Thập Giá Đức Kitô, Niềm Vinh Dự Của Chúng Ta

 

Pet. Võ Tá Đương, OP

 

Ôi thập tự chỉ ngươi là xứng đáng

Giá chuộc đời đem cất giữ trong tim!

Biển trần gian, tàu cờ hiệu Máu Chiên

Ngươi rước kẻ đắm chìm cho cập bến.

Cung trầm bỗng dệt bài ca cầu nguyện,

Xin cúi đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi

Đã đổ hồng ân cứu chuộc loài người

Muôn muôn thuở, xin dâng lời vinh chúc.[1]

Cùng với Giáo hội, cách riêng là với chị em các Hội dòng Mến Thánh giá, năm nay (năm 2020) chúng ta hân hoan và long trọng cử hành một biến cố rất lớn lao, cao cả và rất đáng ghi nhớ: kỷ niệm 350 năm ngày khai sinh Dòng Mến Thánh giá trên đất Việt. Đây không chỉ là niềm hân hoan và niềm hãnh diện của chị em Mến Thánh giá, mà còn cho cả Giáo hội Việt Nam của chúng ta. Bởi lẽ, trang sử 350 năm Dòng Mến Thánh giá hiện diện trên dải đất mang hình chữ S thân yêu này, đánh dấu một bước ngoặt, một cột mốc, một chặng đường đầy ân sủng và tình yêu mà Thiên Chúa trao ban cho Giáo hội, cho Hội dòng và cho mỗi chúng ta qua thập giá Chúa Kitô. Đây cũng là “trạm dừng chân” rất ý nghĩa của chị em Mến Thánh giá và cả chúng ta, để cảm tạ hồng ân Chúa vì những hoa trái dồi dào mà “thập giá” Chúa Kitô mang lại cho Giáo hội, cho Hội dòng và cho tất cả chúng ta; để qua đó, chúng ta cùng với chị em Mến Thánh giá nhớ về cội nguồn yêu thương, tưởng nhớ và tri ân các vị tiền bối, đặc biệt là Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, vị Thừa sai thánh đức, vị Đại diện Tông Tòa tiên khởi Miền Truyền giáo Đàng Trong, Giám Quản Tông Tòa Miền Truyền giáo Đàng Ngoài, Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá. Người đã không quản ngại khó khăn vất vả để khai đường, mở lối cho một lý tưởng tuyệt vời, đáng trân trọng và ghi nhớ. Lý tưởng đó chính là “Linh đạo Mến Thánh Giá”.



Tưởng nhớ và tri ân Đức cha Pierre Lambert de la Motte, Vị thừa sai thánh thiện, vị Tổ phụ Mến Thánh Giá Việt Nam

Đức Cha Pierre Lambert de la Motte là một trong ba vị Giám mục Thừa sai người Pháp tiên khởi trong chức vụ Đại diện Tông Tòa được gửi sang truyền giáo tại miền Đông Nam Á vào thế kỷ VII. Ngoài việc truyền chức cho các linh mục bản xứ Việt Nam và việc thiết lập hàng giáo sĩ địa phương, ngài còn có công sáng lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam, một dòng nữ đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, dành cho người Việt Nam và để phục vụ cho dân tộc Việt Nam. Sát cánh với các vị thừa sai khác, ngài đã gieo vào lòng Giáo hội Công giáo Việt Nam một nền linh đạo tập trung vào “Chúa Kitô Chịu-Đóng-Đinh”, để chính nền linh đạo này đã trở nên động lực vững chắc thúc đẩy hàng trăm ngàn tín hữu Việt Nam mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong suốt gần 300 năm cấm đạo.[2]

Với tâm tình tri ân cảm mến chúng ta cùng điểm qua đôi nét về tiểu sử của người.

Lambert sinh 28/01/1624 tại Lisieux, nước Pháp. Song thân của người là Ông Cố Pierre Lambert de la Motte (1575-1635), và Bà Cố Catherine Heudey de Pommainville et de Bocquencey (1583-1640).

Sống trong gia đình đạo đức, cậu Pierre Lambert thường hay tiếp xúc với nông dân và chia sẻ của cải vật chất cho người nghèo. Cậu thích tản bộ trong rừng vắng để cầu nguyện. Đặc biệt cậu say mê đọc và suy niệm sách “Gương Phúc”, một tác phẩm tu đức đã ảnh hưởng sâu sắc trên đời sống Giáo hội từ hai thế kỷ trước.

Sớm mồ côi cha mẹ, và là trưởng nam trong gia đình gồm bảy anh chị em, cậu Pierre Lambert phải gánh vác việc nhà, nên không hề nghĩ tới ơn gọi tu trì. Tuy nhiên, trong thời gian theo học chương trình phổ thông tại trường các tu sĩ Dòng Tên tại Collège de Mont, cậu Pierre Lambert được Cha Hayneuve khai tâm về đời sống cầu nguyện, và được Cha Hallé, Dòng Bé Mọn hướng dẫn vào đời sống khổ hạnh. Nhờ vậy, cậu Pierre Lambert tập được thói quen tốt lành là rước lễ hằng ngày, nguyện ngắm mỗi ngày hai giờ và ăn chay nhiều ngày trong tuần.

Sau khi tốt nghiệp trung học, sinh viên Pierre Lambert học luật, rồi làm luật sư lúc mới 23 tuổi (năm 1646), theo đúng truyền thống một gia đình thẩm phán, quý phái. Sau đó, luật sư Pierre Lambert làm việc tại Nghị viện Paris, Tòa án Thuế vụ và Trung tâm Xã hội Rouen. Trong khi thi hành chức nghiệp, luật sư Pierre Lambert tích cực tham gia các sinh hoạt đạo đức, tông đồ và xã hội của Giáo hội vùng Normandie và tại đây, người đã tìm được hướng đi cho đời mình.

Sau cuộc hành hương và tĩnh tâm dịp cuối năm 1654 Pierre Lambert đã đi đến những quyết định: Gia nhập chương trình truyền giáo Canađa; Chọn đời sống giáo sĩ, nên đã bỏ nghề luật sư tại Tòa án Thuế vụ và xin vào Chủng viện.

Sau khi hoàn thành chương trình học tại Chủng viện, tháng 9 năm 1655, tại Collège de Mont, thầy Pierre Lambert chịu phép cắt tóc và các chức nhỏ do Đức Cha Địa phận Bayeux trao ban. Sau cuộc tĩnh tâm bốn mươi ngày, thầy Pierre Lambert lãnh tác vụ Linh mục ngày 27/12/1655.

Sau khi thụ phong Linh mục, cha Pierre Lambert được bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành Trung tâm Xã hội Rouen, nơi mà cha tham gia các hoạt động tại đó khi còn là sinh viên và luật sư. Đây là một tổ chức đạo đời để tiếp đón và giúp đỡ dân nghèo, đặc biệt là giới nữ.

Năm 1657, ngài tham gia vận động cho công cuộc truyền giáo Viễn Đông. Ngày 29/07/1658 Đức Giáo hoàng Alexandre VII chọn cha Pierre Lambert làm Giám mục hiệu tòa Béryte. Ngày 09/09/1659, Tòa Thánh lại bổ nhiệm Đức tân Giám mục Pierre Lambert làm Đại diện Tông tòa đi truyền giáo tại vùng Viễn Đông, cùng với Đức Cha Francois Pallu. 

Ngày 11/06/1660, Đức Cha Pierre Lambert được Đức cha Bouthillier, Tổng Giám mục Tours tấn phong Giám mục, tại nguyện đường Dòng Thăm Viếng, Paris.

Cuối năm 1664, Đức cha Pierre Lambert cùng với Đức cha Francois Pallu tổ chức Công đồng địa phương, gọi là Công đồng Juthia. Công đồng đã quyết định ba việc quan trọng: Soạn thảo “Huấn Thị gởi các thừa sai”; Xây dựng một Chủng viện chung cho cả vùng Viễn Đông; Lập Hội Tông Đồ.

Tháng 01/1670, người phong chức linh mục cho bảy thầy giảng Đàng Ngoài, cùng với mười thầy lãnh các chức nhỏ và hai mươi thầy lãnh phép cắt tóc, trên chiếc thuyền được coi như “Nhà Thờ Chính Tòa” đầu tiên của Việt Nam.[3]

Ngày 14/02/1670, người triệu tập và chủ tọa Công đồng Phố Hiến với sự hiện diện của ba linh mục thừa sai Pháp và chín linh mục Việt Nam.

Ngày 19/02/1670, Đức cha Pierre Lambert đích thân nhận lời khấn của hai nữ tu tiên khởi Anê và Paula tại Phố Hiến.[4] Đó chính là ngày khai sinh Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam. Tòa Thánh gián tiếp công nhận hai bản luật của Hiệp Hội Mến Thánh Giá tại Thế và Tu hội nữ Mến Thánh Giá, qua Nghị định ngày 28/8/1678 của Thánh Bộ Truyền Giáo, ban ơn đại xá và tiểu xá cho các thành viên của hai tổ chức này.

Theo chứng từ của chính Đức Cha Pierre Lambert, việc thành lập dòng nữ Mến Thánh Giá nằm trong một dự định lớn, phát sinh từ kinh nghiệm thiêng liêng của người về cuộc gặp gỡ ân tình với “Chúa Cứu Thế Chịu Đóng Đinh”.

Dù gặp khó khăn và chống đối, Đức Cha Lambert vẫn quyết định đi kinh lý Giáo hội Đàng Trong. Sau hơn một tháng vượt biển đầy gian nguy do bão tố và hải tặc, đoàn thừa sai đã cập bến Nha Trang ngày 01/9/1671. Trong lần kinh lý này, ngoài những việc mục vụ khác, người đã Lập Dòng nữ Mến Thánh giá tại An Chỉ vào dịp lễ Giáng sinh năm 1671, và Khai mạc Công đồng Hội An ngày 15/01/1672 do người chủ tọa, trước sự hiện diện của các giáo sĩ thừa sai, các linh mục bản quốc và khoảng ba mươi thầy giảng.[5]

Cuối tháng 3/1672, Đức Cha Lambert trở về Thái Lan và đã thực hiện một số việc quan trọng. Một trong những việc quan trọng đó là Thành lập Dòng nữ Mến Thánh Giá Thái Lan, tại Juthia với những thiếu nữ gốc Đàng Trong Việt Nam, trao cho họ Bản luật giống như ở Đàng Ngoài và Đàng Trong Việt Nam.

Từ tháng 05/1676, sức khoẻ Đức Cha Pierre Lambert kém dần. Chứng bệnh đường ruột và sạn thận làm cho Đức Cha Pierre Lambert đau đớn nhiều, khiến người cảm thấy cần được yên tĩnh để cầu nguyện và kết hiệp mật thiết với “Chúa Giêsu-Kitô - Chịu-Đóng-Đinh”.

Ngày 15/6/1679, lúc 4 giờ sáng, Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, vị Đại diện Tông Tòa tiên khởi Miền Truyền giáo Đàng Trong, Giám Quản Tông Tòa Miền Truyền giáo Đàng Ngoài, Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá, đã trút hơi thở cuối cùng và an nghỉ trong Chúa tại Juthia, Thái Lan.[6]

Người ra đi, để lại cho Giáo hội nhiều kho tàng với những di sản quý giá. Một trong những di sản đó chính là đặc sủng và linh đạo Mến Thánh giá với châm ngôn thật tuyệt vời của chị em Mến Thánh giá: “Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con.”  Qua đó, chị em mang trong mình nỗi đau của Đức Kitô trên thập giá, để hoàn tất nơi thân xác những gì còn thiếu trong các nỗi gian truân của Chúa Kitô phải chịu cho thân mình Người là Hội Thánh.

Cùng với Giáo hội, cách riêng là Giáo hội Việt Nam và Thái Lan, đặc biệt là với chị em Mến Thánh giá, chúng ta hiệp lòng cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội, cho chúng ta vị mục tử thánh đức, tri ân Đức Cha Lambert de la Motte vì người đã không quản ngại hy sinh vất vả để gieo trồng, chăm sóc hạt giống tốt Tin Mừng trên vùng Viễn Đông, cùng với công phúc, bao hoa trái thiêng liêng tốt lành và bao di sản quý giá ngài đã để lại cho Giáo hội Việt Nam, cho các nữ tu Mến Thánh giá và cho mỗi chúng ta. Nơi tòa cao vinh hiển, xin Đức Cha Lambert de la Motte tiếp tục nâng đỡ, đồng hành và nguyện thay cầu giúp cho Giáo hội Việt Nam, cho chị em Mến Thánh Giá và cho mỗi chúng con.

Dòng Mến Thánh Giá, Ân Phúc Chúa Ban Cho Giáo Hội

Dòng Mến Thánh Giá được khai sinh từ lòng đất mẹ Việt Nam, trong chiếc thuyền trên dòng sông Hồng tại bến nước Phố Hiến ở xứ sở Đàng Ngoài, khi Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, vị Đại diện Tông Tòa tiên khởi Miền Truyền giáo Đàng Trong, Giám Quản Tông Tòa Miền Truyền giáo Đàng Ngoài, long trọng đón nhận lời Tuyên khấn của hai trinh nữ đầu tiên là chị Anê và Paula, vào thứ Tư Lễ Tro, ngày 19/02/1670; đồng thời trao cho các chị bản luật tiên khởi gồm mười bốn điều khoản mà chính Đức Cha đã dày công biên soạn, và xác định rõ tên gọi “một tu hội đặc biệt mang danh hiệu Dòng Nữ Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô”.[7] Chính biến cố này đã đánh dấu ngày hồng ân thành lập Dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam. “Đây là Dòng nữ đầu tiên mang bản sắc Á Đông, vừa chiêm niệm vừa hoạt động, có lời khấn, sống thành cộng đoàn theo một bản luật, trực thuộc Đấng Bản Quyền sở tại và hướng về việc truyền giáo cho lương dân.”[8]

Trải qua 350 năm hình thành và phát triển, qua bao thăng trầm lịch sử, lắm phen phải đánh đổi bằng giá máu và mạng sống, chị em Mến Thánh Giá vẫn một lòng son sắt, trung kiên với đặc sủng và linh đạo mà Chúa Thánh Thần đã khởi hứng qua Đấng sáng lập, Đức Cha Lambert de la Motte. Nhờ đó, sau 350 năm kể từ ngày hồng ân khai sinh, đến nay đã có ba mươi Hội Dòng Mến Thánh Giá hoạt đồng gần như khắp các châu lục trên thế giới. Riêng tại dải đất hình chữ S Việt Nam đến nay đã có hai mươi bốn Hội Dòng Mến Thánh Giá; tại mảnh đất Chùa Vàng - Thái Lan đã có ba Hội Dòng Mến Thánh Giá, tại đất nước Hoa Kỳ vĩ đại cũng đã có một Hội Dòng Mến Thánh Giá; tại Lào có một Hội Dòng Mến Thánh giá và tại Campuchia cũng đã có một Hội Dòng mang tên Mến Thánh Giá. Theo thống kê năm 2019, Dòng Mến Thánh Giá hiện có 8.961 nữ tu hoạt động trên khắp thế giới, với 1.094 Tập sinh và Tiền tập sinh, cùng với đông đảo các thiếu nữ dự tu dòng Mến Thánh Giá, và hơn 14.000 hội viên Mến Thánh Giá tại thế. Ơn gọi Mến Thánh Giá vẫn đang ngày càng gia tăng trong Hội dòng Mến Thánh Giá trên mọi miền đất nước và cả hải ngoại.

Trong một bài viết về Hội dòng Mến Thánh Giá, linh mục Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ., thật có lý để nhận định rằng, “Dòng Mến Thánh Giá là một hạt giống nhỏ bé như hạt cải, Chúa đã gieo xuống đất Mẹ Việt Nam, và đã mọc lên thành một cây, nhánh vươn vươn dài, không chỉ “tới đại dương” như lời thánh vịnh 79,10; mà qua đại dương, tới châu Âu, châu Mỹ, châu Úc”.[9]  Quả thật, đó là một trong những minh chứng hùng hồn, một phép lạ hiển nhiên mà Chúa đã thực hiện nhờ công phúc của Đức Cha Lambert de la Motte đáng kính.

Giáo hội Việt Nam chúng ta, từ những giai đoạn đầu tiên đã được tô điểm bằng những “bông hoa trinh nữ” tươi tắn trong màu áo của Hội dòng nữ Mến Thánh Giá. Đây là một Hội dòng có lịch sử gắn bó chặt chẽ với Giáo hội Việt Nam và có những đóng góp thiết thực vào sự phát triển của Giáo hội non trẻ, sự trưởng thành của hàng Giáo phẩm và sự kiên vững trong đức tin của từng giáo hữu Việt Nam.[10]

 350 năm hiện diện và tồn tại trên quê hương đất Việt là một hành trình đầy thách đố của niềm tin, của hy sinh và dâng hiến, để người nữ tu Mến Thánh Giá có thể minh chứng tình yêu phi thường dành cho Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh”.[11]

Ơn gọi và sứ vụ của nữ tu Mến Thánh Giá giữa lòng Giáo hội

Cũng như tất cả các ơn gọi khác, chị em Mến Thánh Giá trước hết và trên hết là được mời gọi sống đời thánh hiến, phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân theo mẫu gương của Thầy chí Thánh Giêsu, Đấng đã thánh hiến chính mình, để tất cả chúng ta được thánh hiến trong Người.[12] Đặc biệt chị em Mến Thánh Giá quy hướng hoàn toàn vào Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh và Thánh Giá cứu độ của Người, tổng hợp kinh nghiệm thiêng liêng của Đức Cha Lambert de la Motte, qua câu châm ngôn mà chị em Mến Thánh Giá khắc cốt ghi tâm: “Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí con.” Câu châm ngôn đó trở nên một lý tưởng sống của các nữ tu Mến Thánh Giá.

Ơn gọi căn bản Dòng Mến Thánh Giá là sống mầu nhiệm tình yêu, hàm chứa sứ mạng tông đồ, vì Chúa Kitô mà người nữ tu Mến Thánh Giá chuyên chú tìm hiểu, yêu mến và bắt chước, là vị tông đồ hoàn hảo của Chúa Cha. Vậy người nữ tu Mến Thánh Giá phải trở nên tông đồ của Chúa Kitô và thông dự vào hành động cứu thế của Người, nghĩa là cứu thế bằng hy sinh và bằng tinh thần trung gia”.[13]

Quả thế, người nữ tu Mến Thánh Giá được mời gọi hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa qua sứ mạng của mình: tham dự vào tinh thần trung gian của Đức Kitô và tiếp nối sứ mạng cứu độ của Người bằng việc chuyển cầu nơi nguyện đường và trong cuộc sống. Bằng đời sống cầu nguyện: chị em tha thiết xin ơn hoán cải cho lương dân và các tín hữu sống xa lìa Thiên Chúa, cùng xin Người tuôn đổ phúc lành xuống trên Giáo hội và xã hội. Bằng đời sống chứng tá: chị em hăng say dấn thân phục vụ ưu tiên giới nữ, giới trẻ trong các lĩnh vực: văn hóa, xã hội, y tế, luân lí và đức tin.

Trong cuốn Hiến Chương Bảy Hội dòng Mến Thánh Giá Tổng Giáo phận Sài Gòn, phần Quy tắc, điều 71 xác định:

- Chị em tìm hiểu đời sống văn hoá xã hội địa phương và ý nghĩa các dấu chỉ thời đại, lượng định tất cả dưới ánh sáng Phúc Âm và giáo huấn của Giáo hội để dấn thân cách sáng suốt và can đảm cho công cuộc loan báo Tin mừng.

- Giáo dục giới trẻ: về văn hoá và đức tin.

- Văn hoá: làm việc trong các tổ chức của xã hội hoặc sáng kiến của cộng đoàn địa phương, quan tâm trẻ em nghèo, thất học.

- Đức tin: mục vụ giáo xứ, Giáo phận.

- Phục vụ bệnh nhân: trong các tổ chức xã hội, y tế và y học dân tộc.

- Bảo vệ trẻ thơ: rửa tội, gây ý thức cho mọi người, đặc biệt các phụ nữ biết tôn trọng sự sống và bảo vệ quyền lợi trẻ thơ.

- Thăng tiến nữ giới bằng hướng nghiệp, hướng dẫn đời sống phụ nữ trong gia đình và xã hội.

- Tổ chức tông đồ cần theo sát đường hướng mục vụ chung của Giáo hội địa phương.

- Bổ túc cho sứ vụ hàng giáo sĩ trong những công việc phù hợp với đặc tính của người nữ tu, phát huy những nét độc đáo riêng của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống hiến dâng để sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc.

Theo tinh thần của Hiến Chương, cũng như linh đạo và đặc sủng của Dòng Mến Thánh Giá, người nữ tu Mến Thánh Giá xác tín rằng, Chúa Kitô đã làm tông đồ cho tình yêu cứu độ của Chúa Cha và góp phần vào công cuộc ấy bằng cái chết tự nguyện trên thập giá. Noi gương Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí mình, người nữ tu Mến Thánh Giá không còn sống cho chính mình, mà chỉ sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình, tự nguyện đặt mình dưới sự thôi thúc của tình yêu Chúa Kitô, lệ thuộc hoàn toàn vào Người, và chỉ sống bằng giáo huấn, gương sáng và sự sống của Người: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tô.” (Gl 2, 20). Noi gương Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh là đối tượng duy nhất của lòng trí mình, người nữ tu Mến Thánh Giá cũng đón nhận và thể hiện tinh thần trung gian của Chúa Kitô qua những công việc bác ái cụ thể, bằng cách tham gia vào công cuộc tái tạo trong việc xoa dịu những nỗi khổ đau tinh thần và thể xác của những thành phần đau khổ của Nhiệm Thể Chúa Kitô, đặc biệt là giới nữ và trẻ em.

Từ lúc thành lập, các nữ tu Mến Thánh Giá sống giản dị như người bình dân Việt Nam, giữa giới nông dân tay lấm chân bùn. Các chị nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải, làm thuốc nam… rồi len lỏi mang các sản phẩm tự tay mình sản xuất đi từ làng nọ qua làng kia, vào những nơi hẻo lánh, với mục đích đem Phúc Âm Chúa Kitô đến cho mọi người và rửa tội cho các trẻ em hấp hối. Các chị em là những người nhiệt thành dạy giáo lý cho người nghèo, thăm viếng người già cả, bệnh tật. Trong thời điểm cấm đạo, các chị em Mến Thánh giá đi thăm viếng, mang Mình Thánh Chúa, và lương thực cho các cha, các bổn đạo bị giam cầm. Các chị phục vụ ưu tiên cho nữ giới và trẻ em, hướng dẫn thiếu nữ cách sống trong gia đình và ngoài xã hội: nuôi dạy trẻ mồ côi, phục vụ bệnh nhân, và nhất là nâng đỡ, giúp các phụ nữ sa chân lỡ bước trở về đường lương thiện.

Trải qua nhiều biến động về xã hội, dù cuộc sống còn nhiều khó khăn về nhiều mặt nhưng hiện tại, các chị em Mến Thánh Giá vẫn có mặt trong nhiều lĩnh vực, nhiều môi trường và hoàn cảnh khác nhau trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội. Trong Giáo hội, chị em dạy Giáo lý Thiếu nhi, cũng như người lớn, và các lớp Giáo lý Dự tòng, Hôn nhân; điều khiển các hội đoàn trong các Giáo xứ, mục vụ Giáo xứ theo khả năng và sứ vụ của mỗi chị em… Bên cạnh đó, chị em còn mở các trường Mầm non, các lớp học tình thương phổ cập giáo dục cho những em có hoàn cảnh khó khăn; mở ký túc xá cho các học sinh, sinh viên lưu trú; phục vụ tại các cô nhi viện, nhà dưỡng lão, trạm y tế, các trung tâm phục hồi nhân phẩm phụ nữ, chăm sóc bệnh nhân AIDS, và tham gia hoạt động trong các công tác xã hội khác.[14] Ở đâu, các chị em Mến Thánh Giá cũng nêu cao một tinh thần khiêm tốn, hy sinh âm thầm và sẵn sàng đón nhận Thập giá của chính mình và của mọi người để được tháp nhập vào Thập Giá của Chúa Kitô, khuôn mẫu mà các chị em luôn hướng tới.

Thế đó, các nữ tu Mến Thánh Giá đã thích nghi nhanh chóng với mọi hoàn cảnh của thời đại, mọi thành phần xã hội, đặc biệt là các chị em phụ nữ và trẻ nhỏ. Dù có khó khăn, đau khổ hay bị bách hại, các chị vẫn đón nhận trong khiêm tốn, vui vẻ và coi đó là cơ hội giúp mình càng nên giống Đấng Chịu Đóng Đinh trên Thập Giá để hướng mọi người đến với ơn cứu độ.

Trải qua bao biến cố thăng trầm, chị em Mến Thánh Giá vẫn trung thành bảo toàn ơn gọi và thi hành sứ mạng đặc biệt của Dòng với sự sáng tạo, thích nghi cần thiết, tuỳ hoàn cảnh địa phương và khả năng của mình. Mọi sáng tạo thích ứng đó luôn trung thành với con người và thời đại, Đức Kitô và Phúc Âm của Người, Giáo Hội và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới, đời sống tu trì và đặc sủng của Dòng.”[15]

 Đời sống chứng tá của các nữ tu Mến Thánh Giá để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng Giáo hội Việt Nam và trong lòng nhiều người con của đất Việt.

Thay lời kết

 Kỷ niệm 350 năm ngày khai sinh Hội Dòng Mến Thánh Giá là một thời điểm thuận tiện để chúng ta tạ ơn Chúa, tri ân Đấng sáng lập Dòng Mến Thánh Giá, cảm ơn chị em Mến Thánh Giá đã hết mình vì Giáo hội và vì ơn cứu độ các linh hồn. Đây cũng là “chặng dừng chất” rất quý giá và thuận tiện, không phải chỉ để tự hào và hãnh diện vì một dòng tu có bề dày trong lịch sử Giáo hội với những thành quả đạt được, nhưng để mỗi chị em Mến Thánh Giá “trở về nguồn” với “tình yêu thuở ban đầu” giúp chị em sống đúng với linh đạo và đặc sủng Mến Thánh Giá mà Chúa Thánh Thần đã gợi lên nơi Đấng Tổ Phụ Mến Thánh Giá; ngõ hầu tiếp bước các bậc tiền nhân hân hoan viết tiếp trang sử mới, và nhờ Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh, trổ  sinh trái thiêng liêng dồi dào và tốt lành cho Giáo hội và cho thế giới.

Xin được chung lời tạ ơn với chị em Mến Thánh Giá và chúc mừng quý chị em trong dịp hồng phúc này. Ước mong sao, với thời điểm được sống trong 350 năm hồng phúc này, tất cả chị em đang sống theo linh đạo Mến Thánh Giá luôn được “trung kiên thực thi sứ mạng chuyển cầu mà Đức Cha Lambert đã nêu gương và chỉ dạy, để khi kết hiệp với hy tế Thập Giá của Đức Ki-tô, qua đời sống cầu nguyện, khổ chế, hiến dâng và phục vụ của chúng con, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ cho đến tận thế, hầu cho nhiều người được hoán cải và lương dân được đón nhận Tin Mừng.[16] Để nhờ ơn tình yêu và sức mạnh từ thập giá Chúa Kitô, dẫu có gặp phong ba bão táp giữa biển đời, chị em vẫn hân hoan ca lên “bản trường ca bất diệt” mà người nữ tu Mến Thánh Giá đã ca vang suốt 350 năm lịch sử.




[1] Thánh Thi Kinh Sáng, Lễ suy tôn Thánh giá.

[2] Xc. Ủy Ban Văn hóa, Hội đồng Giám mục Việt Nam, Dấu ấn 350 năm Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB. Phương Đông, 2010, trang 330.

[3] Xc. Lm. Đào Trung Hiệu, OP., Hành trình ân phúc (Hội Thánh Công giáo VN 480 năm đón nhận Tin Mừng, 1533-2013), Lưu hành nội bộ, tr. 84.

[4]  Xc. Ibid., 85.

[5] Xc. Báo Hiệp Thông, Bản tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam, số 116 (tháng 01 & 02 năm 2020), trang 29 - 30.

[6] Xc. Lm. Đào Trung Hiệu, OP., Hành trình ân phúc, trang 87.

[7] Xc. Ủy Ban Văn hóa, Hội đồng Giám mục Việt Nam, Dấu ấn 350 năm Giáo hội Công giáo Việt Nam, NXB. Phương Đông, 2010, trang 18-19.

[8] Hiến chương Dòng Mến Thánh Giá, Điều 01.

[9] Xc. https://ktcgkpv.org/articles/get-article?id=286.

[10] Xc. Học viện Đa Minh, Một dòng sông chảy ra bao nhánh – Tìm hiểuLinh đạo các dòng tu, Lưu hành nội bộ, trang 253.

[11] Xc. https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/350-nam-dong-men-thanh-gia-cuoc-doi-duc-cha-pierre-lambert-de-la-motte-60272.

[12] Xc. Ga 17, 19.

[13]  Báo Hiệp Thông, Bản tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam, số 116 (tháng 01 & 02 năm 2020), trang 134.

[14] Xc. Báo Hiệp Thông, Bản tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam, số 116 (tháng 01 & 02 năm 2020), trang 147 -149.

[15] Xc. Báo Hiệp Thông, Bản tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam, số 116 (tháng 01 & 02 năm 2020), trang 142.

[16] Kinh Năm Thánh Mừng Kỷ Niệm 350 Năm Thành Lập Dòng MTG

 

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn