Bài giảng 174,8: “Tại sao Người đến thế gian?
- Để cứu những
người tội lỗi.
Không có lý do
nào khác nữa để Người phải đến thế gian”.
Như thế,
nguyên nhân duy nhất của sự nhập thể
thực sự là tội
lỗi con người, bởi vì nếu không có nó,
tất cả các mục
đích nhập thể của Thiên Chúa
sẽ không bao giờ cần thiết và hiện hữu.
Thiên Phú, OP.
DẪN NHẬP
Vì yêu thương nhân loại
tội lỗi, Ngôi Lời đã nhập thể làm người. Người đã sống trọn vẹn phận người như chúng ta với tất cả mọi
yếu đuối nơi bản tính nhân loại, ngoại trừ tội lỗi. Người đã trải qua mọi thử
thách bằng đau khổ để có thể cứu giúp những ai đang chịu thử thách (x.
Dt 2,18). Trong Kinh Tin Kính, Giáo hội tuyên xưng rằng:
"Vì loài người chúng tôi, và để cứu độ chúng tôi, Người đã từ
trời xuống thế." Quả thật, Đức Giêsu không chỉ là Emmanuel, là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta , Người
còn là Thiên-Chúa-vì-chúng-ta, là Con Thiên Chúa, là Thiên
Chúa cứu độ. Thế nhưng, đối với những ai mới bắt đầu trở thành Kitô hữu, không
đơn giản để có thể hiểu biết vấn đề này. Khi mới bắt đầu hoán cải và đối diện
với nhiều triết thuyết mời gọi, chàng thanh niên Augustinô cũng cảm thấy băn
khoăn tìm lời giải đáp cho thao thức của mình về mầu nhiệm Nhập Thể. Để rồi từ
đó, Augustinô luôn mang trong mình nỗi niềm khắc khoải ấy “cho đến khi được
nghỉ yên trong Chúa.”
Trong
phạm vi bài viết, chúng ta không có tham vọng tìm hiểu Kitô học của ngài, nhưng
chỉ dừng lại cùng với thánh Augustinô tìm câu trả
lời cho vấn nạn : Tại sao Thiên Chúa làm người?
Trong
tác phẩm Tự Thuật, thánh Augustinô viết rằng:
Lúc bấy giờ, con đã tìm ra
cách mạnh mẽ khả năng hưởng kiến Người, nhưng không tìm ra, cho tới khi con ôm
ghì được Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Đức Kitô làm người,
Đấng được chúc lành muôn đời trên hết mọi sự. Ngôi Lời đã trở thành nhục thể để
sự khôn ngoan mà do đó Người tạo dựng mọi sự, trở thành sữa nuôi nấng tuổi thơ
chúng con. Thực ra con không nắm bắt được Đức Giêsu trong sự khiêm hạ của Người
và cũng không biết sự yếu hèn Người đòi hỏi con điều gì. Nhưng về Đức Kitô, con
có một ý tưởng trong đầu: nguyên ý tưởng về một con người khôn ngoan lỗi lạc,
không ai sánh nổi, đặc biệt nhân vì việc sinh ra tuyệt vời từ một trinh nữ,
hình như có sự lưu ý đặc biệt của Thiên Chúa trên chúng ta, đã ủy nhiệm Người
một cách xứng đáng để Người trở nên gương mẫu hầu chúng ta biết kinh chê thế sự để có được tính bất
diệt. Nhưng mầu nhiệm Ngôi lời mặc lấy xác phàm vận chuyển cả một mầu nhiệm lớn lao mà con không thể ngờ. Con nhận
ra rằng nơi Đức Kitô là một con người đầy đủ, chứ không chỉ là một thân thể
hoặc một linh hồn không có tư tưởng, liên kết với thân xác nhưng đây là một con
người thật mà theo con vượt trên mọi người khác, không phải vì Người là hiện
thân của Chân Lý, nhưng vì một vài ân huệ siêu vời trong nhân tính, một liều
khôn ngoan hiếm có. Con phải thú nhận rằng mình cần thêm thời gian để học biết
về Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập thể, sự khác biệt giữa chân lý Kitô giáo và lạc thuyết
Phôtinô.[1]
Thánh Augustinô mô tả ý tưởng
mình về Đức Kitô tại thời điểm ngài hoán cải năm 386, mặc dù với kiến thức và
vốn từ vựng của vị giám mục năm 398. Rõ ràng, ngài tin rằng Đức Kitô là một con
người hoàn toàn, được sinh ra cách lạ thường từ một trinh nữ. Theo góc nhìn của
Augustinô, Đức Kitô khác biệt với người khác không phải vì thần tính của Người,
mà là những phẩm chất con người độc đáo, cuộc sống hoàn hảo, trí tuệ và công
lao độc nhất của Người, được Thiên Chúa lựa chọn để trở thành Gương Mẫu và Vị
Thầy dẫn đàng đến sự sống bất tử.
Vào thời điểm trở lại, thần học
của Augustinô rõ ràng không vượt quá giới hạn của triết học. Việc ngài chấp
nhận nhân tính đầy đủ của Đức Kitô không liên quan gì đến thần học hay kiến
thức về thuyết Apôlinariô. Ngài bảo vệ hồn suy lý của Đức Kitô khi trình bày
vấn đề này trong Tự Thuật. Ngài không bao giờ nghĩ rằng Đức Kitô có thể
thiếu bất kỳ phẩm chất con người nào và Kinh thánh đã xác nhận điều đó. Tuy
nhiên, đoạn văn được trích dẫn ở trên đồng thời cho thấy quan điểm của
Augustinô về Đức Kitô: Người là trung gian giữa Thiên Chúa và con người, Lời
Thiên Chúa và sự khôn ngoan, nhờ đó mà vạn vật được tạo thành. Người hạ mình vì
lợi ích của con người và trở thành chính con người, mang lấy nhân tính hoàn
hảo, thể xác, tâm trí và linh hồn, hợp nhất với Ngôi Lời. Người thực sự là
Thiên Chúa và thực sự trở thành người và “cư ngụ giữa chúng ta”.
2. Lối giải thích của thánh
Augustinô về Ga 1,14
Chính xác là khi nào Augustinô
hiểu được ý nghĩa chính thống về Ga 1, 14? Có lẽ sau tháng 5 năm 395 và trước
ngày 28 tháng 8 năm 397. Đây là quãng thời gian ngài sáng tác Về 83 vấn đề
khác nhau. Trong Questio 80[2] “Chống
lại phái Apôlinariô” ngài nêu lên đề này. Khi phái Apôlinariô giải thích theo
nghĩa đen, rằng Ngôi Lời chỉ đảm nhận xác thể, nhưng không có hồn suy lý và do
đó không có trí thông minh, cảm xúc và ý chí của con người.
Augustinô bác bỏ cách giải
thích theo nghĩa đen của phái Apôlinariô về hạn từ caro. Ngài cho thấy
rằng Kinh thánh thường xuyên sử dụng cả caro và anima như pars
pro toto cho homo, ví dụ: Lc 3,6: “Rồi hết mọi người phàm (caro)
sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”, và St 46,27 "tất cả các linh hồn (anima)
của nhà Giacóp đã vào Ai Cập". Sau đó, Augustinô giải thích thần học dựa
trên nền tảng của Ga 1,14 theo hai bước. Trước hết, Thánh Kinh khẳng định rõ
ràng linh hồn của Chúa Kitô, đặc biệt là chính Tin Mừng theo Gioan, ví dụ: Ga
10,18: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh
mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”, hoặc
15,13 “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúng ta thường dịch là “mạng sống”, nhưng
tiếng Latinh trong trường hợp này chặt chẽ tuân theo "Psyche"
trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là sức mạnh lý trí của sự sống vốn mang lại suy
tưởng và cảm xúc.
Lập luận phản đối của phái
Apôlinariô là: Tin Mừng Gioan hẳn đã sử dụng từ anima theo nghĩa bóng,
Augustinô không chấp nhận. Vậy thì người ta giải thích thế nào về các đoạn Kinh
thánh nói về cảm xúc của Đức Kitô: đau khổ, kinh ngạc, tức giận, nỗi buồn, niềm
vui của Người, v.v.? Đây là các nhiệm vụ của hồn suy lý, không phải của xác
thể. Với điều đó, Augustinô chạm đến vấn đề cốt lõi của thuyết
Apôlinariô.
Cảm xúc không phải là chức năng của xác thể. Nếu Đức Kitô không có nhân tính
trọn vẹn, không có hồn suy lý làm chỗ dựa cho cảm xúc, thì thần tính phải là
tác giả của chúng. Thế nhưng, thần tính này có thể thay đổi được và do đó không
còn là thần tính đích thực nữa. Phủ nhận hồn suy lý nơi Đức Kitô cũng phủ nhận
toàn bộ thần tính. Sau khi bác bỏ thuyết Apôlinariô, Augustinô khẳng định rằng caro
factum không có nghĩa là "biến đổi thành xác thể", Logos không
trở thành con người bằng cách từ bỏ thần tính trước đây của mình, nhưng bằng
cách thêm vào đó "hình thức của một nô lệ"
(Pl 2,7),
nhưng Người vẫn luôn là Logos.
Xét về quá trình phát triển học
thuyết của Augustinô về sự nhập thể, người ta nhận thấy một đặc điểm chung
trong phương pháp suy tư của ngài. Augustinô khám phá từng khía cạnh của vấn đề
này, bổ sung thêm cho chúng những hiểu biết sâu sắc hơn, để rồi đi đến một thần
học hoàn chỉnh về sự nhập thể.
3. Những lý do cho sự nhập thể
Augustinô đặt ra câu hỏi: “Tại sao Con Thiên
Chúa lại nhập thể?”. Ngài chia vấn đề thành nhiều bước khác nhau: Trước hết: Có
tất yếu là Đấng Mêsia phải đau khổ và chịu chết để cứu độ nhân loại hay không?
Hay chính xác hơn: Có phải Chúa buộc phải làm điều đó? Vấn đề mà Augustinô đề
cập ở đây đã xuất hiện từ lâu trong Kitô giáo. Vì một Thiên Chúa đau khổ là “cớ
vấp phạm cho người Do Thái và sự ngu xuẩn đối với dân ngoại” (1Cr 1; 23). Đối
với triết học Platon thời bấy giờ, Thượng đế là Đấng tối cao, bất biến. Người
là hữu thể tâm linh thuần túy, không hòa lẫn với vật chất. Vậy, làm thế nào có
thể giải thích Thiên Chúa đã trở nên con người, phải đau khổ và chịu chết?
Augustinô trả lời vào năm 396/97 trong De agone Christiano[3]
11.12: “Chắc chắn, Thiên Chúa có thể đã nghĩ ra một kế hoạch khác; nhưng, nếu
Người hành động khác, Người sẽ khiến bạn buồn chán mà không hài lòng”. Nhưng lý
do cho sự nhập thể của Đấng Kitô là gì?
Thứ nhất: Đôi mắt tâm hồn nhìn
thấy Con Thiên Chúa là Ánh sáng vĩnh cửu, nhưng tội nhân chỉ có thể nhìn thấy
Người bằng đôi mắt thể lý; vì vậy, Người phải mang hình dạng hữu hình.
Thứ hai: Đấng Kitô là con người
trong tình trạng sáng tạo hoàn hảo, như con người ấy đã từng ở trong địa đàng
và sẽ được cứu chuộc một lần nữa. Do đó, sự nhập thể biểu trưng cho khuôn mẫu
về đời sống đức hạnh hoàn hảo mà con người có thể noi theo. Nhờ đó, nó chữa
khỏi mọi thói xấu và đặc biệt là lòng kiêu ngạo, tội lỗi nguyên thủy của loài
người. Ở đây, Augustinô gợi ý về ba chủ đề chính về Chúa Kitô mà ngài sẽ phát
triển thêm trong các tác phẩm sau này: Christus exemplum, Christus
medicus, và Christus humilis. Thế nhưng, câu trả lời phần
nào vẫn nằm ở cấp độ nhân tính của Đức Kitô và chỉ trả lời cho câu hỏi: tại sao
Con Thiên Chúa làm người, tại sao Ngài phải chịu đau khổ và chịu chết.
Vài năm
sau (khoảng năm 400), Augustinô bổ sung thêm một dòng lý luận khác trong De
catechizandis rudibus 4.7: “Còn lý do nào tốt hơn cho việc nhập thể của
Chúa hơn là ý định Người muốn cho chúng ta thấy tình yêu của Người dành cho
chúng ta,... vì chúng ta là tội nhân, Chúa Kitô đã chết thay cho chúng ta (Rm
5,8)”.[4]
Do đó. chữa lành, nêu gương, cứu độ, bày tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa,
hướng đến mục đích của sự nhập thể, nhưng không phải là nguyên nhân gốc rễ của
Biến cố Nhập thể. Đó là tội Nguyên tổ.
Lần đầu tiên thánh Augustinô diễn tả điều
này trong Enarrationes in Psalmos[5]
36 II 15: " Hỡi con người, nếu bạn đã không rời bỏ Thiên Chúa, thì Thiên
Chúa đã không làm người vì bạn.” Từ năm 411 trở đi, Augustinô đặt ra câu hỏi
“Tại sao Thiên Chúa đến thế gian này?”. Và đặc biệt trả lời câu hỏi đó trong
các bài giảng.
Bài giảng 171.1: “Không có lý
do nào khác cho việc Đức Kitô nhập thể hơn là để cứu tội nhân".
Bài giảng 174,2: “Đức Giêsu
Kitô đã đến thế gian để cứu tội nhân (1 Tm 1,5). Hãy nhớ Tin Mừng: Vì Con Người
đến để tìm kiếm và cứu những gì đã mất (Lc 19,10).
Bài giảng 174,8: “Tại sao Người
đến thế gian? Để cứu những người tội lỗi. Không có lý do nào khác nữa để Người
phải đến thế gian”. Như thế, nguyên nhân duy nhất của sự nhập thể thực sự là
tội lỗi con người, bởi vì nếu không có nó, tất cả các mục đích nhập thể của
Thiên Chúa sẽ không bao giờ cần thiết và hiện hữu. Chỉ vì con người phạm tội,
Thiên Chúa đã quyết định cứu con người trong tình yêu của Người. Thiên Chúa
chữa lành những hậu quả của tội lỗi, và dạy con người con đường dẫn đến ơn cứu
độ qua sự khiêm nhường của Người. Tội lỗi không bao giờ khiến Thiên Chúa phải
hành động. Quyết định cứu độ của Người hoàn toàn tự do. Tuy nhiên, Thiên Chúa
cũng có thể quyết định không cứu con người, như Augustinô giải thích trong
chương 99 của Enchiridion, được viết khoảng năm 412. Augustinô nói rằng
trong chương 9 của lá thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô cho biết ơn cứu độ là
một hành động ân sủng thuần túy của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vấn đề vẫn phải được
tiếp tục giải quyết là: Tại sao Thiên Chúa chọn cách này để cứu chuộc con người,
cụ thể là trở thành con người và chết vì họ? Chính trong De Trinitate,[6] được
soạn thảo sau năm 412, Augustinô trả lời câu hỏi này ở ba luận điểm (10.13,
16.21, và 17.22). “Chẳng lẽ Thiên Chúa không có cách nào khác để giải cứu con
người khỏi cõi trần hơn là để Con Một Người nhập thể bằng cách mặc lấy xác thể
và linh hồn con người, rồi chịu chết như một người phàm?” (Trin 10.13 ).
Câu trả lời là: chắc chắn có rất nhiều khả năng khác, nhưng phương pháp cứu
chuộc mà Thiên Chúa chọn là phương pháp thích hợp nhất. Cái chết của Đức Kitô
là cách cứu chuộc thích hợp nhất đối với tất cả các bên liên quan: Thiên Chúa,
con người và cả ma quỷ. Đối với Thiên Chúa, cái chết của Đức Kitô trọn hảo
nhất, vì nó cho thấy sự trao ban nhưng không và phi thường của tình yêu Thiên
Chúa cho con người. Đối với con người, cái chết này đầy đủ nhất hầu cho thấy
con người không chỉ có phẩm giá cao cả là thụ tạo của Thiên Chúa, mà Đức Kitô còn trao tặng cho con người một
khuôn mẫu về một đời sống hoàn hảo vô tỳ tích để noi theo. Đối với ma quỷ, cái
chết của Đức Kitô là cách cứu chuộc nhân loại thích hợp nhất, bởi vì ma quỷ chỉ
thống trị con người do tội lỗi, nhưng đã thất bại nặng nề khi vô cớ nuốt chửng
Đức Kitô, Đấng không hề phạm tội. Vì lỗi lầm này, ma quỷ đã mất tất cả các
quyền lực trước đây của chúng đối với con người.
4. Được nhập thể bởi Chúa Thánh Thần,
được sinh ra từ Trinh nữ Maria
Trong bài giảng 190,1-2 có lẽ
được trình bày vào lễ Giáng sinh giữa năm 391 và 400, Augustinô khẳng định rằng
Con Thiên Chúa đã quyết định việc sinh ra làm người vì những lý do không đơn
giản với lý trí, nhưng chỉ với đức tin. Tất nhiên, Người có thể trở thành một
con người, ngay cả khi không có người mẹ huyết thống. Nhưng để cứu chuộc và tôn
vinh nhân loại, Người muốn được sinh ra như một con người từ một người phụ nữ.
Thế nhưng, việc được sinh ra từ một trinh nữ phải được hiểu là Người được sinh
ra từ vĩnh cửu bởi Chúa Cha. Đức Kitô đã được sinh ra hai lần: Người được sinh
ra từ trước muôn đời bởi Chúa Cha; trong thời gian từ một trinh nữ. Việc
Augustinô phát triển thần học nhập thể trong các bài giảng và giáo lý thay vì
các luận thuyết thần học dường như cho thấy rằng ngài đang trả lời những câu
hỏi mà các tín hữu đặt ra cho mình. Sự nhập thể của Đức Kitô do Chúa Thánh Thần
làm nảy sinh nhiều vấn đề khác nhau. Từ khoảng năm 400 trở đi, các câu hỏi được
đặt ra: Ai thực hiện cuộc nhập thể của
Đức Kitô, chỉ Chúa Thánh Thần hay Ba Ngôi? Và khoảng năm 412, vấn đề trở nên
gai góc hơn: Phải chẳng việc Chúa Thánh Thần rợp bóng trên Đức Maria có nghĩa là
Người là Cha của Đức Kitô?
Augustinô trả lời câu hỏi thứ
nhất trong bài giảng 225,2 có tham chiếu đến Côlôsê 1,16 và Châm ngôn 9,1:
"Nơi Người mọi sự trên trời dưới đất đều được dựng nên", "Sự
khôn ngoan đã xây nhà cho mình". Tuy nhiên, trong Enchiridion[7] chương 38-40 thánh Augustinô
thừa nhận rằng không dễ giải thích bằng cách nào mà Đức Giêsu Kitô được hạ sinh
bởi quyền năng Chúa Thánh Thần mà không phải là Chúa Cha. Tuy nhiên, về cơ bản,
đối với Augustinô dường như là một vấn đề thuật ngữ, không phải là một vấn đề
thần học, vì câu trả lời của ngài vẫn chỉ nằm trên bình diện ngôn ngữ. Ngài
giải thích, cụm từ tiếng Latinh natus de "được sinh ra từ",
không chỉ nói đến việc được cha mẹ sinh ra, mà có thể có nghĩa là đi vào trong
hiện hữu, xuất hiện, được sản sinh….
Thực tế có thể hiểu hạn từ
"được sinh ra" theo nhiều nghĩa. Nếu tìm kiếm một sự so sánh phù hợp
để hiểu "sinh ra từ Chúa Thánh Thần", người ta không nên nhìn vào sự
hạ sinh thể lý, mà là sự tái sinh trong phép Thanh Tẩy. Từ đó, người ta cũng
được sinh ra "từ nước và Thánh Thần" (Ga 3,5). Tuy nhiên, cha mẹ của
các tín hữu không phải là nước và Thánh Thần, nhưng Thiên Chúa được gọi là Cha
và Hội thánh là Mẹ. Do đó, cụm từ " được sinh ra từ" không nhất thiết
chỉ mối tương quan phụ tử, nhưng cũng có thể ám chỉ một người trung gian hoặc
công cụ phát sinh. Do đó, “sinh ra từ Chúa Thánh Thần” có nghĩa là: “được sinh
ra nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần” mà không làm suy giảm tình phụ tử của
Thiên Chúa. Phần thứ hai trong lập luận của Augustinô liên quan đến khái niệm
làm “con”. Hạn từ này không chỉ đề cập đến vấn đề thể lý. Luật cũng gọi những
người thuộc dòng dõi là con, và theo nghĩa bóng là tất cả những ai có mối tương
quan mật thiết với ai đó hoặc với một thứ gì đó. Mátthêu 23,15 nói về "con
cái hỏa ngục", Mátthêu 8,12 nói về “Con
cái Vương Quốc”. Do đó, Augustinô
kết luận: “Một người tự xưng là con của ai đó, thì không nhất thiết phải
được sinh ra từ người này.”
Trong nhiều tác phẩm của
Augustinô, người ta nhận thấy ngài so sánh việc Chúa Kitô được sinh ra từ trinh
nữ Maria do tác động của Chúa Thánh Thần với sự tái sinh của các tín hữu trong
phép Rửa và mẫu gương của Đức Maria đối với Giáo hội. Tuy nhiên, liên quan đến
học thuyết về tội nguyên tổ, sự trinh thai mang lấy một ý nghĩa Kitô học khác.
Theo quan điểm của Augustinô, tội nguyên tổ được truyền lại bởi dục vọng thể
xác qua hành động sinh sản, nên chỉ phù hợp là Đức Kitô đã được sinh ra từ một
trinh nữ. "Đối với Người, người mẹ được thụ thai từ đức tin, không phải
bởi dục vọng" (Ench 38 và 41).
5. Thực thể tính và toàn vẹn
tính của sự nhập thể
Augustinô bảo vệ thực tại tính
và tính toàn vẹn của biến cố nhập thể nơi Đức Kitô nhằm chống lại ba quan niệm
sai lầm: Ảo thân thuyết cho rằng Đấng Kitô chỉ có một thân thể giả mạo; thuyết
Photinô cho rằng Đấng Kitô hoàn toàn là một con người; và thuyết Apôlinariô
công nhận Đấng Kitô là Thiên Chúa, nhưng khẳng định rằng Người chỉ mang một
thân xác không có linh hồn suy lý, nhưng được thay thế bằng thần tính của
Người. Hơn nữa theo Augustinô, thuyết Apôlinariô bảo vệ rằng Gioan 1, 14 "Verbum
caro factum est" có nghĩa là Con Thiên Chúa đã bị biến đổi thành một
con người mất đi thần tính khi nhập thể. Khi xem qua các tác phẩm của thánh
Augustinô, người ta nhận thấy rằng Ảo thân thuyết và thuyết Photinô không đóng
một vai trò quan trọng nào trong thần học của ngài, phần lớn thời gian ngài đối
phó với thuyết Apôlinariô.
Augustinô bác bỏ Ảo thân thuyết khá ngắn gọn Questio
14: "Nếu thân xác của Đấng Kitô chỉ là ảo ảnh, thì Đức Kitô đã lừa
dối; và nếu Người lừa dối, Người không thể là Chân Lý. Nhưng Đức Kitô là Chân
Lý, do đó thân thể của Người không thể là ảo ảnh. Thuyết Manikê không thể cho
phép Đức Kitô có một thân xác thực sự, vì theo học thuyết của họ, Thiên Chúa
không bao giờ bị ô nhiễm khi hòa mình vào vật chất.
Trong tác phẩm De haeresibus[8]
viết năm 428, vài năm trước khi qua đời, Augustinô xác nhận học thuyết Kitô
giáo của người Manikê: “Họ khẳng định ... rằng Chúa Kitô không hiện hữu bằng
thân xác thật, mà chỉ thể hiện dưới hình
thức giả tạo nhằm đánh lừa các giác quan của con người” (46,15). Ngoài Manikê, Augustinô còn nói đến
sai lầm của thuyết ngộ đạo Valentinianô trong De haeresibus 11: “Họ khẳng định ...
rằng khi Đức Kitô được Chúa Cha sai đến ... Người mang một linh thể hoặc thiên
thể và không mang bất cứ điều gì từ trinh nữ Maria." Augustinô đề cập đến
người Photinô trong Tự Thuật (VII 19, 25), khi họ giải thích sai về
Gioan 1,14 “và Ngôi Lời đã làm người”, phân biệt với chân lý Công giáo. Họ phủ
nhận thần tính của Chúa Kitô. Ngài kết nối Photinô với Phaolô Samosata: cả hai
đều dạy cùng một giáo lý, đó là Đấng Kitô là chỉ người duy nhất; Người không
hiện hữu từ vĩnh cửu, mà chỉ xuất hiện khi được sinh ra bởi Đức Maria.
Thánh Augustinô thường xuyên
thảo luận về thuyết Apôlinariô. Trong bài giảng 214.6 năm 391, ngay sau khi
được thụ phong linh mục, ngài khẳng định rằng Đức Kitô đã mang lấy một con
người hoàn chỉnh, thể xác và linh hồn. Về mặt này, thần học của Augustinô không
có gì phát triển, ngài chỉ nhấn mạnh vào tính toàn vẹn của sự nhập thể nơi Chúa
Kitô và giải thích chi tiết hơn. Trong De haeresibus 55, ngài giải thích
rằng phái Apôlinariô đã phủ nhận linh hồn nơi Đức Kitô; Người được cho là chỉ
có xác thể. Ngoài ra, theo Augustinô, phái Apôlinariô khẳng định rằng Lời Thiên
Chúa và xác thể của Đức Kitô thuộc cùng một bản thể, vì thế họ chuyển đổi Ngôi
Lời của Thiên Chúa vào trong con người.
Chống lại
lạc giáo Apôlinariô, Augustinô bảo vệ học thuyết công giáo chính thống. Ngài
cho thấy rằng Sách Thánh chứng minh cả thực tại của thân xác Đấng Kitô và sự
hiện diện của một linh hồn lý trí trong đó. Người đi, ngồi, ngủ, bị đánh đập,
bị đóng đinh và chịu chết - tất cả các chức năng của xác thể. Nhưng Người cũng
đầy cảm xúc, đó là những chức năng của linh hồn (Enarratio in Psalmos,
bài giảng 29 2,3). Đức Kitô đảm nhận toàn thể con người để cứu chuộc con người
(bài giảng 237.4). Lập luận này gợi nhớ đến Grêgôriô Nazianzô về bức thư nổi
tiếng 101 gửi Cledonius: "những gì không được đảm nhận, không được cứu
độ", và người ta có thể cho rằng Augustinô đã biết thần học của Grêgôriô
thông qua giám mục Ambrosiô thành Milan.
Apôlinariô nói về mia physis
(một bản tính), mia ousia (một bản thể) và mia hypostasis (một
bản thể/ngôi vị) trong Đấng Kitô, nhưng Kitô học của Apôlinariô là niềm xác tín
triết học rằng hai bản thể hoàn chỉnh không thể liên kết thành một thể thống
nhất thực sự. Do đó, chỉ có thần tính hoặc nhân tính mới có thể là một bản thể,
một trong hai phải không hoàn thiện và do đó không có bản thể của riêng nó. Và
đối với Apôlinariô, đó là nhân tính. Augustinô luôn nhấn mạnh vào chân lý rằng
Ngôi Lời đã không làm mất đi thần tính của mình khi trở thành con người:
"Người được sinh ra bởi Chúa Thánh Thần và Trinh nữ Maria .... Đó là cách
thức mà Đức Giêsu Kitô được mặc lấy xác thể, cách mà Đấng tạo dựng nên con
người đã làm người; bằng cách tiếp nhận những gì mình không là, chứ không phải
mất đi những gì mình là. Ngôi lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,
14). Không phải "Ngôi Lời đã hóa thành xác thể", nhưng vẫn là Ngôi
Lời bởi sự tiếp nhận xác thể "(bài giảng 213.3). “Ngôi Lời không thể thay
đổi và không hề thay đổi theo hướng thấp kém hơn khi Ngôi Lời chia sẻ trong xác
thể qua linh hồn lý trí” (thư 140.4.12)[9]. Với
điều này, rõ ràng hồn suy lý của Chúa Kitô có vị trí là trung gian giữa Thiên Chúa
và con người.
6. Đức Kitô, Thiên Chúa và con
người
Làm thế nào Augustinô hiểu và
mô tả chính xác sự hiệp nhất giữa thần tính và nhân tính nơi Đức Kitô? Về khía
cạnh này, thần học của Augustinô được chia thành hai thời kỳ: thời kỳ nghiên
cứu cho đến năm 411, thời kỳ tìm ra và áp dụng công thức chính xác về "một
ngôi vị trong hai bản tính" từ năm 411 trở đi.
Trong suốt thời gian tìm kiếm
một công thức thích hợp, Augustinô cố gắng diễn tả bản tính kép hoàn chỉnh và
sự hiệp nhất của Chúa Kitô bằng những biểu thức mô tả cách thức chúng được kết
hiệp với nhau hoặc là kết quả của sự kết hiệp. Thông thường nhất, Augustinô xây
dựng cách thức kết hiệp theo nghĩa "đảm nhận": Con Thiên Chúa đảm
nhận con người (suscipit, accipit carnem hominem), đón nhận hay mặc lấy
thân xác (induit). Tuy nhiên, thần học homo assumptus chứa đựng
hai nguy cơ chính mà Augustinô muốn tránh: nguy cơ của sự kết hiệp thuần túy
luân lý giữa Thiên Chúa và con người nơi Đức Kitô, và nguy cơ của thuyết Dưỡng
Tử. Augustinô bác bỏ một sự kết hiệp thuần túy luân lý mà trong tác phẩm đầu
tiên của mình De agone Christiano 17.19: Đấng Kitô không chỉ khôn ngoan
và công chính bằng cách được liên kết với Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và công
chính, nhưng Đức Kitô là sự khôn ngoan và công chính trong chính Người. Về
Dưỡng tử thuyết, Augustin phân biệt giữa adoptio và assumptio. Cả
hai cách kết hiệp với Thiên Chúa đều được thực hiện bởi ân sủng Thánh Thần,
nhưng chúng không đồng mức với nhau. Hommo assumptus được đón nhận vào
trong Ngôi Lời và thông dự vào tất cả các đặc tính của Ngôi Lời. Adoptio nghĩa
là chuyển trao một điều gì đó cho con người mà nó không có, nhưng
không xâm phạm đến tính độc lập của con người với tư cách là một ngôi vị. Theo
đó trong trường hợp của Đức Kitô, điều này có nghĩa là nhân tính của Người
trước hết hiện hữu tách biệt với thần tính của Người, điều mà chưa bao giờ xảy
ra.
Đối với Augustinô, Thiên Chúa
và con người tạo nên thể thống nhất như thể xác và linh hồn nơi con người.
Trong lá thư 137 gửi Volusianus,[10]
Augustinô giải thích sự kết hợp giữa Thiên Chúa và con người như thế này. Chúa
Kitô xuất hiện với tư cách là trung gian giữa Thiên Chúa và con người theo cách
mà Người kết hợp hai bản tính thành một ngôi vị. Tuy nhiên, hai bản tính đó
không có thứ hạng ngang nhau, để mà trong sự kết hiệp, hai chuyển động trái
ngược nhau dẫn đến kết quả: Cái bình thường (solita), tức là bản tính
con người, được nâng lên bởi cái khác thường (insolita), tức là thần
tính, trong khi cái bất thường được làm cho dịu đi nhờ cái bình thường.
Tuy nhiên,
để ngăn chặn bất kỳ sự hiểu lầm nào về sự "điều tiết" của thần tính,
Augustinô nhấn mạnh rằng dĩ nhiên Con Thiên Chúa vẫn không thay đổi, con người
khả biến được thêm vào thần tính của mình, chứ không phải thần tính bị thay đổi
theo bất kỳ cách nào đối với nhân tính. Thiên Chúa và con người trong Đức Kitô
“hòa quyện” trong sự hiệp nhất ngôi vị như linh hồn và thể xác nơi con người. Thánh Augustinô lấy sự so sánh này từ triết học
Neoplaton, nhưng cũng lưu ý những nguy cơ của nó. Một hỗn hợp có thể có nghĩa
là hai thành phần ban đầu của nó mất đi các đặc tính trong quá trình trộn lẫn,
và sự pha trộn kết quả sẽ là một cái gì đó mới, bản chất thứ ba khác với cả hai
phần mà nó bao gồm.
Do đó, Augustinô nói thêm rằng
người ta không được tưởng tượng sự hiệp nhất của Thiên Chúa và con người giống
như sự pha trộn của hai chất lỏng, mà giống như sự giao thoa của ánh sáng và
không khí hòa quyện vào nhau mà không làm mất đi bất cứ đặc tính cụ thể nào của
chúng. Tuy nhiên, từ năm 411, Augustinô từ bỏ hình ảnh hỗn hợp có thể hiểu lầm
này, bởi vì cùng lúc đó, ngài đã tìm ra công thức mới una persona.
7. Chúa Kitô, một ngôi vị trong
hai bản tính
Sau năm 411, công thức mới "Đức Kitô, một
ngôi vị trong hai bản tính, Thiên Chúa và con người" giải quyết tất cả các
vấn đề cơ bản liên quan đến Kitô học:
1. Chống lại người Arius và
Photinô, công thức này bảo vệ thần tính không bị suy giảm của Đức Kitô, Con
Thiên Chúa, đồng bản thể và đồng vĩnh cửu với Chúa Cha.
2. Chống lại Manikê và Apôlinariô, công thức
này bảo tồn đồng thời nhân tính thực sự và toàn vẹn của Đức Kitô: tức là sự hạ
sinh từ trinh nữ Maria với tư cách là Con Người, trở thành con người, không
phải xác thịt theo nghĩa khiếm khuyết, vâng phục của Người với Chúa Cha với tư
cách là con người, và tính trung gian của Người giữa Thiên Chúa và con người.
3. Cuối cùng, công thức này mô
tả sự hiệp nhất thực sự của cả hai bản tính, sự hợp nhất ngôi vị với tư cách là
chủ thể của mọi hành động, và sự hợp nhất của cả ý chí Thiên Chúa và của con
người, mà không cắt giảm một trong hai bản tính hoặc phân chia Đức Kitô thành
hai người con.
Augustinô trình bày một cách
toàn diện và cô đọng giáo huấn của mình về sự nhập thể trong Sách hướng dẫn
(Enchiridion) về Đức tin, Đức Cậy và Đức Mến 33-36. Bây giờ, mười
năm sau, ngôn ngữ của ngài chính xác hơn. Augustinô không chống lại các lạc
giáo đơn lẻ mà giảng dạy một cách ngắn gọn đức tin chính thống: "Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Người là Thiên Chúa
trước mọi thời đại; Ngài là con người trong thời đại của chúng ta. Người là
Thiên Chúa vì Ngài là Ngôi Lời Đức Chúa Trời, vì “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga
1,1). Tuy nhiên, Người cũng là con người, vì trong sự hiệp nhất vcủa Ngôi vị,
một linh hồn suy lý và thể xác được kết hợp với Ngôi Lời. Theo đó, xét vì Người
là Thiên Chúa, Người và Chúa Cha là một. Tuy nhiên, xét vì Người là con người,
thì Chúa Cha cao trọng hơn Người. Vì Người là Con Một Thiên Chúa - không phải
bởi ân sủng mà do bản tính... Đây không phải là hai người con của Thiên Chúa,
một Thiên Chúa và một con người, nhưng là Con Thiên Chúa - Thiên Chúa không có
nguồn gốc, con người có nguồn gốc xác định - Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ”.
KẾT LUẬN
Nhận định về thánh Augustinô, Altaner viết: “Vị giám
mục vĩ đại đã kết hợp trong chính mình năng lượng sáng tạo của Tertullianô và
chiều rộng tinh thần của Origen với sự nhạy cảm về giáo hội của Cyprianô; sự
nhạy bén biện chứng của Aristotle với chủ nghĩa duy tâm và suy đoán bay bổng
của Platon; ý thức thực tế của người Latinh với sự tinh tế về mặt tinh thần của
người Hy Lạp. Ngài là triết gia vĩ đại nhất của thời giáo phụ. Không nghi ngờ
gì nữa, Augustinô là thần học gia quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhất đối với
Giáo hội nói chung.”.[11]
Quả thực, điều đó đã được chứng minh cụ thể qua cách lý giải tuyệt vời của
thánh Augusstinô về Mầu nhiệm Nhập Thể. Cùng với ngài, chúng ta chiêm
ngắm mầu nhiệm Con-Thiên-Chúa-làm-người
và trở nên Đấng Emmanuel, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã ban cho nhân
loại Đức Kitô để giải thoát nhân trần khỏi tội lỗi và sự chết hầu dẫn
chúng ta đưa đến sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Tài liệu tham khảo
Kinh Thánh. Bản dịch của
nhóm CGKPV. Hà Nội: Tôn giáo, 2011.
Augustinô. Tự
Thuật. Vân Thúy dịch từ bản tiếng Pháp
của Louis de Mondadon. Hà Nội, Nxb: Tôn giáo, 2010.
Augustine. Eighty-three Different Questions. trans. David L. Moshier. Catholic University of America Press,
1982.
_______. De
catechizandis rudibus, trans. Salmon. Massachusette: Hendrich Publisher
Marketing, 2012.
_______. The
exposition of Psalms, vol. 2, trans. Maria Boulding, O.S.B. New York: New
City Press , 2000.
_______. De
Trinitate, trans. Arthur West Haddon D. B. Massachusette: Hendrich
Publisher Marketing, 2012.
_______. Enchiridion,
trans. T. F. Shaw. Massachusette: Hendrich Publisher Marketing, 2012.
_______. De
haeresibus, trans. Patristic Studies. Washington: The Catholic
University of America, 1956.
_______. Letters,
vol. 3, trans. Wilfrid Parsons. The Catholic University of America Press, 1953.
Altaner. Patrologia. Turin, 1976.
Brown, Peter. Augustine
of Hippo. London and Berkeley: Faber and Faber/University of California
Press, 1967
Gilson,
Etienne. The Christian Philosophy of Saint Augustine. New York: Knopf,
1960.
Markus, Robert. Saeculum: History and Society in the Theology of
Saint Augustine. Cambridge: Cambridge University Press, 1970
Portalie,
Eugene. A Guide to the Thought of Saint Augustine. Chicago: Regnery,
1960.
TeSelle,
Eugene. Augustine the Theologian.
New York: Herder, 1970
[1] Augustinô, Tự Thuật,
Vân Thúy dịch từ bản
tiếng Pháp của Louis de Mondadon, (Hà Nội, Nxb: Tôn giáo, 2010) tr. 229-230.
[2]Augustine,
Eighty-three Different
Questions trans. David L. Moshier (Catholic University of America Press,
1982), 206-211
[3] Augustinô soạn tác
phẩm này vào lúc mới làm giám mục như một cẩm nang
về đời sống Kitô giáo để hướng dẫn những người thất học trong đức tin.
[4] Augustine, De
catechizandis rudibus, trans. Salmon
(Massachusette: Hendrich Publisher Marketing, 2012), p. 286-287
[5] Augustine, The exposition of Psalms,
vol 2. Trans. Maria Boulding, O.S.B. (New York: New City Press , 2000), p.75
[6] Đây là công trình tín lý chính yếu của
Augustinô. Một kiệt tác thực sự có tầm ảnh hưởng quyết định đối với thần học Ba
Ngôi Tây phương. Khảo luận được sáng tác trong hai giai đoạn: mười hai
tập đầu tiên
trong khoảng thời gian từ năm 399 đến năm
412; số tập còn lại vào khoảng năm
420. Xem Saint Augustine, De Trinitate, trans.
Arthur West Haddon D. B (Massachusette: Hendrich Publisher Marketing, 2012),
p.41-45.
[7] Sách hướng dẫn được soạn thảo từ năm 421, sắp xếp theo
sơ đồ của ba
nhân đức hướng Chúa. Tác phẩm giải
thích về tín biểu (đức tin),
về Kinh Lạy Cha (hy vọng) và
của giới luật luân lý (tình yêu). Xem Augustine, Enchiridion,
trans. T. F. Shaw (Massachusette: Hendrich
Publisher Marketing, 2012), 248-250.
[8] Augustine, De
haeresibus, trans. Patristic Studies (Washington:
The Catholic University of America, 1956), p. 86-87.
[9] Augustine, Letters,
vol. 3, trans. Wilfrid Parsons (The Catholic University of America Press,
1953), p. 58.
[10] Ibid, p. 18
[11] Altaner, Patrologia, (Turin 1976), 433.
Đăng nhận xét