. Sự sống
của chúng ta được phục hồi nhờ việc tiếp xúc với Đức Kitô Phục sinh, nhận lãnh
Thánh Thần từ Đức Kitô Phục Sinh. Trong bí tích này, chúng ta đón nhận nước và
máu chảy ra từ cạnh sườn của Chúa. Tha tội là hành vi của Chúa Cha giàu lòng
thương xót, Đấng luôn luôn yêu dấu chúng ta, dù chúng ta bất trung nhưng Người
vẫn chờ đợi và tìm kiếm chúng ta để tha thứ. Đối với hối nhân, tình yêu biểu lộ
cụ thể nhất qua ơn tha thứ. Tha thứ là bảo chứng của tình yêu quảng đại, tình
yêu không nghĩ đến bản thân, không nghĩ tới sự xúc phạm. Tình yêu luôn tha thứ
là một tình yêu không tự ái và vô điều kiện[40].
Trong sự tự hiến của Đức Kitô, chính
Chúa Cha đã tự hiến cho chúng ta bằng cách ban Con Một của Người cho chúng ta.
Chính Chúa Giêsu đã tự hiến để biểu lộ trọn vẹn nơi Thập giá Đức Kitô. Trong bí
tích Hòa Giải, tình yêu được biểu lộ bằng sự tha thứ, sự quên mình hoàn toàn
của Thiên Chúa. Điều quan trọng là nhân loại và cả vũ trụ vạn vật được giao hòa
trở lại với Thiên Chúa Tạo Thành. Sự giao hòa này được thể hiện nơi Đức Kitô mà
Máu Giao Ước Mới đổ ra cho muôn người được tha tội.
Công cuộc giao hòa cũng là công việc
của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng nối kết Chúa Cha với Chúa con
trong biến cố Vượt Qua của Đức Kitô, Người cũng nối kết nhân loại với Chúa Cha
và Chúa Con. Trong việc trở về của hối nhân, chính Người thúc đẩy và theo đuổi
hối nhân trong những cố gắng “đứng dậy” và nhất là giúp đỡ hối nhân dứt bỏ được
tội lỗi. Người hòa giải hối nhân với Ba Ngôi Thiên Chúa qua việc hòa giải với
Hội Thánh. Trong tác động hòa giải này, tình yêu của Ba Ngôi liên kết các tín
hữu lại với Chúa Cha và Chúa Con. Người là tình yêu hoạt động trong Hội Thánh
để loan báo hữu hiệu Tin Mừng sự trở về và tha thứ tội lỗi do Hội Thánh thực
hiện. Chúa Thánh Thần cũng làm cho lời xá giải của linh mục đọc lên khi tha tội
được trở nên thành hiệu.
Tất
cả những điều này giúp cho mỗi tín hữu ý thức hơn về tính cách mầu nhiệm của bí
tích Hòa Giải. Đây không phải là một hành vi tòa án, công bằng theo quan niệm
thông thường của con người, hoặc như một cách thế thổ lộ tâm tình trong phạm vi
tâm lý để nhờ đó mà con người có lại sự bình an. Đây cũng không phải là một
nghi lễ cử hành có tính cách ma thuật đem lại sự bình an. Trước tiên, đây là
một biến cố tôn giáo, một bí tích mang lại ơn cứu độ, một cuộc Vượt Qua mà hối
nhân sẽ gặp gỡ, đụng chạm, nếm cảm được lòng thương xót của Ba Ngôi Thiên Chúa
qua tác vụ của Hội Thánh.
III. Việc mục vụ của Bí tích Hòa Giải
1.
Cha giải tội
Dựa theo Giáo luật 1983 thừa
tác viên của Bí Tích Hòa Giải phải là người có chức tư tế thừa tác[41], ngoài
quyền thánh chức đương sự còn phải được hưởng năng quyền thi hành quyền thánh
chức đối với các tín hữu, do luật định hoặc do nhà chức trách có thẩm quyền cấp
ban, thì việc xá giải mới có hữu hiệu[42].
Cũng như khi dâng thánh lễ và cử hành
các Bí tích, vị Linh mục thực hiện giao hòa cùng hiệp thông với và trong “in
persona Christi” qua cử hành của linh mục khi thực hiện việc xá giải, chính
Chúa Kitô cũng hiện diện và hoàn tất mầu nhiệm tha thứ ấy. Trong Tông Huấn Hòa
Giải và Sám hối, Đức Gioan Phaolô II nhìn nhận khi linh mục thi hành chức năng
Hòa Giải: “Đây là tác vụ khó khăn nhất, tế nhị nhất, tổn sức nhất và đòi hỏi
cấp thiết nhất của linh mục, nhưng cũng là một tác vụ cao đẹp và an ủi nhất và
ngài khuyên những vị có trách nhiệm hãy thi hành tác vụ này cách trung thành và
cần mẫn”[43].
Cha giải tội được mời gọi đóng vai trò
cao quí là phục vụ Sám hối và Hòa Giải, ngài có nhiệm vụ học biết những yếu
đuối và sa ngã của các tín hữu, nâng đỡ lòng ao ước và ý muốn đổi mới cũng như
lỗ lực thực hiện những thiện ý ấy. Ngài còn phải biết phân định tác động của
Thánh Thần trong tâm hồn hối nhân, sẵn lòng ban ơn tha thứ với ý thức mà chỉ
một mình Thiên Chúa ban cho, đồng thời hãy lấy tình cha mà khuyên nhủ và khích
lệ hối nhân, sẵn lòng tha thứ và giao hòa họ với Chúa.
Ngoài ra, giả thiết rằng các linh mục
đã được huấn luyện có đủ những đức tính nhân bản khôn ngoan, kín đáo, tử tế,
nhất là sự cương nghị hòa trộn với sự nhã nhặn; chuẩn bị kiến thức như: thần
học vững chắc, khoa sư phạm, tâm lý, biết đối thoại, hiểu biết Lời Chúa cách
sống động, đồng thời còn có khả năng chuyển thông lời Chúa cách hiệu quả thích
hợp. Nhưng trên hết, các linh mục phải là những người trải qua những kinh
nghiệm thiêng liêng sâu lắng, nhờ việc cầu nguyện, thực hành những nhân đức đối
thần và luân lý. Vì là người hướng dẫn tín hữu trên hành trình trọn lành, không
chỉ bằng lời nói nhưng bằng chính việc năng lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải và nhận
cách sốt sắng.
Ngày nay việc lãnh nhận Bí Tích Hòa
Giải tại Tây phương suy giảm, thưa thớt người đón nhận; riêng tại Việt Nam số
người tham dự Bí Tích Hòa Giải vẫn đông đảo nhất là những dịp lễ trọng, tại
những miền quê người tín hữu vẫn sốt sắng lãnh nhận Bí Tích này. Cả hai trường
hợp đều nói lên hai thái cực khác nhau. Và nơi bản thân linh mục rất dễ nhận ra
những điều khác biệt đó: nơi thì nhàm chán do không có người đến với Bí Tích
Giao Hòa. Nơi thì quá tải với số người xưng tội quá đông, linh mục ngồi tòa lâu
trở nên mệt mọi rã rời. Một yếu tố khác do công việc âm thầm dẫn đến nhàm chán
đơn điệu, ngoài ra còn nghe đi nghe lại những tội quen thuộc, không thấy có
những dấu hiệu tiến bộ, như những yếu tố đan dệt chi phối lẫn nhau khiến cho
việc chuẩn bị nội tâm, và chăm sóc thiêng liêng cũng trở thành lỏng lẻo. Họ cố
gắng làm đúng nghi thức qui định đã là may, lâu dần thành máy móc sơ cứng mất
sức sống và ơn ích thiêng liêng.
Bên cạnh đó, khi cử hành bí tích Hòa
Giải, vị linh mục giải tội phải ra sức hoàn thành tốt bốn vai trò thiêng liêng
này: vị thẩm phán từ tâm; lương y giàu kinh nghiệm chữa trị; thầy dạy khôn
ngoan và sau cùng một cõi lòng rộng lượng của một người cha, qua đó giúp người
lãnh nhận Bí Tích cảm thụ được lòng nhân ái, hay thương xót và tha thứ của
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Ngoài ra lời xá tội giải tội trong
nghi thức cũng thực sự trở thành lời chan chứa Tình yêu thương vô bờ của Thiên
Chúa, được cất lên từ môi miệng của cha giải tội cách dõng dạc, chậm rãi với
những chỗ cần thiết cũng góp phần giúp hối nhân thêm lòng sốt sắng để lãnh
nhận, ý thức sâu sắc sự tha thứ, giao hòa với Chúa và Giáo Hội.
Ngày nay, dù có những ý kiến trái
ngược hoặc căn cứ vào yếu tố lịch sử của việc xưng tội công khai lúc sơ khai,
hoặc lý do thực tế quá đông người xưng tội mà không giải quyết được, như một
nhu cầu chính đáng biện hộ cho việc xá giải tập thể. Giáo luật 1983 xác định:
“Việc thú tội cá nhân và toàn vẹn cùng với việc xá giải tội nên một phương cách
duy nhất và thông thường, nhờ đó người tín hữu ý thức mình có tội nặng được Hòa
Giải với Thiên Chúa và Giáo Hội. Chỉ sự bất khả kham về thể lý hay luân lý mới
chuẩn khỏi thú tội như vậy; trường hợp ấy người ta có thể lãnh ơn Hòa Giải bằng
cách khác”[44].
Trong Tông thư dưới hình thức tự sắc “Misericordia Dei” Lòng Thương Xót Chúa,
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành ngày 7/04/2002, tái xác nhận tư tưởng
trên.
Tuy nhiên, Luật cũng dự liệu trong
trường hợp khẩn thiết trầm trọng hay những lý do mà vị thường quyền cho phép
thực hiện việc xá giải tập thể, thì sau đó bó buộc đương sự vẫn phải xưng lại
những tội nặng mình đã phạm mà chưa xưng thú cách cá nhân[45]. Trước
đây, người ta chú ý quá nhiều vào vai trò linh mục như yếu tố chính trong việc
giải tội như: lòng đạo đức, tình trạng hiện tại của người ban Bí Tích, nhưng
với công đồng Vaticanô II, nhấn mạnh đến vai trò người tín hữu và tính cộng
đồng của việc lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải.
2. Hối nhân
Bí Tích Hòa Giải là con đường
bình thường, đơn giản nhất để người tín hữu được tha thứ các tội trọng vấp phạm
từ sau ngày rửa tội. Người tín hữu cần ra sức khám phá dấu hiệu lòng tin, sự
khiêm nhường và lòng quý trọng đối với Bí Tích Giải Tội, đồng thời coi Bí Tích
ấy như một phương thế hữu hiệu nhờ đó sức mạnh cứu chuộc của Chúa được chuyển
thông và tác động nơi mình. Vì thế, việc lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải phải được
thực hiện cách thấm nhuần niềm tin, không phải âu lo nhưng đầy tin tưởng và hy
vọng, vì tin rằng qua đó ta được tiếp xúc với Lòng Thương Xót Khoan Nhân của
Thiên Chúa.
Trước đây người muốn lãnh nhận Bí
Tích Hòa Giải phải thực hiện những việc sau đây: 1 xét mình, 2 ăn năn tội hay
dốc lòng chừa, 3 xưng tội, 4 đền tội. Theo giáo lý Hội Thánh: “Tội nhân phải tự
nguyện thì hành động đầy đủ những việc sau: Thật lòng ăn năn, xưng tội, khiếm
tốn và thành tâm đền tôi”[46]. Tuy
không đề cập đến xét mình, nhưng thiết tưởng không thể trải qua những giai đoạn
sau, nếu người ta không hồi tâm xét mình và mong được Hòa Giải. Dù vậy, Giáo
Hội cho thấy hai yếu tố cơ bản: ăn năn tội cách trọn, và thực hiện việc đền
tội, vừa thể hiện thiện chí của hối nhân, vừa là điều kiện để ơn tha thứ được
hữu hiệu như một việc thiện để bù lại những tội lỗi do mình gây nên.
Đi vào đời sống đạo thực tế cho ta
thấy có những lỗ hổng tuy nhỏ bé nhưng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài; trước
hết trình độ giáo lý của tín hữu xưa nay chỉ được xem như “đối phó” đủ chuẩn để
lãnh các Bí Tích cho qua rồi thôi. Ngay các em nhỏ cũng vẫn còn kiểu học giáo
lý nhằm lãnh nhận Bí Tích. Thông thường thì khi các em lãnh phép Thêm Sức xong,
các em không còn muốn tiếp tục học Giáo lý nữa. Kế đến, lãnh các bí tích theo
thói quen, không nhận thức đầy đủ về luân lý Kitô giáo, mất sự nhảy cảm về tội,
nhìn việc xưng tội như một công việc không tương hợp giữa người với người, xấu
hổ ngại ngùng vì mình thú tội cho một người phàm như mình. Điểm khác nữa là con
người ngày nay chạy theo nhịp sống vội vàng, ồn ào của tiếng động, khiến người
ta sợ hãi cõi thinh lặng, dù thinh lặng được xem như môi trường tốt để con
người hồi tâm và sửa đổi. Vì thế, việc xét mình nhìn lại chính bản thân mình,
hình như đã bị đánh mất ý nghĩa nội dung
chứa đựng trong những từ ấy. Con người ngày nay có thể ồn ào và khuấy động suốt
ngày không nghỉ ngơi. Nhưng họ vẫn không thể, hay rất ít có thời gian dành cho
sự tĩnh lặng nội tâm thật sự. Đó là sự thật đáng cho các Mục tử cần quan tâm và
tìm cách uốn nắn đàn chiên thuộc về mình, hầu giúp những tín hữu khi lãnh nhận
các bí tích nói chung, đặc biệt với bí tích Hòa Giải, họ cần được chuẩn bị một
cách thích đáng, không phải chỉ để cho việc lãnh nhận bí tích được thành sự, mà
còn giúp họ tìm thấy động lực khởi đi từ chính cõi lòng của họ, thật sự khao
khát ơn sủng thánh hóa của lòng Chúa thương xót. Sau cùng nhờ sự tác động nội
tâm họ sẽ thực hiện việc đền tội cách xứng hợp, với ý thức bù lại những thiếu
sót mình đã gây nên.
3. Nhận định
Khi dọn mình cho người lãnh
nhận các bí tích, việc chuẩn bị nội tâm phải được dành ưu tiên, vượt trên những
tổ chức mang tính hình thức bên ngoài, thậm chí cả việc chỉ chăm chú sao cho
đúng luật chi li, mà không chú ý giúp hối nhân những ý hướng và chọn lựa nội
tâm phù hợp với bí tích lãnh nhận. Hơn nữa cần khích lệ họ nỗ lực cộng tác với
ơn Chúa để sống những giá trị Tin Mừng Cứu Độ. Trong bí tích Hòa Giải, ngoài
việc người tín hữu xét mình và thành tâm hối hận những sai lỗi đã vấp phạm, như
điều kiện đủ để lãnh ơn xá giải qua cha giải tội, thiết nghĩ những lời khuyên
của thừa tác viên cũng góp phần quan trọng cho hướng đi tương lai của hối nhân,
nhưng cũng phải tin tưởng vào yếu tố tác động của ơn thánh có sức làm chuyển
hướng, thay đổi từ nếp sống tiêu cực sang tích cực, từ bỏ tội lỗi bước vào nếp
sống tốt lành, để giục lòng tin tưởng cậy trông và mến Chúa.
Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người
trong sự liên đới với nhau, Giáo Hội được thiết lập cũng nhằm mục đích đó, Giáo
Hội là cộng đồng những người cùng theo đuổi mục đích chung nhắm đến sự hoàn
thiện, nhưng kỳ thực Giáo Hội vẫn mang trong mình những phần tử tội lỗi; điều
này biểu lộ qua mầu nhiệm các thánh thông công. Bởi đó, vào những dịp đặc biệt
trong năm, vì lợi ích thiêng liêng cho tín hữu, việc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải
luôn mang đặc tính cộng đoàn. Với hình thức này bộc lộ rõ tính hiệp thông chia
sẻ cả ơn phúc lẫn vấp phạm yếu hèn của con người. Qua đó, cộng đoàn cùng lắng
nghe Lời Chúa, cùng cầu nguyện chung và với bầu khí trang nghiêm đạo đức, như
những chuẩn bị tốt để cử hành Bí tích Giao Hòa nhằm nói lên đặc tính Hội Thánh,
nhờ lời cầu nguyện và gương lành của người khác giúp cho hối nhân đi vào chiều
sâu nội tâm, lòng sám hối khởi đi từ đó giúp ngươi xưng tội cảm nhận được sự
tha thứ, đồng thời đón nhận được ơn giao hòa của người cha nhân lành trong Tin
Mừng, chẳng những người cha sẵn lòng tha thứ hết tội lỗi cho đứa con hoang
đàng, mà còn phục hồi lại quyền làm con ngay tức khắc. Khung cảnh và hình thức
này đã tác động mạnh đến nội tâm người lãnh bí tích Giao Hòa, để họ thực sự
được tiếp xúc và nhận ra lòng thương xót vô biên và sự quảng đại tha thứ của
Đấng là Thiên Chúa Tình Yêu, đồng thời như một cơ hội được chữa lành vết tích
tội lỗi, được làm hòa với Giáo Hội hữu hình của Đức Kitô.
Bí tích Hòa Giải là phương tiện tốt
giúp ta nhận ra con người thực của mình, và lòng thương xót vô biên của Thiên
Chúa luôn trổi vượt tội lỗi ta; là con người ta nhận ra nơi mình đầy yếu đuối
mỏng dòn dễ vỡ, nhưng cũng chất chứa khát vọng sâu thẳm, hướng thiện, một khả
năng mạnh mẽ muốn vươn lên, vượt thoát khỏi những bất toàn kéo dìm mình xuống.
Sự giằng co này vẫn có nơi mỗi người, không phải để ta thất vọng buông xuôi,
nhưng dám chấp nhận sự thật ấy nơi bản thân mình, để bắt đầu và bắt đầu lại.
Với ơn huệ của Thiên Chúa giúp ta xác tín vào tình thương của Ngài, một tình
thương không biết đến quá khứ mà chỉ là hiện tại và một tương lai rộng mở với
cả sự tín nhiệm, tin tưởng và đầy hy vọng nơi con người thụ tạo của Ngài.
KẾT LUẬN
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta phải
công nhận rằng có một sự sa sút đáng kể ý thức về tội lỗi. Một tình trạng dửng
dưng đối với đạo nghĩa, hay phủ nhận tất cả những gì được lý trí chân chính và
Mạc Khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa. Vì thế, mới có nhiều người nam cũng
như nữ thiếu hụt cảm quan về Giao Ước của Thiên Chúa, cũng như về các giới luật
của Người. Tất cả cảm quan của con người về trách nhiệm thường bị lu mờ, bởi
con người đòi phải được quyền tự do tuyệt đối, một quyền tự do cho rằng mình bị
Thiên Chúa là nhà lập pháp tối cao đe dọa và chi phối.
Bí tích Hòa Giải cũng gặp những bước
thăng trầm trong lịch sử: từ thú tội công khai một lần trong đời, sang xưng tội
cá nhân và lãnh nhận khi cần. Giáo Hội trong trách nhiệm gìn giữ và phân phát
kho tàng ân sủng đã dần dần định hình cho nghi thức, thần học và những hướng
dẫn mục vụ nhằm giúp người tín hữu khi lãnh nhận bí tích Hòa Giải, được ơn tha
thứ và bình an của Chúa, giúp họ sống trong tình trạng ân sủng lâu dài.
Quả vậy, việc xưng tội dù có những hình
thức thay đổi cho phù hợp, nhưng cũng là yếu tố tùy thuộc “không phải khi thay
đổi kích thước, màu sắc quốc kỳ là làm sống lại lòng ái quốc”. Nơi bích tích
Giao Hòa cũng vậy, khi xưng tội là đích thân mỗi người phải thực hiện trách nhiệm
của chính mình chứ không ai khác thay mình, đó mới là yếu tố nền tảng. Để nhận
ra những sai trái, yếu đuối tội lỗi của mình khi đối chiếu với chân lý vĩnh cửu
là chuẩn mực, không mặc cảm, thất vọng hay một sự an tâm giả tạo. Trái lại ta
tin rằng mình đang cùng với Đức Kitô chiến đấu trong cuộc tranh chấp giữa ánh
sáng và bóng tối mà Ngài đã khởi sự và đã toàn thắng, cũng chính Ngài là Đấng
bảo vệ nâng đỡ và thương xót ta như vị Mục tử vác chiên lên vai, con nào bị mất
Ta sẽ đi tìm, con nào đi lạc sẽ đưa về, băng bó chiên bị thương, chữa lành
chiên bị yếu đau; và hơn hết Ngài là phần thưởng bảo đảm sau cuộc chiến nhờ
lượng từ Chúa nâng đỡ chúng ta sẽ luôn luôn thoát khỏi mọi tội lỗi.
Vào buổi chiều Phục Sinh, Đức Kitô Đấng
đã chết và đã sống lại, đã trao ban Thánh Thần cho Giáo Hội qua các tông đồ
cùng với sứ mạng giao hòa, kèm theo quyền trói buộc và tháo cởi, như những
phương thế hữu hiệu để Giáo Hội nối tiếp công trình Cứu Độ của Đức Giêsu trong
trần gian. Trung thành với sứ mạng đã lãnh nhận thẩm quyền Giáo Hội cũng nỗ lực
bảo vệ kỷ luật, tránh những lạm dụng hoặc những tháo thứ, giúp tín hữu đối diện
thực sự với mình trước Chúa, hầu lãnh nhận bí tích cách hiệu quả cũng như mang
lại nhiều ơn ích cho người lãnh nhận, giúp người tín hữu sống và cảm nhận mãnh
liệt ơn huệ tình thương của Chúa dành cho mình; rồi công bố chân lý lòng thương
xót của Thiên Chúa, tuyên xưng chân lý ấy bằng nhiều cách khác nhau, đồng thời
cố gắng thực thi lòng thương xót đối với con người và nhờ con người; như những
nỗ lực làm sáng rõ dung mạo và lngf thương xót của Thiên Chúa trong thực tại
phàm trần.
Thực hành bí tích Hòa Giải còn là việc
làm của đức tin, con người nhận ra nỗi khao khát nội tâm, hối hận và xưng thú
những xúc phạm do mình gây ra, muốn trả lại sự công bằng đã bị tổn thương, như
một cơ hội để được tha thứ, đón nhận và yêu thương. Kỳ thực ân huệ của lòng
Chúa thương xót dành cho ta còn lớn lao và cao cả hơn những gì ta nghĩ và cố
gắng ra sức thực hiện; điều này là một kinh nghiệm và cảm nghiệm nội tâm sâu
thẳm lòng mình, chỉ riêng ta đối diện với Ngài trong chân thành và thẳng thắn.
[1] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông
thư dưới dạng Tự Sắc Lòng Thương Xót
Chúa về những khía cạnh của việc
cử hành Bí Tích Hòa Giải, 2002, phần dẫn nhập.
[2] St 1, 27
[3] Lv 19, 2
[4] Xh 3, 5
[5] Xh 19, 3-20
[6] 2V 6, 6-8
[7] St 4, 26
[8] St 17, 1
[9] St
14, 20
[10] Ga 10,17-18
[11] Xh 34, 6; Hs 11, 8; Gr 31, 3.
[12] Lc 15, 20. 22-25.
[13] Gr 31, 3-20; Mk 7, 18-20; Is 49, 15.
[14] Hs 14, 5; 11, 9.
[15] Tv 103, 1-4. 13
[16] Tv 136; 130, 7;
51,3.
[17] Ga 14, 10;
16,27-28.
[18] Mt 5, 45; Lc
6,35-36.
[19] Ga 3, 16-17.
[20] Hr 1, 1-2.
[21] Hr 9,26; GLGHCG số
571, tr 220.
[22] Ga 18,4-6; Mt
26,53; GLGHCG số 609, tr 237.
[23] Mc 9,31; 10,34
[24] Mc 14,22-24.
[25] Lc 22,20; 1Cr 11, 25.
[26] 1Cr 6,20; 7,23.
[27] Cv 10,39-43.
[28] Rm 4,25.
[29] Mt 28,19-20.
[30] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo,
Tòa TGM Tp HCM, nxb TpHCM, 1997, số 781.
[31] ĐGH Gioan Phaolô II. Tông huấn Sám Hối và Hòa Giải,
1984, Số 4.
[32] ĐGH Gioan Phaolô II. Tông huấn Sám Hối và Hòa Giải,
số 4.
[34] Mt 18,18-20;
[35] Mt 18,22.
[36] Ga 20,23.
[37] Phan Tấn Thành, Bí tích hòa giải,
1998, tr.167.
[38] Ga 15, 13-14; 1Pr 4,8.
[40] x. Is 1,18; Cl
1,20.
[43] ĐHH Gioan Phaolô
II, Tông huấn Hòa Giải và Sám Hối,
1984, số 29.
[46] Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo, số 1450
Đăng nhận xét