Phong Trần
DẪN NHẬP
Vào ngày 09/10/2021, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai mạc Thượng
Hội đồng Giám mục lần thứ XVI với chủ đề: “Vì một Hội thánh hiệp hành: hiệp
thông, tham gia và sứ vụ”. Thượng Hội đồng chính thức bắt đầu giai đoạn chuẩn
bị tại các Hội thánh địa phương trên toàn thế giới từ ngày 17.10.2021, cách
riêng tại Việt Nam, vào Chúa nhật I Mùa Vọng, từ ngày 28.11.2021.
Để có thể tham gia cách tích cực và hiệu quả vào lời mời gọi của Đức Thánh Cha trong giai đoạn chuẩn bị tại các Hội thánh địa phương, thiết tưởng, chúng ta cũng nên nhìn lại một chút về tính hiệp hành trong lịch sử Hội thánh để từ đó có được cho mình thái độ đúng đắn cũng như trang bị cho mình các nhân đức cần thiết phải có trong tiến trình hiệp hành này.
1.
Tính hiệp hành trong lịch sử Hội
thánh
Về mặt từ nguyên, chữ synodality/ synodalitéhay synodalità
(danh từ) mà chúng ta gọi là tính hiệp hành khởi nguyên từ một từ ghép tiếng Hy
Lạp σύνοδος-Sunodos (synod / synode/ sinodo) mà chúng ta dùng để gọi các công nghị hay thượng hội đồng
của các Giám mục để bàn về những vấn đề trong Hội thánh. Từ này khởi phát bao gồm một giới từ συν (sun – với) và danh
từ όδός (odos – đường), với ý nghĩa là một con đường mà dân Chúa cùng đi.
Đây là một từ ngữ cổ xưa. Cũng vậy, từ đó cũng mặc nhiên gợi nhớ đến Chúa
Giêsu, Đấng đã tự tỏ mình là “Con Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6)
và liên quan đến các Kitô hữu, những kẻ theo Người, mà ngay từ thuở ban đầu, được
gọi là “người theo Đạo” (Cv 9,2). Khi dịch qua tiếng Việt, chữ synod
và synodality được dịch ra nhiều hạn từ khác nhau. Chữ synod được
dịch ra thành Thượng Hội Đồng Giám mục (“thượng” có nghĩa là tiến lên, hướng
lên chứ không phải là “cao cấp”) hay công nghị, (nghĩa thế tục là hội đồng) và
chữ synodality được dịch ra thành tính hiệp hành (theo
cách dịch của HĐGMVN), hay những bản dịch đây đó trên các kênh thông tấn xã
Công Giáo như Việt Catholic gọilà tính đồng nghị (cách dịch của
tác giả Vũ Văn An), tính công nghị, tính liên hợp (bản
dịch Christus vivit của cha Giuse Lê Công Đức), tính nhất quán (bản
dịch Christus vivit của Ủy ban Mục vụ Giới trẻ
và Thiếu nhi - trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam), và kể cả cách gọi tính
hiệp/hợp đoàn nữa. Mỗi chữ đều có những dị biệt về ý nghĩa và có những
điểm mạnh điểm yếu trong cách dịch…
Như đã nói, tính hiệp hành
đã là một thuật ngữ cổ xưa và từng được thực hành trong đời sống Hội thánh. Thật
vậy, tính hiệp hành là một hiệu quả phát sinh từ ý nghĩa đích thực của cuộc “triệu tập dân Chúa”
(qahal /‘edah) qua ơn gọi của Abraham, được củng cố với Giao ước Sinai với
cuộc Đại Hội của Dân Chúa, từ đó tiên báo “đoàn dân của Giao ước mới” là
Hội thánh (έκκλησία – Ecclesia là tiếng Hy Lạp được dùng để dịch chữ
qahal /‘edah tiếng Hipri). Hình ảnh dân Do Thái cùng nhau bước đi trong sa
mạc, rồi được cụ thể hóa qua việc Đức Giêsu quy tụ các Tông Đồ và thành lập Hội
thánh, rồi Công đồng đầu tiên của các Tông Đồ tại Giêrusalem năm 43 đều là những
nền tảng Thánh Kinh cho thấy tính hiệp hành đã là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử
cứu độ. Trong thời kì đầu của Hội thánh, các vị Giám mục thường họp bàn với
nhau về những vấn đề tín lý, luân lý và cách quản trị trong Hội thánh qua các Công
đồng với tư cách Giám mục đoàn. Chính vì thế mà cũng có sự giao thoa giữa ý niệm
tính hiệp hành (synodality) với tính hợp đoàn (collegiality) của các Giám mục,
và tính Công đồng (conciliarity).
Tài liệu của Ủy Ban Thần Học
Quốc Tế ghi nhận:
Công đồng Nicea (325) quy định nơi điều 6 xác
nhận tính ưu tiên và trổi vượt của các toà Rôma,
Alexandria và Antiokia. Toà Constantinople đã được thêm vào danh sách các toà chính khi diễn ra Công đồng
Constantinople I (381): Riêng khoản luật 3 đã trao chức chủ tịch danh dự
cho vị Giám mục Rôma, Công đồng Chalcedon
(451) đã xác nhận tước hiệu nầy, khi
toà Giêrusalem được thêm vào danh sách. Ở phương Đông, chế độ “ngũ toà” này được
coi là mô hình bảo đảm việc thực thi mối dây hiệp thông và tính hiệp hành giữa
năm Toà Thượng phụ này. Trong khi phương Đông công nhận vai trò của các Thượng
phụ Giáo chủ (ngang nhau), thì Hội Thánh phương Tây trao cho toà Rôma vị thế đặc
biệt là trung tâm của Hội thánh hoàn vũ.[1]
Sau thời
kì bị bách hại, Hội thánh được các hoàng đế Rôma ủng hộ và phát triển nhanh
chóng. Các Công đồng chung trong thiên niên kỉ đầu tiên của lịch sử Hội thánh đều
tổ chức ở phương Đông, với sự hiện diện của các Thượng Phụ, Tổng Giám mục và Giám
mục, và được chính các hoàng đế triệu tập vì danh xưng “nhà Bảo Hộ tối cao của
Kitô giới”[2]
của mình. Vì ngăn trở về địa lý và ngôn ngữ, các vị Giáo hoàng ít khi có thể hiện
diện trực tiếp trong các Công đồng đầu tiên này. Các vị thường chỉ có những đặc
sứ làm vị đại diện.
Tuy nhiên, các công nghị các Giám mục ở Tây Phương thì do chính các vị Giáo
hoàng triệu tập, và tính hiệp hành là một đặc nét rất quan trọng trong cả Hội
thánh trong thiên niên kỉ thứ nhất. Đặc nét ấy vẫn còn tồn tại đến ngày nay nơi
các Hội thánh Đông Phương, cụ thể là Hội thánh Chính Thống Giáo. Riêng ở Hội
thánh Tây Phương, từ khoảng thế kỉ thứ VI trở đi, tính hiệp hành, thể hiện cụ
thể nơi các Công đồng lại có phần suy yếu.
Từ thế
kỉ thứ V-VI trở đi, với sự xuất hiện của thánh Lêô Cả (400-460) và thánh
Grêgôriô Cả (540-604), nhu cầu xác định về quyền tối thượng của Giám mục Rôma ngày càng được coi là một nhu
cầu cần thiết, bởi vì sự xâm lấn bất hợp lý của thế quyền thời bấy giờ. Các cuộc
họp Công đồng trong cả Hội thánh, dù là những hội đồng do các Giám mục hội họp
và quyết định, nhưng thực tế đều do chính các hoàng đế triệu tập![3] Và không chỉ có phần ảnh hưởng trong các Công đồng, các
hoàng đế còn gây ảnh hưởng lên các bổ nhiệm Giám mục, thậm chí cả các cuộc mật
nghị bầu Giáo hoàng. Để chấm dứt ảnh hưởng của thế quyền, Thánh Grêgôriô Cả và
sau này là Thánh Grêgôriô VII (1020-1085) đã khẳng định quyềntối thượng của
ngôi vị Giáo hoàng với những tuyên bố rằng thần quyền phát xuất từ Thiên Chúa
và vượt trên thế quyền.
Thật vậy,
chính Đức Kitô đã trao chìa khóa Nước Trời cho thánh Tông Đồ Phêrô (Mt 16,
19). Việc tuyên bố về quyền này của Đức Thánh Cha cũng đòi hỏi sự tuân phục
triệt để, và chính sự tuân phục triệt để đó đã gìn giữ được sự hiệp nhất trong Hội
thánh vốn bị bao vây bởi bao thứ ly giáo, lẫn những thế lực khác muốn lũng
đoạn và phá hoại Hội thánh. Vấn đề xác nhận quyền tối thượng của thánh Phêrô thực
sự đã kéo Hội thánh ra khỏi ảnh hưởng của nanh vuốt thế quyền đối với Hội thánh.
Tuy nhiên, khẳng định này cũng dần đưa chức Giáo hoàng tới một vị trí độc tôn
như một vị “vua các vua, chúa các chúa”. Các hoàng đế và vua chúa Tây Phương đều
phải đến Rôma để được phong vương, và thần phục Đức Thánh Cha. Đức Thánh Cha được
coi như một nhà lãnh đạo độc quyền và bất khả xâm phạm[4].
Những
tưởng khi đã khẳng định lại thế thượng phong của thần quyền để khỏi bị kìm kẹp
bởi thế quyền và những lũng đoạn của quyền lực thế tục thì Hội thánh sẽ được
yên ổn. Nhưng như bất kì mọi thể chế trần gian nào và dù có tính thần thiêng mầu
nhiệm, Hội thánh cũng không tránh khỏi tính con người và lại đi tới một thái cực
khác: các Đức Thánh Cha có nguy cơ lãnh đạo Hội thánh một mình hay chỉ với một
số ít vị lãnh đạo thân cận và mọi quyết định đều phải quy chiếu về một quyền lực
duy nhất là Đức Thánh Cha Rôma. Đức Thánh Cha không chỉ là đại diện thánh Phêrô
như thánh Lêô Cả đã gọi, nhưng sau này, với Đức Innocent III, Đức Thánh Cha còn
là Người Kế Vị Thánh Phêrô và đại diện (vicarius) Chúa Kitô[5].
Việc
công nhận quyền tối thượng của
ngôi Giáo hoàng là điều cần thiết, nhưng một khi nó đi tới mức trao vào tay các
ngàimột quyền lực vô hạn, thì xem ra tính hiệp hành trong Hội thánh đã không
còn được coi trọng nữa. Cả thiên niên kỉ thứ hai, Hội thánh Tây Phương đã chứng
kiến điều ấy. Các vị Giáo hoàng coi các Giám mục là những cánh tay nối dài và
là những con cái của mình, trong khi thực ra tất cả các vị đều là các Giám mục,
ngang nhau về thánh chức và chỉ khác nhau về quyền quản trị và quyền tài phán.
Tuy
nhiên, nói như thế không có nghĩa là trong Hội thánh Công Giáo (Tây Phương)
không có tính hiệp hành từ khoảng đầu thời Trung Cổ cho đến nay. Dù tối thượng
quyền nằm trong tay Giáo hoàng và trong thực tế, ngài là vị giáo chủ tối cao của
toàn thể Hội thánh, ngài vẫn cai quản Hội thánh cùng với các Hồng Y, Giám mục
và đặc biệt là qua các Công đồng Chung được triệu tập trong lịch sử Hội thánh.
Ngoài ra, còn có rất nhiều những Công đồng riêng của từng miền, từng quốc gia
trong lịch sử Hội thánh, và các nghị quyết của các Thượng Hội Đồng đó đã góp phần
quan trọng trong đời sống tín lý, phụng vụ, luân lý và bí tích của Hội thánh.
Đã có những lúc rối ren, đến mức nhiều người còn đòi đưa ý tưởng về một chủ
nghĩa Công đồng (conciliarism) khi cho rằng Công đồng có quyền trên cả Đức
Thánh Cha nữa (để cách nào đó, chế tài sự lạm quyền của các Giáo hoàng và đòi hỏi
phải có một sự dân chủ hơn trong các quyết nghị được xác lập bởi Giám mục
đoàn). Nhưng rồi ý tưởng đó không quen thuộc với truyền thống và thần học Công
Giáo. Dù vậy, Đức Thánh Cha vẫn cai quản Hội thánh với sự góp ý, cộng tác, chia
sẻ của các vị lãnh đạo khác trong Hội thánh. Nhưng dù sao, sự tham gia của các Giám
mục cũng chỉ có tính tư vấn, góp ý cách rất rụt rè vì những truyền thống xa xưa
cũng như ảnh hưởng của kiểu cách quân chủ phong kiến, và chưa có được một sự
tham gia của hàng ngũ giáo dân, vốn chiếm đa số trong Hội thánh.
2. Thái độ cần có khi tham gia tiến trình hiệp hành
2.1.
Lắng nghe
Tiến
trình hiệp hành là một tiến trình thiêng liêng đặt trên nền tảng đức tin. Việc
tham vấn ý kiến không phải là thu thập dữ liệu, cũng không phải trưng cầu dân
ý, càng không phải là những cuộc họp thảo luận mang tính nghị trường, nhưng việc
tham vấn ở đây thể hiện tính hiệp hành trong một sợi chỉ xuyên suốt: hiệp thông, tham gia và sứ vụ.
Khởi sự
của tiến trình này chính là lắng nghe nhau. Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra nhận
định:
Chúng ta phải nhìn nhận rằng, sở dĩ một phần
các tín hữu đã rửa tội của chúng ta thiếu ý thức thuộc về Hội Thánh, đó cũng là
do một số cơ cấu và một số bầu khí thiếu thân thiện cởi mở tại một số giáo xứ
và cộng đồng của chúng ta, hoặc cũng do tính quan liêu trong cách xử lý các vấn
đề đơn sơ hay phức tạp trong đời sống các tín hữu của chúng ta. Tại nhiều nơi,
phương thức quản trị lấn lướt phương thức mục vụ, cũng như sự tập trung vào việc
ban các bí tích tách rời với các hình thức truyền giáo khác.[6]
Chính
điều này đã làm cho Hội thánh trở nên xơ cứng và không nhận ra những nhu cầu của
người thời đại, thiếu vắng sự đối thoại là phương thế để canh tân chính mình hầu
trở nên tiếng nói cho thế hệ hôm nay nghe về Tin mừng. Trong cuộc đối thoại cần phải có, yếu tố lắng nghe là yếu
tố thiết yếu để khơi mở cho cuộc canh tân hoán cải chính mình. “Chúng ta lắng
nghe nhau, lắng nghe truyền thống đức tin của chúng ta và lắng nghe các dấu chỉ
thời đại để nhận biết những gì Chúa đang nói với chúng ta”[7]. Đức Thánh Cha Phanxicô mô
tả hai mục đích tương thuộc của tiến trình lắng nghe là: “Lắng nghe Thiên
Chúa, để cùng với Ngài chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu của Dân Ngài; lắng
nghe Dân Ngài cho đến khi chúng ta hòa hợp với ý muốn mà Thiên Chúa kêu gọi
chúng ta đón nhận ý muốn đó”.[8] Lắng nghe để đi ra khỏi chính mình, khỏi lâu đài ích kỷ của
“cái tôi” hầu kiến tạo mối tương giao với người khác, những người chúng ta
thích và những người xa lạ cũng như người đối nghịch với chúng ta. Chúng ta lắng
nghe những người cùng quan điểm và không cùng quan điểm, và đặc biệt trong tiến
trình hiệp hành này yêu cầu chúng ta cần phải quan tâm và lắng nghe những người
mà chúng ta xem thường, những kẻ như bị lãng quên trong các mối tương giao của
chúng ta.
Lắng nghe tiếng
Chúa…
Theo Đức
Thánh Cha Phanxicô, tiến trình hiệp hành không phải thu thập ý kiến, không phải
cuộc điều tra, nhưng là một hành vi đức tin. Vì thế, trước tiên phải cầu nguyện
để nghe tiếng Chúa: chúng ta phải lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần đang hoạt động
trong Hội thánh. Lắng nghe tiếng Chúa để “hiểu thấu được sự hiện diện của
Người, nhận ra đường đi và hơi thở ban sự sống của Người”[9].
Để nghe
được tiếng Chúa, chúng ta phải tìm đến sự tĩnh lặng trong cầu nguyện. Tiên tri
Êlia đã cho chúng ta kinh nghiệm điều này khi ngài khám phá ra rằng:
Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước
nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất,
nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa
cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông
Êlia lấy áo choàng che mặt (1V 19,11-13).
Đấy là
cách Chúa nói với chúng ta. Và chính vì ‘tiếng gió hiu hiu’ này - tiếng gió mà
các nhà chú giải diễn dịch là ‘tiếng nói mỏng manh của im lặng’ và một ai
khác nói là ‘một hơi im lặng vang dội’ - mà chúng ta phải chuẩn bị đôi tai của
mình sẵn sàng để nghe làn gió này của Thiên Chúa”.[10]
Để nghe
được tiếng Chúa, sự thinh lặng chính là không gian rất cần thiết, vì Thiên Chúa
nói với chúng ta trong thinh lặng. Đức hồng y Sarah đã chia sẻ:
Nhiều người thuộc thời đại chúng ta không thể
chấp nhận được sự thinh lặng của Thiên Chúa. Họ không chấp nhận đi vào sự hiệp
thông bằng một cách thức nào khác ngoài bằng lời nói, cử chỉ hoặc hành động cụ
thể và hữu hình. Trong khi Thiên Chúa nói bằng sự thinh lặng của Người. Sự
thinh lặng của Thiên Chúa là một lời nói. Ngôi Lời của Người là cô tịch.[11]
Không lắng
nghe được tiếng Chúa không thể nào khởi sự tiến trình hiệp hành theo đúng hướng
đi của Đức Thánh Cha khi khai mở Thượng Hội đồng lần thứ XVI.
Ý nghĩa cuộc hành trình mà tất cả chúng ta được
mời gọi thực hiện, trước hết, chính là ý nghĩa hành trình tái khám phá khuôn mặt
và hình thức của một Hội Thánh hiệp hành, trong đó mỗi người đều có điều gì đó
để học biết Tronghành trình cùng nhau cất bước, chúng ta cầu xin Chúa
Thánh Thần giúp chúng ta khám phá ra rằng việc hiệp thông, vốn kết hiệp các ân
ban, đặc sủng, và tác vụ khác nhau lại, là để thi hành sứ vụ: Hội Thánh hiệp
hành là Hội Thánh ‘ra đi', Hội Thánh truyền giáo là ‘Hội Thánh luôn mở rộng cửa’.[12]
Và lắng nghe nhau
Tại cuộc
gặp gỡ phái đoàn đông đảo đại diện cho Giáo phận Rôma tại đại sảnh Phaolô VI
vào ngày 18-9-2021, Đức Thánh Cha nói về tiến trình hiệp hành:
Hành trình này được quan niệm như một năng động
tính của việc lắng nghe lẫn nhau, tôi muốn nhấn mạnh điều này: một năng động
tính của việc lắng nghe lẫn nhau, được thực hiện ở mọi bình diện của Hội thánh,
bao gồm toàn bộ Dân Chúa. Đức hồng y Đại diện và các Giám mục Phụ tá phải lắng
nghe nhau, các linh mục phải lắng nghe nhau, các tu sĩ phải lắng nghe nhau,
giáo dân phải lắng nghe nhau. Và sau đó, mọi người cùng lắng nghe nhau. Lắng nghe
chính anh chị em; nói chuyện và lắng nghe nhau.[13]
Đây là điểm
mới của Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới: Mọi tín hữu đều được mời gọi phát biểu,
đóng góp ý kiến. Đức Thánh Cha tiếp tục mời gọi:
Anh chị em sẽ phải cố gắng tự phát biểu, trên
con đường hiệp hành này. Nếu không có Chúa Thánh Thần, thì đó sẽ là một Hội nghị
giáo phận, chứ không phải là Thượng hội đồng.
Chúng ta không lập Hội nghị giáo phận, chúng
ta không nghiên cứu điều này hay điều khác, không: chúng ta đang thực hiện một
cuộc hành trình lắng nghe lẫn nhau và lắng nghe Chúa Thánh Thần, thảo luận và
cùng thảo luận với Chúa Thánh Thần, vốn là một cách cầu nguyện.
Thế
nhưng để có thể lắng nghe nhau, chúng ta phải noi theo Đức Kitô bài học về sự
hiền lành và khiêm nhường. Bởi sự lắng nghe là lời mời gọi đi ra khỏi chính
mình, khỏi tính tự ái kiêu căng. Một cuộc hành trình đi ra khỏi chính mình để lắng
nghe người khác chính là chúng ta đang nói với người khác, lời được cất lên
trong thinh lặng nơi môi miệng, và được nói ra từ tâm trí của sự thấu hiểu với
thái độ tôn trọng và nhã nhặn, đây là tiếng nói của trái tim mà âm vang của nó
được phát ra từ tấm lòng khiêm cung.
Khởi sự
lắng nghe là lời khẩn cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn can đảm, can đảm để lắng
nghe nhau. Cẩm nang cho Thượng Hội đồng về tính hiệp hành nhấn mạnh:
Mọi người đều có quyền được người khác lắng nghe, cũng như mọi người đều
có quyền được nói. Cuộc đối thoại hiệp hành phụ thuộc vào sự can đảm của cả người
nói lẫn người nghe. Không phải là sửa soạn lao vào cuộc tranh luận để tranh thắng.
Đúng hơn, là đón chào những gì người khác nói như cách thế qua đó Chúa Thánh Thần
có thể nói vì lợi ích của mọi người (số
2.3).
Cuối
cùng là học cách lắng nghe trong sự kiên nhẫn. Đức Phanxicô trong bài giảng
Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng về tính đồng nghị đã nói:
Chúng ta lắng nghe thế nào? “Thính giác” của
con tim chúng ta ra sao? Chúng ta có để cho người khác tự bày tỏ, được bước đi
trong đức tin dù hành trình cuộc sống của họ có khó khăn trắc trở, và được góp
phần vào đời sống cộng đoàn mà không bị cản trở, từ chối hoặc phán xét hay không?
[...]. Học cách lắng nghe lẫn nhau [...] hẳn là bài tập chậm chạp và nhọc nhằn[...].
Đừng cách âm con tim, đừng bảo bọc chúng ta trong những điều chắc chắn. Đã bao
phen chúng ta bị khóa chặt trong những điều chắc chắn. Hãy lắng nghe lẫn nhau.[14]
Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng:
Thượng Hội đồng là một tiến trình của sự phân
định tâm linh, sự phân định của Hội thánh, diễn ra trong sự tôn thờ, trong cầu
nguyện và đối thoại với Lời Chúa. Lời Chúa hiệu triệu chúng ta đến với sự phân
định và mang lại ánh sáng cho quá trình đó. Lời Chúa hướng dẫn Thượng Hội đồng,
ngăn không cho nó trở thành một Đại hội của Hội thánh, một nhóm học tập hay một
cuộc tụ họp chính trị, một quốc hội, nhưng đúng hơn là một sự kiện đầy ân sủng,
một tiến trình chữa lành được hướng dẫn bởi Thánh Linh. Trong những ngày này,
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta, như đã từng kêu gọi người đàn ông giàu có trong Tin
mừng, hãy trút bỏ chính mình, hãy giải thoát mình khỏi tất cả những gì thuộc về
thế gian, kể cả những mô hình mục vụ hướng nội và hướng ngoại của chúng ta; và
tự hỏi Chúa muốn nói gì với chúng ta trong thời điểm này, và hướng đi nào Chúa
muốn dẫn dắt chúng ta.[15]
Dựa vào
linh đạo của thánh Ignatiô về con đường phân định tâm linh, đó là một tiến
trình của một tâm hồn biết mở lòng với Chúa Thánh Thần, rồi để tâm suy xét
trong đức tin và đức ái, về những cảm xúc cá nhân và những lý lẽ đúng đắn, để rồi
đưa ra một quyết tâm và hành động cụ thể hữu ích cho bản thân và cho người
khác, Đức Phanxicô đã trình bày về tính phân định trong tiến trình tiến tới một
Hội thánh hiệp hành. Yếu tố phân định được coi là yếu tố quan trọng của tiến
trình hiệp hành. Vì lắng nghe để đưa tới sự phân định rõ ràng hầu có được một
quyết định đúng đắn nhằm hoán cải, để thi hành hành đời sống Kitô hữu đúng với
bản chất của Hội Thánh.
Sự phân định phải được thực hiện trong một
không gian cầu nguyện, suy niệm, suy tư và nghiên cứu, mà chúng ta cần nghe tiếng
nói của Chúa Thánh Thần; bằng đối thoại chân thành, thanh thản và khách quan với
anh chị em chúng ta; bằng việc chú ý đến các kinh nghiệm và thách thức thực sự
của mọi cộng đồng và mọi tình huống; trong việc trao đổi các ơn phúc và trong
việc hội tụ mọi năng lực nhằm xây dựng Thân Thể Chúa Kitô và loan báo Tin mừng;
trong việc tổng hợp các cảm quan và ý nghĩ giúp chúng ta hiểu thánh ý Chúa; bằng
việc tìm kiếm cách để được Tin mừng giải phóng khỏi mọi trở ngại có thể làm suy
yếu sự cởi mở của chúng ta đối với Chúa Thánh Thần.[16]
Dĩ
nhiên việc phân định cũng đòi hỏi một sự can đảm loại bỏ định kiến in sâu trong
trí não chúng ta. Bởi định kiến là chìa khóa khóa chặt tâm hồn không cho phép
chúng ta mở rộng lòng để lắng nghe người khác. Định kiến luôn có sẵn một khuôn
đúc, và nó không chấp nhận bất cứ một quan điểm nào khác với cái khuôn đúc có sẵn
đó. Định kiến cũng là hố sâu chôn vùi tiếng nói của Chúa Thánh Thần, và làm cho
Hội thánh mất đi khả năng đối thoại với người khác. Đức Phanxicô trong bài nói
chuyện với hơn 30 ngàn tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô vào thứ Tư ngày
23/10/2019 đã nhấn mạnh:
Qua sách Tông đồ Công vụ, ta thấy nổi bật bản
chất của Hội thánh, không phải là một pháo đài, nhưng là một cái lều có khả
năng mở rộng không gian của mình, và để mọi người có thể đến được. Hội thánh hoặc
đi ra ngoài hoặc không phải là Hội thánh, là ‘một Hội thánh với những cánh cửa
mở rộng’, ‘được kêu gọi luôn luôn là nhà mở rộng của Chúa Cha. [...] Vì thế nếu
có ai muốn theo sự thúc đẩy của Thánh Linh và đến gần, tìm kiếm Thiên Chúa, thì
họ không gặp cánh cửa khép kín lạnh lùng’.
Quả vậy,
định kiến giết chết tình yêu mà Chúa Kitô muốn mọi môn đệ của Người phải thi
hành: yêu thương hết mọi người, ngay cả kẻ thù. Tiến trình hiệp hành trong việc đối thoại cần phải:
Loại bỏ các thành kiến và khuôn mẫu sẵn: Chúng ta có thể bị trì trệ bởi
những yếu đuối và tội lỗi của mình. Bước đầu tiên để lắng nghe là giải phóng
trí óc và con tim khỏi những thiên kiến và khuôn mẫu dẫn vào đường lầm, đưa đến
u mê và chia rẽ.[17]
Trong cuộc hành trình này của Dân Thiên Chúa với
các vị chủ chăn của mình, trong tiến trình Thượng Hội đồng, mọi người đều tham
gia, mỗi người tùy theo chức năng của mình - Dân Thiên Chúa, Hội đồng Giám mục,
Giám mục Rôma... Hội thánh tiến bước trên con đường của mình dưới sự hướng dẫn
của Thánh Linh. Chúng ta không được giấu giếm sự thật rằng, có lẽ trong quá khứ,
đã quá chú trọng đến sự hiệp thông phẩm trật, đến mức nảy sinh ý tưởng rằng sự
hiệp nhất trong Hội thánh chỉ có thể đạt được bằng cách củng cố thẩm quyền của
hàng giáo sĩ... Tuy nhiên, đó không thể là cách sống thông thường của sự hiệp
thông trong Hội thánh, vốn đòi hỏi sự tuần hoàn, có đi có lại, đồng hành với
nhau liên quan đến các chức năng khác nhau của Dân Thiên Chúa. Do đó, hiệp
thông trở thành sự tham dự của tất cả mọi người vào đời sống của Hội thánh, mỗi
người tùy theo tình trạng và chức năng cụ thể của mình. Quy trình Thượng Hội đồng
chứng minh điều này rất rõ ràng.[18]
Như vậy, toàn thể dân Chúa
được mời gọi tham gia vào tiến trình của Thượng hội đồng như là chủ thể của đời
sống Hội thánh, do đó mỗi người cần phải phát biểu với ý thức về việc đồng
trách nhiệm trong việc xây dựng Hội Thánh Chúa. Tiến trình hiệp hành tiến tới
Thượng Hội đồng luôn cần đến sự tham vấn của mọi thành phần dân Chúa, mỗi người
cần phải thể hiện tính công giáo mà mình “là”.
Nhờ đặc tính công giáo ấy, mỗi phần tử mang những
ân huệ riêng của mình đến cho các phần tử khác và cho toàn thể Hội thánh, để tất
cả và mỗi người được vững mạnh nhờ cùng chia sẻ mọi sự và cùng hiệp lực đạt đến
tình trạng viên mãn trong tình hiệp nhất.[19]
Phát biểu
luôn cần phải quan tâm đến những điều mà tập Cẩm nang cho Thượng Hội đồng về
tính hiệp hành nói là các cám dỗ: muốn tự mình dẫn dắt mình thay vì để Thiên
Chúa dẫn dắt; chỉ tập trung vào mình và những mối quan tâm tức thời của chúng
ta; chỉ nhìn thấy “những vấn đề”; chỉ chú trọng đến cơ cấu; không nhìn quá những
ranh giới hữu hình của Hội thánh; lơ là các mục tiêu của tiến trình hiệp hành;
gây xung đột và chia rẽ; coi Thượng Hội đồng như một kiểu nghị trường;
chỉ lắng nghe những thành phần hoạt động trong Hội thánh.
Điểm
chính yếu của việc phát biểu là chia sẻ kinh nghiệm qua việc lắng nghe Lời Chúa
và lắng nghe nhau, từ đó đưa tới một hành động thiết thực mang lại lợi ích cho
việc loan báo Tin mừng.
Như Phêrô đã được biến đổi bởi kinh nghiệm của
ngài với Cornêliô, chúng ta cũng phải để chính mình được biến đổi bởi những gì
Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta. Với tiến trình hiệp hành, Thiên Chúa dẫn dắt
chúng ta trên con đường hoán cải thông thường đó là qua những gì chúng ta cùng
nhau trải nghiệm. Thiên Chúa thường đến với chúng ta qua người khác và Ngài đến
với người khác qua chúng ta theo những nẻo đường bất ngờ.[20]
Theo sự
chỉ dẫn của Cẩm nang, việc chia sẻ kinh nghiệm không chỉ gói gọn trong những cảm
nghiệm tích cực mà còn cho thấy những trải nghiệm mang tính thách thức và tiêu
cực. Trong việc phát biểu cũng nên truyền đạt điều gì đó về kinh nghiệm của cuộc
hiệp hành: thái độ của những người tham dự, niềm vui và những thách thức khi
cùng nhau phân định.
3. Các nhân đức hiệp hành
Khi cố
gắng giải quyết tất cả những vấn đề này, có thể hữu ích khi suy nghĩ về ba chiều
kích của thực tại hiệp hành: chiều kích thần học, chiều kích tu đức, và chiều
kích thực tiễn. Lý tưởng nhất, những gì chúng ta nên tìm kiếm là sự tổng hợp của
cả ba. Một mình tính thực tiễn mà thôi sẽ không diễn tả được chiều sâu và thực
tế của tính hiệp hành nếu nó không được đặt nền trên một nền thần học phong phú
và sáng tạo. Các nguồn lực của đức tin Ba Ngôi giúp chúng ta nắm bắt, bằng cách
loại suy, bản chất của sự hiệp nhất trong mối tương quan và trật tự năng động của
sứ mạng cứu độ: Chúa Con được sai đến bởi và từ Chúa Cha trong quyền năng của
Chúa Thánh Thần, Đấng phát xuất từcả Chúa Cha và Chúa Con, như món quà của ân
sủng và chân lý ban sự sống. Cả mặt thần học lẫn thực tiễn của tính hiệp hành sẽ
không mang lại kết quả lâu dài nếu không được nuôi dưỡng bởi sự sống của Thánh
Thần và không phản ánh điều gì đó thuộc mối tương quan đầy ân sủng này.
Cũng
cùng một Thánh Thần ấy đã xức dầu cho Hội thánh bằng biết bao đặc sủng cho đời
sống và sứ mạng của mình. Dưới bất cứ hình thức nào, các đặc sủng sẽ luôn biểu
lộ ba nhân đức đối thần tuyệt vời là đức tin, đức cậy và đức mến. Các nhân đức
này nuôi dưỡng và duy trì đời sống của mọi Kitô hữu và trở thành dấu chỉ cho thấy
sự hiện diện của Hội thánh cũng như công trình cứu chuộc và thánh hóa của Hội
thánh. Điều thú vị là ba nhân đức này cũng là ba đặc điểm của sự an ủi mà Thánh
Inhaxiô đã xác định trong Linh Thao. Các nhân đức có những kết quả liên quan và
thực tế, và việc suy xét ngắn gọn có thể tỏ ra hữu ích, không chỉ đối với việc
phân định vốn rất cần thiết cho tiến trình hiệp hành mà còn trong việc phát triển
một cộng đoàn đang cùng đồng hành trong Chúa Kitô.
3.1. Đức Tin
Khi các mối tương quan của chúng ta thể hiện đức tin,
chúng ta sẽ đồng hành cùng nhau trên hành trình, bất kể bao lâu hoặc khó khăn
nào có thể xảy ra. Đó là vì đức tin của chúng ta không chỉ là tin vào nhau và
vào các cơ cấu bí tích của Hội thánh, nhưng là tin vào Thiên Chúa, Đấng hiện diện
và hướng dẫn tất cả những ai là thành viên của cộng đoàn đức tin.
Đức tin
cũng cho chúng ta khả năng để không bị chệch hướng bởi những xung đột và chia rẽ,
nhưng để hiểu những xung đột và chia rẽ cũng như những gì ẩn chứa đằng sau
chúng, để thay vì là nguyên cớ của sự tuyệt vọng và tê liệt, chúng có thể trở
thành phương tiện của sự thăng tiến trong việc phụng sự Thiên Chúa. Đức tin là
sự can đảm để kiên trì, kiên định, trái tim và ý chí của chúng ta luôn hướng về
và rộng mở đối với Thiên Chúa.
3.2. Đức Cậy
Đây là
một trong những món quà tuyệt vời của Chúa Thánh Thần. Đức cậy lấp đầy chúng ta
với sự sáng tạo và mở ra những khả năng mới. Đức cậy luôn cho phép chúng ta bắt
đầu lại. Đức cậy không sợ thất bại nhưng vì luôn rộng mở với tương lai, vốn là
món quà của Thiên Chúa, đức cậy có sức mạnh để học hỏi từ thất bại và lớn lên
trong sự hiểu biết.
Đức cậy
của Kitô hữu không giống với sự lạc quan của con người. Đức cậy của Kitô hữu
không nảy sinh từ bất kỳ sự sắp đặt tự nhiên nào, cũng không phải là sản phẩm của
một tầm nhìn không tưởng nào đó mà cương lĩnh của nó là một học thuyết về sự tiến
bộ vô tận, theo đó tương lai sẽ tốt đẹp hơn quá khứ.
Đức cậy
của Kitô hữu là món quà của Thánh Thần, chính đức cậy là sự bảo đảm và chứng tá
của Đức Kitô Phục Sinh cũng như tình yêu vô biên của Chúa Cha dành cho chúng ta
và mọi tạo vật. Đó là tương lai Thiên Chúa dành cho chúng ta, tương lai đó đến
gặp chúng ta như một lời hứa và triển vọng, một tương lai đã được hiện thực hóa
trong Đức Kitô Phục Sinh. Món quà đức cậy này cho phép chúng ta nắm giữ những
khả năng ân sủng để tạo ra trong cuộc sống và trong những hoàn cảnh khác nhau
những hoa trái đầu mùa của vương quốc Thiên Chúa.
Đức cậy
thúc đẩy chúng ta luôn luôn nhìn xa hơn chính mình để tới với Đấng mà chúng ta
trông cậy. Đức cậy cho chúng ta can đảm để đương đầu với thực tại và sự thật của
nó mà không tuyệt vọng và, bất kể thung lũng bóng tối có sâu như thế nào, để thấy
rằng Đức Kitô đã hiện diện và ân sủng của Người đang thực hiện quả thật là điều
mới mẻ rồi. Ân sủng của chúng ta là được làm việc với Người trong hy vọng.
Tuy
nhiên, trong giáo huấn về sự biện phân các loại thần khí, Thánh Ignatiô Loyola
cảnh báo chúng ta rằng “kẻ thù của bản tính con người” sẽ muốn chống lại
tất cả các nhân đức đối thần. Một trong những thứ dễ bị tổn thương và dễ bị xáo
trộn nhất là hồng ân đức cậy. Một mặt, điều này có thể xảy ra qua việc chuyển đổi
hồng ân đức cậy thành sự lạc quan của con người, vốn lôi niềm hi vọng ra xa Đức
Kitô và biến nó thành một thứ đặc tính của nhân cách hoặc một thái độ sống học
được từ một nền triết học nào đó về hạnh phúc. Mặt khác, sự xáo trộn có thể xảy
ra một cách nghịch lý bằng cách tạo ra sự lo lắng về tương lai, điều này khiến
chúng ta đặt “hy vọng” của mình vào quá khứ. Trong một buổi tiếp kiến
gần đây, Đức Thánh Cha Phanxicô đã xác định điều này trong bài dẫn giải của
ngài về Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galat. Các tín hữu Galat phải đương đầu với
một cuộc khủng hoảng về quyền bính: họ phải theo ai, “những nhà giảng thuyết
mới” hay Phaolô?
“Những nhà giảng thuyết mới” xuất hiện không phải chủ yếu để loan báo Tin
mừng của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người trong Chúa Giêsu, chịu đóng đinh
và Phục sinh, nhưng để nhấn mạnh về cách thế tốt nhất để trở thành Kitô hữu, và
họ nhấn mạnh như thế với tư cách là “những người nắm giữ sự thật” đích thực - họ tự gọi mình như thế. Và họ khẳng
định mạnh mẽ rằng Kitô giáo thật là đạo mà họ tuân theo, thường được đồng hoá với
một số hình thức của quá khứ, và giải pháp cho các cuộc khủng hoảng ngày nay là
quay trở lại để không đánh mất tính chân chính của đức tin. Ngày nay, cũng như
vậy, có một cám dỗ khép mình vào một số điều chắc chắn đã có được trong truyền
thống quá khứ. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể nhận ra những người này? Ví dụ,
một trong những đặc điểm của cách tiến hành này là sự cứng nhắc. Đối diện với
việc rao giảng Tin mừng làm cho chúng ta tự do, làm cho chúng ta vui vẻ, những
người này thật cứng nhắc.
Việc noi theo giáo huấn của thánh Tông đồ
Phaolô trong Thư gửi tín hữu Galat sẽ giúp chúng ta hiểu mình phải đi theo con
đường nào. Con đường được Thánh Tông đồ chỉ ra là con đường giải thoát và luôn
luôn mới của Chúa Giêsu, Đấng chịu Đóng đinh và Phục sinh; đó là con đường loan báo, đạt được nhờ sự khiêm
nhường và tình huynh đệ - những nhà giảng thuyết mới không biết khiêm nhường là
gì, tình huynh đệ là gì. Đó là con đường của sự hiền lành và vâng phục sự thật
- những nhà giảng thuyết mới không biết hiền lành cũng chẳng biết vâng phục.
Con đường hiền lành và vâng phục này đi tới phía trước trong sự chắc chắn rằng
Chúa Thánh Thần hoạt động trong Hội thánh qua mọi thời đại. Cuối cùng, đức tin
vào Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong Hội thánh đưa chúng ta về phía trước
và sẽ cứu chúng ta.[21]
3.3. Đức Mến
Như
Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta, đức mến là hồng ân lớn nhất trong các hồng ân của
Thánh Thần (x. 1Cr 13,1-13). Khi được yêu, chúng ta cảm nghiệm được sự an ủi và
khi yêu, chúng ta là thừa tác viên của Đức Kitô, Đấng an ủi. Tình yêu này có sức
mạnh vượt thắng mọi hận thù vì tình yêu không chấp nhận bị lôi kéo vào vòng
xoáy của thù hận và những cuộc tranh giành quyền lực nhằm thống trị và chinh phục.
Tình yêu chỉ tìm kiếm những điều tốt đẹp của đối phương và từ chối chấp nhận bất
cứ điều gì kém hơn. Điều này mang lại cho tình yêu ấy một sự khiêm nhường mạnh
mẽ, rộng lượng và một cam kết quyết liệt đối với sự thật; một sự tự do để nói
và hành động, tha thứ và hòa giải; một sự táo bạo để trao tặng cho người khác
mà không tìm kiếm phần thưởng hoặc sự công nhận nhưng chỉ để làm vui lòng Chúa
Thánh Thần là chính quà tặng.
Cách
yêu thương này không nhằm lôi kéo sự chú ý về chính mình, nhưng chúng ta biết
tình yêu đang hiện diện qua sự sống mà nó tạo ra và hoa trái mà nó duy trì. Vì
đã được giáo huấn trong ngôi trường tình yêu ba ngôi của chính Thiên Chúa, đức
mến sẽ hiểu được vẻ đẹp và ân sủng của sự đa dạng; sự khác biệt không nhất thiết
là một mối đe dọa mà tự nó là một món quà khi yêu thương. Đức mến sẽ nhận ra sự
cởi mở, sự đón nhận và sự dễ bị tổn thương của tha nhân và thấy mình có trách
nhiệm đối với họ, đối với sự thật của họ và với công trình mà Thiên Chúa cũng
đã kêu gọi họ thực thi. Bằng cách này, chúng ta có thể bắt đầu khám phá xem món
quà tình yêu này mang đến cho chúng ta một sứ mạng mới như thế nào, không chỉ
liên quan đến nhau, mà còn để xây dựng “sự hiệp thông” mà Đức Kitô kêu gọi
chúng ta trong Hội thánh của Người.
Nếu
chúng ta lấy những nhân đức đối thần này làm điểm khởi đầu, thì những nhân đức
này cũng có thể giúp chúng ta trong tiến trình phân định con đường của Chúa
Thánh Thần mang lại sự sống cho cộng đoàn và công việc của nó. Các nhân đức này
được:
Chúa Thánh Thần ban phát cho mọi
cấp bậc tín hữu, “phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài”
(1Cr 12,11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm
nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và
phát triển Hội thánh như lời chép rằng: “Thánh Thần hiển hiện trong mỗi người hầu
mang lại lợi ích” (1Cr 12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ các ơn
chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân và
yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Hội thánh. Nhưng
không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt, và cũng đừng vì đó mà tự đắc
mong rằng việc tông đồ sinh kết quả.[22]
Và chúng
ta có thể bắt đầu xem các nhân đức này cũng sẽ hoạt động như thế nào trong tiến
trình hiệp hành. Việc áp dụng các nhân đức đối thần như thành phần của con đường
phân định và hành động có thể dùng để hướng dẫn chúng ta trong suy nghĩ và
trong các mối tương quan của chúng ta. Bằng cách này, chúng ta có thể trở thành
một Hội thánh bước đi trong niềm an ủi, ngay cả khi các thành viên trải qua sự
bắt bớ, đau khổ và tử đạo.
Vì lẽ ấy,
chúng ta có thể nhận ra những hình mẫu và lực lượng mang đến sự tàn phá vì chúng
đối lập với đức tin, đức cậy và đức mến. Thường được ngụy trang tốt, tuy nhiên,
những hình mẫu và lực lượng này sẽ gieo rắc nghi ngờ và chia rẽ, cổ võ ý thức hệ
thay cho một đức tin khiêm tốn tìm kiếm sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về mầu
nhiệm cứu độ trải ra trong lịch sử. Sự hiện diện của việc nghi ngờ, sẵn sàng
lên án người khác với chúng ta, và tất cả các cơ chế khác mà qua đó các cá nhân
và các nhóm có thể bị ám sát về mặt xã hội và tinh thần, lặp lại tội lỗi cổ xưa
của Cain và Abel; sự giễu cợt liên tục để giành quyền lực và ảnh hưởng, việc tạo
ra các vòng tròn của sự bao gồm và loại trừ cũng như tất cả những chiến lược kiểm
soát khác - bất cứ khi nào chúng ta nhìn thấy những điều này, thì chúng ta biết
rằng chúng ta đang sống trong một cộng đoàn đang phiêu lưu trong sự tiêu điều.
Cùng với
quà tặng của Thánh Thần ban sự sống trong đức tin, đức cậy và đức mến, là món
quà trách nhiệm chống lại và vượt thắng những khuôn mẫu của sự sợ hãi và tiêu cực
vốn không những không nuôi dưỡng mà còn tiếp tục làm tổn thương thân thể mầu
nhiệm của Đức Kitô. Khi chúng ta nhận ra những nguồn gốc của sự tàn phá này,
chúng ta cũng nhận ra nhu cầu cần được chữa lành và tha thứ của mình, và đây là
bước đầu tiên trên hành trình của Thánh Thần.
Nhân đức
đối thần tin, cậy, mến là nền tảng của tất cả đời sống và thực hành Kitô hữu.
Các nhân đức này hướng dẫn việc phục vụ của quyền bính, và mở đường đến sự tham
gia trong đó những nhân đức này thuộc về mọi thành viên trong thân thể của Đức
Kitô, và mọi thành viên đều có quyền được lắng nghe trong niềm tin, cậy, mến.
Các nhân đức này điều hướng tất cả các mối tương quan của chúng ta - dù trong
giáo xứ hay thượng hội đồng - và chúng là lộ trình mà ở đó chúng ta gặp thế giới
trong những nghi ngờ, đối nghịch, thờ ơ và đau khổ của nó. Các nhân đức này
không chỉ là những con đường hội tụ của tính hiệp hành, mà còn là những con đường
hội tụ của đời sống và sứ mạng Kitô giáo; các nhân đức này là những nẻo đường đầy
ân sủng được Thánh Thần ban tặng để chúng ta cùng nhau hướng đến sự sống sung
mãn trong Đức Kitô.
TẠM KẾT
Thượng
Hội đồng Giám mục lần thứ XVI mong muốn dân Chúa thể hiện vai trò đồng trách
nhiệm trong đời sống của Hội Thánh như là chủ thể được biểu tỏ trong các cuộc
tham vấn qua tiến trình hiệp hành. Trong việc tham vấn này, Đức Thánh Cha
Phanxicô ước mong mọi người được nói và được lắng nghe, bởi sự lắng nghe chính
là tiến trình hoán cải mục vụ của Hội thánh. Tiến trình hiệp hành đòi hỏi người
tham dự phải biểu lộ sự tin tưởng, thẳng thắn và can đảm “bước vào chân
trời mở rộng của Thiên Chúa” để “bảo đảm cho một bí tích hợp nhất hiện diện
trong thế giới và nhờ đó, con người không bị buộc phải phân tán và nhầm lẫn”[23].
Đức
Thánh Cha Phanxicô đã minh định:
Cùng nhau tiến bước là con đường cấu thành Hội
thánh; là hình tượng cho phép chúng ta giải thích thực tại bằng con mắt và trái
tim của Thiên Chúa; là điều kiện để theo chân Chúa Giêsu và là tôi tớ phục vụ sự
sống trong thời bị thương tích này. Hơi thở và nhịp độ của Thượng Hội đồng cho
thấy chúng ta là gì, và sự năng động của hiệp thông vốn làm sinh động các quyết
định của chúng ta; chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể thực sự đổi mới thừa
tác vụ mục vụ của mình và thích nghi nó với sứ mệnh của Hội thánh trong thế giới
ngày nay.[24]
Vì thế
mỗi người cần ý thức trách nhiệm và chỗ đứng của mình trong Hội thánh, để thái độ tham gia của chúng ta thể hiện trọn vẹn tâm
tình mến yêu Hội thánh cách chân thành, qua việc chúng ta thực hiện sự hiệp
hành đúng theo tinh thần mà Đức Thánh Cha đã đề ra.
[1] Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế, Tính Hiệp
Hành Trong Đời Sống Và Sứ Vụ
Của Hội Thánh (Synodality in The
Life and Mission of The Church), số
31, 2018.
[2] Xc. P. Tihon, Lịch sử tín điều,
phần II: Hội thánh, Tủ sách Thần học, 2009, tr. 48.
[3] Xc. Vinhsơn Bùi Đức Sinh, O.P, Lịch sử
Hội thánh Công Giáo, California,
2009, trang 132-133
[4] Xc. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, 266 Triều đại Giáo hoàng trong
dòng
lịch sử Hội thánh, NXB Tôn Giáo,
2014, trang 111.
[5] Xc. P.Tihon, Lịch sử tín điều,
phần II: Hội thánh, Tủ sách Thần học, 2009, tr. 104.
[6] Tông huấn Evangelii Gaudium, ban hành
24-11-2013, tại Roma, số 63.
[7] Cẩm nang Thượng Hội đồng về tính
Hiệp hành, số 2.2.
[8] Diễn từ mừng kỷ
niệm 50 năm ngày thiết
lập Thượng Hội đồng Giám
mục (17.10.2015).
[9] Ibid.
[10] Ibid.
[11] Hồng y Robert
Sarah, La Force du silence, bản Việt ngữ: Sức mạnh của
Thinh lặng, do
Dòng Phaolô thành Chartres Saigon chuyển ngữ, Nxb
Đồng Nai 2020, tr 154.
[12] Tài liệu chuẩn bị
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI (2021-2023),
số 15.
[13] Đức Phanxicô, Bài
nói chuyện với Giáo phận Roma, ngày
18-9- 2021,
bản tiếng Việt do Vũ Văn An chuyển ngữ, nguồn:
http://www.vietcatholicnews.net/News/Home/Article/271325,
truy cập ngày 10/4/2022.
[14] Đức Thánh Cha
Phanxicô, Bài giảng trong Thánh lễ khai mạc Thượng
Hội đồng về tính
Hiệp hành, ngày 10-10-2021 tại Roma.
[15] Ibid.
[16] Ủy ban Thần học
Quốc tế, Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh
của Hội thánh, công bố
ngày 2-3-2018 tại Roma.
[17] Cẩm nang cho Thượng
Hội đồng Giám mục về tính Hiệp hành, số 2.3.
[18] Bài phỏng vấn Đức
Hồng Y Grench:
https://www.vaticannews.va/en/vatican-city/news/2021-
05/cardinal-grech-interview-synod-secretariat-changes.html
[19] Cẩm nang cho Thượng
Hội đồng Giám mục về tính Hiệp hành, số 4.2
[20] Ibid., số 4.1
[21]
Đức Thánh
Cha Phanxicô, Tiếp Kiến Chung, ngày
23.6.2021
[22] Hiến chế Lumen Gentium, số 12.
[23] Đức Thánh Cha
Phanxicô, Diễn văn trước Bộ
Giám mục, 27/2/2014.
[24] Đức Thánh Cha
Phanxicô, Diễn văn Khai mạc phiên họp toàn thể lần
thứ
70 của Hội đồng
Giám mục Ý, 22 tháng 5, 2017.
Đăng nhận xét