Thập Giá: Sự “điên rồ” của Thiên Chúa - một vài tìm hiểu và suy tư dựa trên Thánh thi Philípphê (2, 6-11)

 

Thánh thi này diễn tả một “kịch bản cứu độ”,
liên quan đến những gì Đức Giêsu thực hiện và cách thức Người thực hiện thế nào, và phản ứng của Thiên Chúa ra sao. Mặc dù thánh Phaolô đưa thánh thi này
vào thư gửi tín hữu Philípphê vì lý do mục vụ,
để giải quyết các vấn đề trong cộng đoàn Giáo hội Philípphê mà ngài đã đề cập, nhưng tư tưởng của thánh thi này
vượt xa hơn thế khi đưa ra một định nghĩa đích thực
về thân phận của Đức Kitô
- Đấng đã bị treo trên thập giá vì tội lỗi nhân loại.

 

Thành Duy, OP.


DẪN NHẬP

Những bài thánh thi chép tay đầu tiên của các Kitô hữu về Đức Giêsu Nazarét, Đấng Kitô, là những bài tán dương, chúc tụng được đính kèm vào trong các sách Tin Mừng. Những bài thánh thi chúc tụng này ban đầu được sáng tác cách ngẫu hứng dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần và được hát hoặc ngâm nga trong các buổi cử hành phụng vụ chung. Nội dung của những thánh thi này là tán dương những hoạt động cứu độ của Đức Giêsu Kitô “Khi anh em hội họp, người thì hát thánh ca, người thì giảng dạy, người thì nói lời mặc khải, người thì nói tiếng lạ, người thì giải nghĩa” (1Cr 14,26). Nền tảng cho các bài thánh thi Đức Kitô thuở ban đầu, trước hết, là các sự kiện nơi cuộc đời của Đức Giêsu, đặc biệt cuộc khổ nạn, và thứ hai, là Thánh Kinh của Người Do Thái, cách cụ thể là các Thánh vịnh và văn chương Khôn ngoan.[1] Một số bản văn Tin Mừng thường được các học giả hiện đại xem là các thánh thi hoặc các trích đoạn (fragments) thánh thi Đức Kitô là Pl 2, 6-11; Cl 1,15-20; Ga 1,1-14; Hr 1,3; 1Pr 2, 21-25.

Thánh thi Philípphê 2, 6-11 là một trong những thánh thi phổ biến nhất được lấy từ kho tàng các thánh thi Kitô giáo thời kỳ sơ khởi. Thực tế, vẫn còn nhiều tranh cãi về nguồn gốc của thánh thi này. Có một số học giả cho rằng thánh thi này là do thánh Phaolô viết ra; trong khi đó, một số học giả khác lại cho rằng thánh thi này đã có sẵn trong truyền thống Kitô giáo và thánh nhân chỉ sửa lại cho phù hợp.[2] Ngoài ra, trong các bản văn Cựu Ước, người ta cũng có thể tìm thấy ý tưởng tương tự nơi các bài Thánh vịnh (Is 45,23; 52,13-53,12); đặc biệt, Thánh vịnh 110 là nơi tìm thấy nhiều ý tưởng tương đồng với Philípphê 2,6-11. Ví dụ: đoạn Pl 2,9-11 có ý tương tự như trong Tv 110,1-2. Trong cả hai đoạn này, Thiên Chúa đều minh xét cho kẻ chịu đau khổ; hoặc ngay cả vấn đề tiền hữu (Pl 2,6) có thể tìm thấy trong Tv 110,3:[3]

Đức Chúa phán bảo rằng:
“Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh,
vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh.
Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện,
tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con
.

Thánh thi này diễn tả một “kịch bản cứu độ”, liên quan đến những gì Đức Giêsu thực hiện và cách thức Người thực hiện thế nào, và phản ứng của Thiên Chúa ra sao. Mặc dù thánh Phaolô đưa thánh thi này vào thư gửi tín hữu Philípphê vì lý do mục vụ, để giải quyết các vấn đề trong cộng đoàn Giáo hội Philípphê mà ngài đã đề cập, nhưng tư tưởng của thánh thi này vượt xa hơn thế khi đưa ra một định nghĩa đích thực về thân phận của Đức Kitô - Đấng đã bị treo trên thập giá vì tội lỗi nhân loại. Do vậy, xét theo mạch văn của thư, thánh Phaolô khuyên các tín hữu trong cộng đoàn Philípphê giữ vững và thực hành đức tin bằng cách luôn sống hiệp nhất với nhau, theo gương Đức Giêsu đã hạ mình vâng phục thánh ý của Thiên Chúa. Tuy nhiên, thánh thi này tự nó là câu trả lời cho các vấn nạn về tương quan giữa Ađam và Đức Kitô, về sự tiền hữu của Đức Kitô, về kế hoạch lạ lùng cũng như sự khôn ngoan của Thiên Chúa mà không ai có thể hiểu thấu được.[4]

 


1. Cấu trúc

A.  Vốn dĩ là Thiên Chúa (câu 6)

B.      Mặc lấy thân phận nô lệ (7)

C.  Bằng lòng chịu chết (8)

D. Chết trên cây thập giá (8c)

C’. Thiên Chúa siêu tôn (9)

    B’. Tặng ban danh hiệu trổi vượt (9b)

A’. Đức Giêsu Kitô là Chúa (10 -11)

Nhìn vào cấu trúc, ta dễ dàng nhận thấy có một “con đường” ngược đời với mọi lối tưởng tượng của con người, ngược với mọi suy tưởng khôn ngoan của các bậc vĩ nhân. Đó là con đường cứu độ bằng cách từ bỏ, bằng sự đầu hàng, bằng việc chết đi để bước vào mà ôm lấy mớ hỗn độn khốn cùng của thọ tạo. Để từ cái nền móng chông chênh và bấp bênh của sự khốn cùng đó, Đức Giêsu Kitô “lật ngược” hay đảo ngược “thế cờ” bằng sự khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa.

a. Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa

Đấng hiện hữu trong hình dạng Thiên Chúa không màng đến việc giữ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa; bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: Ngài, phận là phận của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa.

Đức Giêsu Kitô đã là Thiên Chúa (ὃς ἐν μορφῇ θεοῦ - Đấng trong hình dạng là Thiên Chúa). Từ “μορφῇ” được sử dụng 3 lần trong Tân Ước, hai lần trong thánh thi Philípphê (2,6-7) và một lần trong Tin Mừng Máccô (16,12)[5]. Trước hết, từ “μορφῇ” là một thuật ngữ triết học được Aristotle sử dụng để diễn tả một Hữu Thể đích thật, một thực tại không bao giờ thay đổi.[6] Trong bản văn này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thánh Phaolô dùng từ “μορφῇ” để nhấn mạnh ý nghĩa rằng tự bản tính Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, chứ không phải là giống Thiên Chúa như trong tường thuật Sáng Thế (1, 26-27: καt’ εἰκόνα θεοῦ - giống hình ảnh Thiên Chúa).[7]

Rõ ràng, “giống hình ảnh Thiên Chúa” không thể hiện một sự ngang bằng với Thiên Chúa, mặc dù việc trở nên “giống Thiên Chúa” theo truyền thống Do Thái đó là trở nên “được trường tồn bất diệt” (Kn 2,23). Vì thế, dù Đức Giêsu Kitô có trong hình dạng nào đi nữa, Người vẫn luôn là Thiên Chúa, luôn có bản tính Thiên Chúa, hay nói cách khác Người là Thiên Chúa tự bản tính.[8] Tuy nhiên, cũng có người cho rằng từ “μορφῇ” ở đây không chỉ nói đến bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu mà còn nhằm suy tôn vinh quang (doxa) và vẻ rạng ngời (splendor) của Thiên Chúa, điều mà đã được tỏ lộ ra cho con người.[9] “Hình dạng Thiên Chúa - the divine form” mà Đức Giêsu Kitô có trước khi nhập thể làm người không gì ngoài vinh quang Thiên Chúa.[10] Điều này cũng được chính Đức Giêsu tỏ lộ trong Gioan chương 17 “Xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17,5). Ngoài ra, ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy từ “μορφῇ” được sử dụng trong cựu ước qua bản dịch LXX như trong Is 44,13[11] diễn tả một thứ được làm ra hình dạng con người, có vẻ đẹp của con người.

“không nghĩ đến việc chiếm giữ”[12]

Từ “ἁρπαγμὸν” thường được dùng để miêu tả một thứ gì đó bị chiếm giữ, bị cướp mất - nếu xét ở thể chủ động thì có nghĩa là chiếm lấy, cướp lấy, giữ chặt. Theo mạch văn, nó có nghĩa là Đức Giêsu không cần phải giữ lấy vị thế ngang hàng với Thiên Chúa, như thể giữ khư khư cách ghen tức cho riêng mình, nhưng sẵn lòng cho đi tất cả, vì bản tính Thiên Chúa là trao ban tất cả. Hơn nữa, điều này nhằm minh chứng bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu.[13] Cụm từ này cũng liên hệ đến câu 3 và 4 ở trên “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh…Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác”. Đức Giêsu chính là động lực và là hình mẫu cho nếp nghĩ này. Từ thuở đời đời, Đức Kitô đã hiện hữu trong hình dạng Thiên Chúa “μορφῇ θεοῦ”, nên không màng đến việc chiếm giữ bất cứ thứ gì cho lợi ích riêng để nhắm đến việc duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.[14]

 

b. … đã trút bỏ vinh quang

“Nhưng đã hủy mình ra không, đón lấy thân phận nô lệ, trở nên giống con người, xuất hiện dưới hình dạng như một con người.

Động từ “ἐκένωσεν” là từ khóa diễn tả sự lựa chọn của Đức Giêsu về sự từ bỏ vị thế của mình. Trong tiếng Hy Lạp, động từ “κενόω” nghĩa là: làm trống rỗng, đổ ra, trút ra cho đến khi không còn gì nữa. Thánh Phaolô dùng từ này để diễn tả biến cố nhập thể của Đức Kitô. Khi đang giữ địa vị ngang hàng trong Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã “hủy mình ra không”, bỏ hết vinh quang, để đón nhận thân phận nô lệ, trở nên như người trần. Từ Đấng vô hình, Đức Kitô trở thành một phàm nhân, Người không chỉ là giống người trần, mà còn là con người thật, một con người cụ thể, cá vị.[15] Động từ này còn diễn tả sự dứt khoát. Người chọn làm điều này cho chính mình; Người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của hành động đó.[16]

Khi từ bỏ hoàn toàn tất cả danh dự, vinh quang, tước hiệu, Đức Kitô đã tự trở thành một nô lệ thật sự, người không còn chút uy quyền nào. Trong cụm từ “μορφὴν δούλου λαβών - đón lấy thân phận nô lệ”, tác giả lặp lại từ “μορφὴν - thân phận” ở câu 6 - khẳng định bản tính và vinh quang Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô - thì trong câu 7 này, tác giả cũng khẳng định Đức Giêsu Kitô là một nô lệ thật sự. Người không có quyền hành, luôn phải tuân theo ý chủ, sống phụ thuộc vào ý muốn của ông chủ (Cl 3,22; 4,1; Ep 6, 5-9)[17]. Như thế, thánh Phaolô dùng từ “μορφὴν” ở câu 6 và câu 7 để diển tả một sự đối lập lớn giữa bản tính Thiên Chúa >< bản tính nô lệ. Đức Giêsu đã tự “hủy mình ra không” đối với những gì Người có, Người đã tự bỏ qua – không phải là bản tính Thiên Chúa nhưng là vinh quang phát xuất từ bản tính đó – xét trong vị thế Thiên Chúa để đảm nhận lấy bản tính nơi thân phận nô lệ. Chính Người đã chọn để trở nên nô lệ thật sự, chứ không phải là nhập vai.[18]

Ngoài ra, ý của vế này còn gợi cho độc giả tới lời nhắc nhở của thánh Phaolô trong chương 2 câu 3-4. Ngài mời gọi mọi người trong cộng đoàn đừng sống ích kỷ, chỉ biết mưu cầu tư lợi, nhưng hãy biết nghĩ cho người khác, sống vì người khác như Đức Giêsu Kitô đã làm. Thật vậy, Đức Giêsu đã hạ mình sống dưới Lề Luật để giải thoát những ai sống dưới Lề Luật và cho họ làm con của Người (Gl 4, 1-11; 21-31; Rm 8,15).

Trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế

Thánh Phaolô diễn tả Đức Giêsu Kitô từ căn tính “μορφῇ” là Thiên Chúa trở nên “ὁμοιώματι” – giống – nghĩa là ngoại hình được làm nên để trông giống. Hơn nữa, từ “σχήματι - tình trạng/ ngoại hình” đối lại với “μορφῇ - căn tính” nhấn mạnh đến cách hành xử ra bên ngoài theo kiểu con người. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Đấng hằng hữu đã nhận lấy một thân thể có thể bị hư hoại để nên giống người phàm mà cứu chuộc họ. Điều này không dễ dàng để hiểu theo sự nhận thức của con người. Thật vậy, Đức Kitô tự đặt mình vào vị trí mà chỉ mình Người mới hiểu và theo cách thức mà chỉ Chúa Cha hiểu Người.[19] Từ “εὑρεθεὶς – được nhận thấy” đề cập đến việc không những Đức Kitô tự tỏ mình ra giống với con người mà Người còn được người trần thế xác nhận là con người thật sự. Do đó, cụm từ “σχήματι εὑρεθεὶς - được nhận thấy như người trần mắt thịt” ý muốn nói đến Đức Giêsu xuất hiện trong tư thế vừa là Thiên Chúa vừa là con người.[20]

c. Xuống tận cùng sự khốn khổ của kiếp người

Người tự hạ mình trở nên vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự.”

-      Người tự hạ mình

Đức Kitô hạ mình không có nghĩa là buộc phải đảm nhận thân phận tôi tớ trong tương quan với lệnh truyền của chủ, nhưng Người sẵn sàng nhận lấy thân phận này trong địa vị là người Con vâng lời ý Cha, không phải ở địa vị hàng tôi tớ. Đức Kitô bày tỏ lòng kính trọng Chúa Cha trên hết mọi sự; và không ai có lòng tôn kính Chúa Cha bằng Chúa Con và Người đã bày tỏ điều này qua việc hạ mình.[21]

-      vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá

Đức Giêsu “vâng lời cho đến chết” không phải là một sự ngẫu nhiên mà là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, như sách Isaia[22] đã nói (Is 53, 8.12). Quả thật, khi mang lấy thân phận nô lệ, Đức Kitô không những đón nhận lấy tất cả những giới hạn nơi xác phàm và cả cái chết, nhưng Người đón nhận cái chết để có thể kết liễu cái chết nơi xác phàm He went to his death so that by death he might put death to death.[23] Người không những đã chủ động chọn con đường có thể dẫn đến cái chết, mà ngay cả sẵn sàng đón lấy cái chết nhục nhã và kinh khiếp trên thập giá. Thập giá là hình phạt dành cho những kẻ phạm tội nguy hiểm và chỉ có những người không thuộc công dân Rôma mới bị hành hình cho đến chết theo cách này. Hình phạt đóng đinh vào thập giá là hình phạt tệ hại nhất trong xã hội và thường chỉ dành cho những kẻ nô lệ,[24] hoặc dành cho những người đã bị tước mất quyền dân sự khiến phẩm giá con người của họ bị chà đạp.[25]

Điều đặc biệt và tuyệt vời nhất nơi cuộc đời Đức Giêsu là hạ mình, vâng lời, và sự từ bỏ chính mình. Người không muốn thống trị con người nhưng chỉ muốn phục vụ họ; Người không muốn theo ý riêng của mình nhưng là theo ý Thiên Chúa; Người không muốn tỏ lộ vinh quang của mình nhưng muốn bỏ đi tất cả vì con người. Tuy nhiên, Người càng từ bỏ, càng hạ mình, càng vâng phục Chúa Cha, thì Người lại càng được tôn vinh.[26] Bên cạnh đó, trong tư tưởng của những người Do Thái, sự hạ mình xuống thường được dùng để chỉ về con người phải hạ mình trước Đức Chúa (Gv 3,8)[27], (1 Pr 5,6)[28], nhưng họ hầu như không bao giờ đề cập đến một Thiên Chúa tự hạ mình xuống trước con người.

d. Để khi lực bất tòng tâm

“Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban cho Người danh hiệu trổi vượt mọi danh hiệu”.

Từ câu 8 sang câu 9, ta thấy có một sự thay đổi nơi chủ từ. Thật vậy, nếu từ câu 6-8 thánh Phaolô diễn tả Đức Kitô hoàn toàn làm chủ trong các hành động của mình, thì bắt đầu từ câu 9 tác giả lại cho thấy Chúa Cha sẽ là người làm chủ hành động (Cv 2,36)[29]. Cụm từ “vì thế” đặc biệt nhấn mạnh sự thay đổi cấu trúc và nhịp điệu của Thánh Thi này. Nếu như ở câu 6, tác giả đề cập đến bản tính của Thiên Chúa cách chung chung khi khẳng định Đức Giêsu là Thiên Chúa, thì ở câu 9, tác giả dùng mạo từ “ὁ” trước “θεὸς” để khẳng định chính Thiên Chúa của dân Israel, Thiên Chúa mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ gọi là “Abba - Cha ơi” sẽ thực hiện việc siêu tôn Đức Giêsu.[30] Từ “ὑπερύψωσεν”, chỉ được sử dụng một lần duy nhất trong Kinh Thánh,[31] được ghép bởi hai từ “ὑπέρ” - “xa hơn, nhiều hơn” và “ὑψοῦν” - “đưa lên”. Trong khi thánh Gioan nhấn mạnh đến sự chủ động của Đức Giêsu Kitô trong việc người có quyền hiến mạng sống và lấy lại nó (Ga 10,17)[32], thì thánh Phaolô lại làm nổi bật vai trò của Chúa Cha: sự phục sinh của Đức Giêsu như là do hoa trái của hành động của Thiên Chúa cứu độ con người khỏi tội lỗi và sự chết (1Cr 15,20-22). Trong Tân Ước, các tác giả Tin Mừng cũng nhiều lần nói đến việc chỉ những ai hạ mình xuống mới được tôn lên (Mt 23,12; Lc 14,11; 18,14).

Thiên Chúa tặng ban danh hiệu. Động từ “χαρίζομαι” (tặng ban) có nghĩa gốc là “χαρίζ - ân sủng, ân ban”. Thiên Chúa rất hài lòng về Đức Giêsu và đổ tràn ân huệ xuống trên Người bằng cách siêu tôn và tặng ban danh hiệu. Động từ này cũng được sử dụng trong chương 1 câu 29 đề cập đến việc Thiên Chúa ban phúc lành cho cộng đoàn Philípphê không chỉ nhờ lòng tin vào Đức Kitô mà còn nhờ vào việc chịu đau khổ với Người.[33] Ngoài ra, để tặng một danh hiệu, Người trao tặng phải có thẩm quyền, sự ưu ái và uy quyền. Trong khi đó, vị đón nhận danh hiệu “Chúa” là đón lấy một dấu chỉ cho một giai đoạn mới của đời sống.[34]

Hành động từ bỏ chính mình của Đức Kitô được đáp lại bằng hành động “siêu tôn - highly exalted” của Thiên Chúa dành cho Người. Thánh thi này không đề cập đến sự phục sinh, nhưng đưa ra những phạm trù đối lập nhau: hạ mình/ siêu tôn, nô lệ/ quyền thế. Hành động từ bỏ chính mình và chủ động chọn lấy thân phận tôi tớ của Đức Kitô được Thiên Chúa đáp lại bằng cách ban cho ân huệ mà loài người không thể vươn tới: danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu - Kyrios - Chúa.[35]

Danh hiệu - τὸ ὄνομα - một từ quan trọng nhất trong câu này. Rõ ràng trong câu này, thánh Phaolô không nói rõ ràng danh hiệu cụ thể là gì. Danh hiệu có thể là: Giêsu, Kitô, Con, Thiên Chúa, Chúa. Chắc hẳn danh hiệu “Chúa- Lord” là phù hợp nhất, vì chữ “Lord, Kyrios” là từ được nhấn mạnh trong câu 11 (2,11) “Mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa - Kyrios”. Thứ đến, dường như có một sự liên hệ nào đó giữa Thánh Thi Đức Kitô (Pl 2,9-11) và Isaia chương 45 về việc nói đến việc tôn thờ Một Thiên Chúa: “Há chẳng phải Ta, chẳng phải Đức Chúa? Ngoài Ta ra, không có thần nào nữa, chẳng có thần công minh cứu độ, ngoại trừ Ta. Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn chúa nào khác” (Is 45,21-22). Danh hiệu mà Thiên Chúa ban cho Đức Giêsu trổi vượt đến nỗi khi vừa nghe danh ấy “cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ”. Việc siêu tôn của Đức Kitô và danh hiệu mà Người nhận được “danh hiệu vượt trên muôn danh hiệu”. Đây là lời đáp trả của Chúa Cha với lời khẩn cầu của Đức Giêsu trong Gioan 17,5. Việc suy tôn này đề cập đến việc phục sinh, lên trời, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (Cv 2,33; Hr 1,3). Danh hiệu này không đơn thuần là một tước hiệu, nhưng còn là ngôi vị của Người, địa vị của phẩm giá và sự tôn kính của Người.[36]

e. Mọi vinh quang và danh dự được ban cho Người

“Chính vì thế trước danh hiệu của Đức Giêsu mọi đầu gối trên trời và dưới đất và nơi âm phủ phải bái lạy.”

Từ “ἵνα - chính vì thế” nhấn mạnh đến mục đích của việc siêu tôn nơi Đức Giêsu. Một số học giả cho rằng “danh hiệu” quan trọng ở đây là “Giêsu”, bao hàm ý nghĩa của việc cứu độ, hơn là danh hiệu “Chúa- Lord” xuất hiện ở câu tiếp theo. Tuy nhiên, cụm từ “ἐν τῷ ὀνόματι Ἰησοῦ - in the name of Jesus” không phải là “danh hiệu Giêsu” mà “danh hiệu thuộc về Giêsu” như chúng ta đã tìm hiểu ở trên. Danh hiệu mà Thiên Chúa đã tặng ban cho Đức Giêsu Kitô, đó là Chúa. Cấu trúc của cụm này là giới từ “ἐν” + dative diễn tả tư tưởng của bối cảnh một hành động. Tuyên xưng danh của Đức Giêsu cũng có nghĩa là phục tùng Người. Tuy nhiên, cụm từ “ἐν τῷ ὀνόματι Ἰησοῦ” ở đây không phải là một công thức khẩn cầu mà nó có sức mạnh rất rộng lớn, bao trùm cả vũ trụ khiến “mọi đầu gối trên trời dưới đất phải bái lạy”.[37] Hơn nữa, cử chỉ quỳ gối của con người thể hiện nhận thức rằng một ai đó trổi vượt về quyền uy và địa vị, như trong Tin Mừng Matthêu (15,25)[38]. Đó là cử chỉ thể hiện sự hạ mình và tôn kính. Thật vậy, chỉ có danh của Giêsu mới làm cho Kitô hữu bái lạy (Mt 2,11).[39] Danh hiệu của Giêsu, do đó, cai trị cả toàn thể vũ trụ “trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ”. Điều này có nghĩa là không có tạo vật nào có thể đứng ngoài phạm vi cai quản của Đức Giêsu. Tất cả mọi tạo vật sẽ cùng nhau bái thờ Đức Giêsu.

“Và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô - Chúa - hướng tới vinh quang của Thiên Chúa Cha.”

Cụm từ “πᾶσα γλῶσσα – mọi miệng lưỡi” chỉ đến con người cách cụ thể hoặc một nhóm người, vì “πᾶσα γλῶσσα – mọi miệng lưỡi” cũng có nghĩa là mọi ngôn ngữ. Do đó, từ này có thể được hiểu là mọi dân, mọi nước (Is 66,18; Đn 3,4.7; Kh5, 9). Mỗi một con người cụ thể đều nói một ngôn ngữ đã đi đến đồng nhất trong việc “tuyên xưng - ἐξομολογήσηται” Đức Giêsu là Chúa.

Đức Giêsu là Chúa: cao điểm của Thánh Thi này kết thúc ở câu tuyên xưng “Đức Giêsu là Chúa”. Đó là lời tuyên xưng của các Kitô hữu ngay từ thuở ban đầu. Trước hết, Đức Giêsu được tuyên xưng là Đấng Mêsia. Sau đó, từ kyrios được dùng để dịch chữ adonai từ tiếng Hipri và chữ mar trong tiếng Aram (1Cr 16,22). Trong bản LXX, từ kyrios được dùng để dịch cả từ adonai lẫn YHWH. Trong Tân Ước, thuật ngữ này được dùng 717 lần, đặc biệt được dùng nhiều trong các bản văn của Luca và Phaolô. Vì các ngài sống vào thời văn hóa Hy Lạp đang thịnh vượng và danh hiệu “kyrios” rất phổ biến vào thời đó và được dùng để gọi các Hoàng đế Rôma.[40] Tuy nhiên, khi dùng danh hiệu này cho Đức Giêsu, thánh Phaolô muốn nhấn mạnh rằng Đức Giêsu là Ông Chủ, là Chúa Tể muôn loài, là Vua các vua. Người là Chúa theo cách mà các thần ngoại và ngẫu tượng không bao giờ có thể được như vậy; Người chính là Thiên Chúa.

-      hướng tới vinh quang của Thiên Chúa - Cha

Khi tuyên xưng rằng Chúa Con là Chúa nghĩa là vinh quang danh dự đó được dành cho Chúa Cha, Đấng mà Chúa Con đã vâng lời và cũng chính là Đấng đã đáp lại sự vâng lời đó bằng cách siêu tôn Người Con. Như thế Đức Giêsu Kitô được Chúa Cha cất nhắc lên ngang hàng với Người về mọi phương diện, nhưng Đức Giêsu Kitô không bao giờ thay thế hay cạnh tranh địa vị với Chúa Cha “Lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15,28) hoặc trong thư Rôma “Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6, 10-11). Do đó, mục đích tối hậu là quy tụ mọi loài thọ tạo dưới vinh quang và quyền bính của Thiên Chúa.[41]

Câu 11 là một trong những câu quan trọng nhất trong Tân Ước. Ở câu này, chúng ta đọc thấy mục tiêu của Thiên Chúa, là sẽ đến một ngày muôn dân nước (πᾶσα γλῶσσα) sẽ tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa - YHWH. Một ngày nào đó tất cả mọi loài có lý trí từ ba “thế giới”/ “cõi” phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật. Ba từ “κύριος Ἰησοῦς Χριστὸς” là bản tuyên xưng/ là kinh tin kính đầu tiên của Giáo hội Kitô giáo. Thật vậy, để trở thành Kitô hữu, người ta chỉ cần tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10,9). Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, Đức Giêsu không tìm vinh quang cho riêng mình nhưng cho Chúa Cha.[42]

Như vậy, khởi đi từ địa vị là Thiên Chúa, Đức Kitô từ bỏ vinh quang xuống thế làm người, mang lấy thân phận nô lệ, vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá, kết quả là Người được tôn kính và siêu tôn. Chúa Giêsu sẽ được mọi loài trên trời (nơi địa vị của Người ngang hàng với Thiên Chúa: 2,6), mọi vật dưới đất (nơi Người trở thành con người: 2,7) và trong nơi âm phủ (nơi của những người chết: 2,8) phải bái quỳ và tuyên xưng là Chúa. Quả thật, Đức Giêsu được tôn vinh không phải vì thập giá, nhưng vì Người đã vâng lời Chúa Cha và dám tin rằng thực hiện theo kế hoạch là cách thức tốt nhất làm vui lòng Chúa Cha.[43] Do đó, Đức Kitô là hình mẫu cho sự vâng phục Thiên Chúa, cho tình bằng hữu với tha nhân, và sự khiêm tốn chân thành cũng như loại trừ tính kiêu căng tự phụ, vị kỷ và ganh tị. Đức Kitô là một gương mẫu sống động mà thánh Phaolô đã khuyên răn các tín hữu noi theo “Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12, 16-17).

2. Thập giá trong đời sống Kitô hữu

Khi tìm hiểu và suy tư về thánh thi Philípphê hay còn gọi là thánh thi về mầu nhiệm tự hủy, ta thấy Thiên Chúa hành động hoàn toàn khác lối suy nghĩ của con người. Thay vì cứ theo sự thường khi muốn thâu tóm quyền lực, vinh quang, danh vọng, người ta phải tìm cách đi lên bằng con đường tiền bạc hoặc thể hiện tài năng, khôn ngoan để cho mọi người kính phục mà ủng hộ; Thiên Chúa lại chọn con đường “đi xuống” đến tận cùng của kiếp nghèo, tận đáy của xã hội “làm thân nô lệ”, chịu để cho người đời xỉ vả, rồi ôm lấy cái khổ đau, yêu lấy cái chết thảm hại trên thập giá. Thay vì ôm vào người cho đủ thứ vinh quang, Người lại trút bỏ cho đến cùng “hóa ra không” tất cả những gì thuộc về vinh quang. Cuối cùng, khi chịu chết trên cây thập giá, Đức Giêsu đã làm cho cây thập giá – biểu tượng cho sự tối tăm, ô nhục, thất bại – thành con đường ánh sáng cứu độ trần gian.

Do vậy, Giáo hội Công Giáo, trong việc suy tôn thập giá Đức Kitô, không bao giờ có ý tôn vinh bao lực, không phải là thể hiện sự ham thích khổ đau, nhưng qua việc suy tôn đó, Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô Giêsu qua con đường Thập giá hy sinh. Thập giá Chúa Kitô, do đó, là bảo chứng niềm tin, niềm hy vọng, vinh quang của người tín hữu, và chính nơi đó mà Kitô hữu nhận biết được khuôn mặt đích thực của một Thiên Chúa giàu lòng xót thương.

Theo Phụng Vụ, thập giá Đức Kitô được tôn vinh trong Giáo Hội Đông và Tây Phương. Lòng mến mộ và tôn kính thánh giá không phải mới có từ thời sau này, nhưng thực ra đã có từ những thời kì đầu trong Kitô Giáo. Thật vậy, khi nói đến thánh giá, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo Phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu thánh giá.” Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu thánh giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Tuy nhiên, ngày lễ tôn vinh thánh giá thực sự bắt đầu vào thế kỷ thứ 4.

a.  Thập giá Đức Kitô
                 
là niềm hy vọng và là nguồn sống

Quả thật, việc suy tôn thánh giá không mang ý nghĩa gợi nên một cuộc trình diễn bi kịch cảm động về cuộc thương khó của Đức Giêsu, nhưng thực ra đây là cách thức trình bày mầu nhiệm Đức Tin về Đức Giêsu đã chết và sống lại để cứu độ nhân loại. Qua việc đi vào mầu nhiệm thập giá này, người tín hữu được mời gọi suy gẫm về việc mình được cứu khỏi một vực thẳm đầy tội lỗi và gian tà như thế nào “Đức Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, theo lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3) và họ cũng được mời gọi cùng với Người bước xuống vực thẳm đó “nhờ phép rửa tội, con người được sát nhập vào mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô: cùng chết, cùng chịu mai táng, cùng sống lại” (Rm 6,4). Do đó, việc cử hành nghi thức suy tôn thánh giá cho người tín hữu thấy tầm mức nghiêm trọng của sự dữ và sự tội; và nhận ra giá trị tuyệt vời của việc Chúa cứu chuộc:

Bắt đầu bằng Tam Nhật Thánh như nguồn ánh sáng, thời đại mới của sự phục sinh đổ đầy cả năm phụng vụ bằng sự rực rỡ của ánh sáng… Sự cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng vì sự viên mãn trong cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu và sự tràn đầy Thánh Thần, đỉnh cao của lịch sử được tiên báo là “sự nếm trước” và Vương quốc của Thiên Chúa đến trong thời đại của chúng ta”.[44]

Việc suy tôn thập giá Đức Kitô cũng là dịp thuận tiện để cho người tín hữu giục lòng thống hối, hoán cải tâm hồn qua việc chay tịnh, hãm mình hy sinh và đền tội. Hơn hết, “chính nhờ thập giá mà chúng ta biết được khôn mặt đích thực của Thiên Chúa”[45]. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương luôn ngỏ lời yêu thương với nhân trần.

Khi Đức Giêsu chịu chết trên cây thập giá, thì nó đã được mang một ý nghĩa mới và một niềm hy vọng của ơn cứu độ “Khi Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12, 32). Thập giá đó đã trở nên nguồn sinh lực cho biết bao tâm hồn và trở nên máng chuyển mọi ơn lành của sự tha thứ và hòa giải “Cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,19). Thánh giá là dấu chỉ của người tin vào Chúa Kitô đã chết và đã phục sinh. Vì lý do đó, thánh giá không còn là nơi thể hiện sự khinh khi nhạo cười hay là biểu tượng của bạo lực mà trở nên “nơi thi thố tình yêu và sự hòa giải giữa Thiên Chúa với loài người, và hòa giải giữa loài người với nhau”[46].

Việc suy tôn thánh giá cho thấy đây không phải là một biến cố kết liễu cuộc đời nơi Đức Giêsu, nhưng nó mang một giá trị vĩnh cửu và trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai bước theo Người. Quả vậy, Tân Ước không những chỉ nói tới thập giá của Đức Kitô mà còn nói tới thập giá của những ai muốn đi theo Người: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy”(Ga 10, 38). Do đó, qua việc suy tôn thánh giá, người tín hữu cũng nhắc nhở mình về hành trình bước theo Đức Kitô. Đó là phải chấp nhận thập giá của mình trong cuộc đời “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 38). Quả thực, vác thập giá mình là vác những khổ đau cả về thân xác lẫn tinh thần mà theo Đức Giêsu. Đã gọi là chấp nhận thập giá thì người ta đồng thời cũng phải có sức chịu đựng, nhẫn nại và can đảm. “Việc vác Thánh Giá là điều kiện cần thiết để ‘đi theo Đức Giêsu’; nó đòi hỏi phải từ bỏ mình, từ bỏ những mối liên hệ gia đình và đưa tới sự mất mạng sống…Thánh Giá không còn được hiểu theo nghĩa đen của một khổ hình nữa, nhưng đã được đồng hóa với chính bản thân Đức Giêsu”[47]. Xưa khi vác thập giá, Đức Giêsu đã bị ngã ba lần, nhưng Người vẫn gượng dậy vác tiếp cho tới đỉnh đồi Canvê chứ không hề bỏ cuộc. Nếu muốn trở thành môn đệ trung thành của Đức Giêsu, người môn đệ không thể đi theo con đường nào khác: “Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: ‘Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Ga 16, 24). Thánh Phaolô diễn tả điều này một cách sâu sắc “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 19 – 20).

b. Thập giá
                  
là biểu tượng của chiến thắng và sự tự do

Thiên Chúa đã định cho con mình phải chết để cứu độ nhân loại, nhưng không phải là bất cứ cái chết nào mà là cái chết trên thập giá “Đức Kitô đã hòa giải con người với Chúa Cha bằng Thập Giá”[48]. Nói khác đi, thập giá là phương thế kỳ diệu nhất mà Thiên Chúa đã chọn để biểu lộ tình yêu của Người và chỉ nhờ vào đó mà con người mới được cứu và có được tự do đích thực “Chúa Giêsu đã hoàn tất việc mặc khải khi chu toàn công cuộc cứu chuộc trên Thánh Giá, nhờ đó Người đem lại cho con người ơn cứu rỗi, và sự tự do đích thực”[49].

Thập giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự ác “Chúa Kitô đã chịu giương cao trên Thập Giá để lôi kéo mọi người đến với mình”[50], để “lôi cuốn hết thảy cùng hiệp nhất với nhau”[51]. Thập giá Đức Kitô là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn, ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 34- 35). Điều này được minh chứng qua gương đức tin của Mẹ Maria. “Khi chứng kiến Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá, Đức Tin của Mẹ không bao giờ dao động vì Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa của Ngài cứu chuộc nhân loại”[52].

Suy tôn thánh giá là suy tôn sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, vì "Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người" (1Cr 1, 24 -25). Do đó, qua việc suy tôn thánh giá, người Kitô hữu cũng được mời gọi có ước muốn “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14). Thập giá đã in sâu và gắn chặt với Đức Giêsu Kitô, vì ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa “Đức Kitô đã hoán cải cái chết, từ chỗ là hoa quả của thù hận và tội lỗi để trở nên ngọn lửa của yêu thương…Đức Kitô đã lãnh lấy cái chết trên mình và vật ngã nó nhờ sự sống lại; hay nói cách khác, Ngài đã tiêu diệt cái chết”[53]. Thập giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện với mọi người khắp mọi thời. Nước Thiên Chúa được thiết lập từ cây thập giá khổ đau “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Kitô mà Nước Thiên Chúa được thiết lập cách dứt khoát […] Thiên Chúa đã cai trị từ trên cây gỗ này”[54].

Qua việc suy tôn thập giá Đức Kitô, con người cũng đụng chạm đến ý nghĩa của sự đau khổ. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng “Thập Giá không phải là một học thuyết giải thích hay biện minh cho đau khổ của con người”[55]. Quả thật, thập giá cho thấy một điều là “Thiên Chúa đã đến gặp gỡ sự đau khổ, với thái độ tự do của Ngài. Điều đó vạch ra hai bộ mặt của đau khổ: nó vừa kinh tởm vừa xinh đẹp”[56]. Kinh tởm vì đóng đinh kẻ công chính; xinh đẹp vì “cách thức mà Đức Giêsu đã chấp nhận và biến đổi nó. Người đã đón nhận nó và cách âu yếm và hoán cải nó thành dụng cụ yêu thương”[57]. Như thế, qua khuôn mặt của sự đau khổ, thánh giá cho thấy một ý nghĩa sâu xa hơn đó là “sự cao trọng và sống động của cây Thánh Giá”[58].

KẾT LUẬN

Trong xã hội chú trọng đến tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, con đường thập giá Đức Kitô ngày càng trở nên xa lạ và xa xỉ đối với con người và đặc biệt là đối với người trẻ, vì quyền lực, tiền của, danh vọng và lạc thú đang được tung hô là mốt, là đích đến, là khôn ngoan đích thực. Do đó, tư tưởng tự hủy nơi thánh thi Philípphê dường như là sự điên rồ, hoang tưởng, phi thực tế.

Chính Thiên Chúa đã đi bước trước để đến với con người ngang qua cây thập giá để thực hiện ban vinh quang bằng cách từ bỏ vinh quang; ban sự sống bằng cách hy sinh mạng sống; làm cho vinh thắng bằng cách chịu thua cách nhục nhã. Đó là con đường chiến thắng của Thiên Chúa, nhưng lại là sự điên rồ đối với con người. Thật vây, khi mà thế giới đang mắc kẹt trong nhiều vấn đề nan giải của mình như bạo lực, chiến tranh, khủng bố, đau khổ, đàn áp, thì chính việc suy tôn thánh giá lại “cho thấy rằng trong những nỗi khó khăn hiện tại Thiên Chúa muốn dạy chúng ta cách thấm thía hơn về giá trị, tầm quan trọng và trung tâm của Thánh Giá Đức Kitô”[59]. Thật vậy, qua việc chiêm ngắm mầu nhiệm tự hủy của Đức Kitô trên thập giá, người Kitô hữu muốn đặt mình trên nền tảng của niềm hy vọng Kitô giáo. Thập giá Đức Kitô chính là niềm hy vọng, là nguồn sống, sự giải thoát cho người tín hữu, đồng thời ở chính nơi đó, khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa được tỏ lộ - một Thiên Chúa nhân từ, giàu lòng xót thương.




[1] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan (Sacra Pagina), Philippians & Philemon, 78.

[2] X. Wilfrid Harrington, OP., Các Thư Thánh Phaolô, (không rõ dịch giả), Phúc – Loan, 2016-2018, 98.

[3] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan (Sacra Pagina), sđd., 87.

[4] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan, sđd., 79.

[5] “Μετὰ δὲ ταῦτα δυσὶν ἐξ αὐτῶν περιπατοῦσιν ἐφανερώθη ἐν ἑτέρᾳ μορφῇ, πορευομένοις εἰς ἀγρόν - Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê.”

[6] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan (Sacra Pagina), Philippians & Philemon, 81.

[7] John F. Walvoord, The Bible Knowledge Commentary An Exposition of the Scriptures, 654.

[8] X. Raymond E. Brown, The New Jerome Biblical Commentary, “The Letter to the Philippians”, 794.

[9] X. Michael F. Bird, The New Cambridge Bible Commentary University Printing House: Philippians, 77.

[10] X. R.P.Martin, Philippians (II, 5-11) in Regent Interpretation and in The Setting Of Early Christian Worship, 104.

[11] “ἐποίησεν αὐτὸ ὡς μορφὴν ἀνδρὸς καὶ ὡς ὡραιότητα ἀνθρώπου στῆσαι αὐτὸ ἐν οἴκῳ - Anh làm cho nó ra hình dạng người, có vẻ đẹp của con người, để nó ngự trong nhà.”

[12] “who, existing in the form of God, not something to be exploited did he consider being equal to God.”

[13] X. William Barclay, The Daily Study Bible, The letters to the Philippians, 36.

[14] X. John Paul Heil, Let Us Rejoice in Being Conformed to Christ: Philippians, 87.

[15] X. John Paul Heil, sđd., 88.

[16] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan (Sacra Pagina), Philippians & Philemon, 82.

[17] “Kẻ làm nô lệ hãy vâng lời những người chủ ở đời này trong mọi sự. Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng với lòng đơn sơ, vì kính sợ Chúa” (Cl 3,22).

[18] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan, sđd., 82.

[19] X. Michael F. Bird, The New Cambridge Bible Commentary University Printing House: Philippians, 81.

[20] X. Raymond E. Brown, The New Jerome Biblical Commentary, 795.

[21] X. Mark J. Edward, Ancient Christian Commentary On Scripture New Testament VIII: Galatians, Ephesians, Philippians, 254.

[22] “Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53, 8.12).

[23] X. Mark J. Edward, sđd., 255.

[24] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan, sđd., 83.

[25] X. Raymond E. Brown, 795.

[26] X. William Barclay, The Daily Study Bible, The letters to the Philippians, 38.

[27]Càng hạ mình, con càng trở nên cao trọng, và con sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa.”

[28] “Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.”

[29] “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.”

[30] Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan, sđd., 84.

[31] X. H. W. Hoehner; P. W. Comfort & P. H. Davids, Ephesians, Philippians, Colossians, 1&2 Thessalonians, Philemon, 170.

[32] “tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại”.

[33] X. Michael F. Bird, Sđd., 85.

[34] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan, sđd., 84.

[35] X. Raymond E. Brown, The New Jerome Biblical Commentary, 795.

[36] John F. Walvoord, The Bible Knowledge Commentary An Exposition of the Scriptures, 654.

[37] X. R.P.Martin, Philippians (II, 5-11) in Regent Interpretation and in The Setting Of Early Christian Worship, 263.

[38] Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”

[39] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan, sđd., 84.

[40] X. Bonnie B. Thurston and Judith M. Ryan, sđd., 85.

[41] X. Raymond E. Brown, The New Jerome Biblical Commentary, 796.

[42] X. William Barclay, The Daily Study Bible, The letters to the Philippians, 40.

[43] X. John Paul Heil, sđd., 93.

[44] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1168.

[45] Phan Tấn Thành, Thần Học về Thập Giá Theo Kinh Thánh, Thánh Phaolô và Lịch Sử, Thời Sự Thần Học số 1, HVĐM 2008, tr 76.

[46] Phan Tấn Thành, Thần Học về Thập Giá Theo Kinh Thánh, Thánh Phaolô và Lịch Sử, Thời Sự Thần Học số 1, HVĐM 2008, tr 80.

[47] Phan Tấn Thành, Thần Học về Thập Giá Theo Kinh Thánh, Thánh Phaolô và Lịch Sử, Thời Sự Thần Học số 1, HVĐM 2008, tr 81.

[48] Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, số 78.

[49] Vaticanô II, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo, số 11.

[50] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 160.

[51] Sđd số 542.

[52] GLHTCG, số149.

[53] Phan Tấn Thành, Thần Học về Thập Giá Theo Kinh Thánh, Thánh Phaolô và Lịch Sử, Thời Sự Thần Học số 1, HVĐM 2008, tr 88.

[54] GLHTCG, số 550.

[55] Phan Tấn Thành, Thần Học về Thập Giá Theo Kinh Thánh, Thánh Phaolô và Lịch Sử, Thời Sự Thần Học số 1, HVĐM 2008, 88.

[56] Phan Tấn Thành, sđd.

[57] Phan Tấn Thành, sđd.

[58] Fr. Joseph Nguyễn Văn Hiển, op. Dẫn Vào Phụng Vụ Của Giáo Hội, Phần II: Mầu Nhiệm Cử hành, 99.

[59] Phan Tấn Thành, Thần Học về Thập Giá Theo Kinh Thánh, Thánh Phaolô và Lịch Sử, Thời Sự Thần Học, số 1, HVĐM 2008, tr 89.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn