Đời Sống Ẩn Giấu Và Việc Tôn Kính Thánh Giuse

Jacques Gauthier [1]

(Saint Joseph, homme de foi, Montréal et Paris, Médiaspaul, 2012, tr. 50-70).

Đời sống của thánh Giuse cũng như nếp sống trong Gia đình Thánh Gia, trước hết đó là một sự ẩn mình trong Thiên Chúa. Đức Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse đã cho thấy một đời sống rất đơn giản tại Nazareth và được bao trùm bởi tình yêu trong mọi việc của đời sống thường nhật của gia đình này.

Rất nhiều ngôn ngữ của Đức Giêsu rất có thể được gợi hứng từ chính đời sống rất đơn thường của người tại Nazareth. Khi người nói về việc gieo trồng và mùa gặt, về hạt giống tốt và cỏ lùng, về cây vả không ra trái, về những người thợ của vườn nho, về người Samaritanô nhân hậu…, tất cả cho thấy một sự chân thực của nếp sống làng quê mà Người đã sống.

1. Sự thinh lặng của đức tin

Quả là có rất nhiều điều để nói về đời sống ẩn giấu tại Nazaretn, ở nơi mà nhiều người đã quen thuộc với nếp sống của cha mẹ của Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã học từ đó để đón nhận người khác : bằng cách trao ban cho người khác, lo lắng cho người nghèo khổ, nâng đỡ những người bị loại trừ. Đó là những cử chỉ không ngôn từ, nhưng lại đầy ngôn ngữ. Những hành động cử chỉ được thực hiện trong thinh lặng như thánh Giuse đã làm. Đó chính là sự thinh lặng khiêm nhường và tuyệt hảo, sự thinh lặng lắng nghe và đón nhận. Paul Claudel đã viết : « Thánh Giuse thì thinh lặng tựa như trái đất vào lúc nó được tưới gội ». Đó là con người của những lặng lẽ, đơm mầm từ bên trong.

Chúng ta có thể nói gì về thánh Giuse trước mầu nhiệm Hài nhi Giêsu bị lạc ? Các cử chỉ và hành động của người thay thế cho ngôn ngữ. Sự thinh lặng của thánh Giuse thuộc về đức tin và biểu lộ về một đời sống chiêm niệm nơi nội tâm sâu thẳm. Quả đó là một trái tim biết lắng nghe ! Sự thinh lặng của thánh nhân xuất phát từ bên trong ; bởi vì, người thông hiệp với mầu nhiệm. Chúng ta nhận ra rằng, nơi thánh Giuse đã có một đời sống nội tâm quả là phong phú để lắng nghe tiếng các thiên thần, cư ngụ trong những thinh lặng, và nhường chỗ cho Đức Maria, cũng như sống trinh trong với người, chia sẻ tình thân hữu vượt qua yếu tố thể lý, và đứng vững trong tình yêu trọn vẹn với Thiên Chúa.

Tình yêu hiền phụ của thánh Giuse đã bao trùm trên người con nuôi của người là Đức Giêsu, và tình yêu của người con là Đức Giêsu cũng đáp lại tình yêu phụ tử ấy. Tất cả đã sống trong một tương quan đơn thuần mà nó giống rất nhiều với đời sống cầu nguyện, và cũng được gọi là một sự chiêm niệm nguyện cầu.

Đó là tiếng của trái tim với trái tim yêu thương, làm phát sinh sự thinh lặng và lắng nghe ; đó là một cuộc chuyện trò thân tình, mà từ nơi đó, nhờ Thiên Chúa, chỉ có tình yêu được diễn tả, ngay cả có những khi xuất hiện những rời rạc và chán nản. Nhưng tình yêu Thiên Chúa giúp sống những sự khó khăn này như là một lễ phẩm hiến dâng.

Thánh nữ Têrêsa Avila, nhà sư phạm về cầu nguyện, đã nhận biết rằng, khi theo gương thánh Giuse là chúng ta thông hiệp với Đức Kitô. Đó cũng chính là đi vào trong ngôn ngữ mà Thiên Chúa yêu thích : sự thinh lặng. Vi thế, thánh nữ đề nghị chúng ta hãy chọn học đòi theo thánh Giuse như là thầy dạy của lời cầu nguyện : « Mong cho những ai không có thầy dạy cầu nguyện, hãy theo vị thánh vinh sáng này để được hướng dẫn, và người ấy sẽ không bị lạc đường ».

Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết trong Tông thư về thánh Giuse Patris Corde (2020), ở mục số 4 về rằng : « Đời sống thiêng liêng mà thánh Giuse chỉ cho chúng ta chẳng phải là một con đường để giải thích, nhưng là một con đường đón nhận. Chính khi khởi đi từ việc đón nhận này, từ việc giao hoà này, mà chúng ta cũng có thể đi vào trong một lịch sử lớn lao nhất, một ý nghĩa thẳm sâu nhất ».

1. Đấng bầu cử để chết lành (Bonum Sane, 1920)

Tin mừng không nói cho chúng ta về cái chết của thánh Giuse, cũng như của Đức Maria. Chẳng ai biết thánh Giuse đã qua đời khi nào, nhưng chắc chắn là trước khi Đức Giêsu thi hành sứ vụ công khai. Người tự tan biến như khi người đến, người đã tan biến trong ánh sáng. Tựa như tổ phụ Giacóp đã có niềm vui được thấy sự lớn lên của Giuse, người thợ mộc cũng có niềm vui được sống trong mối tương hữu với con của người, đã trao ban niềm cảm mến và thấy người con trở nên một người trưởng thành. Thánh Giuse đã không phải chứng kiến người con bị chế giễu, hành hạ, bị đội mão gai, đóng đinh. Câu hỏi của chúng ta là, phải chăng người cũng có thể chịu đựng khi chứng kiến những cảnh bạo lực như vậy ? Dường như, thánh Giuse đã sống một cái chết đẹp giữa Đức Giêsu và Đức Maria. Các ngài đã vuốt mắt của người, tắm rửa thân xác người, và đặt người vào trong hầm mộ.

Thánh Giuse có thể giúp chúng ta chuẩn bị để sống cùng với cuộc vượt qua lớn lao của cái chết đến cuộc sống vĩnh cửa. Nếu chúng ta khẩn cầu người như là đấng bảo trợ cho một cái chết an bình, thánh thiện ; bởi vì trước tiên, người đã được gắn kết vào trong cái chết của chính Đức Giêsu và của Đức Maria. Nếu Đức Maria là mẹ của Giáo hội, thì thánh Giuse, người bạn trăm năm của Mẹ, là đấng bảo hộ chính thức. Và nếu thánh Giuse đồng hành luôn mãi với chúng ta cho đến tận cùng của giờ chết của chúng ta, thì chúng ta sẽ gặp thấy Thiên Chúa, diện đối diện.

2. Việc tôn kính thánh Giuse

Ngày nay, thánh Giuse có một vị trí đặc biệt quan trọng trong Giáo hội, nhưng điều này lại không phải như thế từ ban đầu ; và nó trái ngược lại với lòng sùng mộ hướng về Đức Maria, người Trinh nữ đã đính hôn người. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và là mẹ chúng ta. Việc tôn kính thánh Giuse sẽ phát triển một cách tiệm tiến. Tuy nhiên, rõ ràng, thánh Giuse là một vị thánh lớn hơn trong hàng ngũ các thánh của Chúa, chỉ sau Đức Maria. Hẳng nhiên, thánh nhân đã cùng với Đức Maria là những người đã gần gũi nhất với Ngôi Lời Vĩnh Cửu trở thành xác phàm. Ngài đã nhận từ Thiên Chúa những ơn sủng cần thiết cho sứ vụ làm cha tinh thần của Ngôi Lời làm người ; và vì thế, người đã được chiếu sáng nhờ con của người, cũng chính là Mặt trời Chân lý.

Thánh Giuse trước hết đã được tôn kính ở Đông phương từ thế kỷ thứ IV, tiếp đến là có những vị thánh đã kêu cầu cùng với thánh Giuse, và thánh Giuse trở nên là một biểu tượng ở Tây phương, bên cạnh Đức Maria. Nhưng phải đợi đến thế kỷ XII, lòng tôn kính thánh Giuse mới thực sự được nhận biết cách rộng rãi. Trước tiên là các đan sĩ Xitô, môn đệ của thánh Bernađô đã đề cao sự cao trọng của thánh Giuse, khi suy niệm đến sự liên hệ giữa thánh nhân với biểu tượng Đức Kitô. Hành vi tôn kính này cũng được thánh Bernađô de Sienna, tu sĩ Phanxicô thực hiện.

Nổi bật nhất phải đợi đến thời của thánh nữ Têrêsa Avila (1515-1582), thì mới thấy việc tôn kính thánh Giuse được lan rộng trong thế giới Tây phương. Thánh nữ Têrêsa Avila đã tin tưởng trao phó Dòng của người (vừa cải tổ) cho sự bảo trợ của thánh Giuse. Sự tin tưởng của thánh nữ hướng về đấng bảo trợ vĩ đại này thì thật là hiển nhiên và rõ ràng. Chính thánh nữ đã nói rằng, nếu Chúa Giêsu sẽ làm tất cả những gì cho cha của người, khi thánh Giuse xin người điều gì dưới mặt đất này, thì tiếp tục ở trên trời, Chúa Giêsu cũng vâng phục thánh nhân, khi chúng ta cầu xin thánh nhân khẩn cầu của chúng ta. « Có nhiều tâm hồn chiến thắng nhờ đã tin tưởng trao phó cho thánh Giuse. Từ nhiều năm, tôi đã cầu xin người một điều gì đó vào đúng dịp lễ mừng người : thánh Giuse đã làm cho tôi. Khi lời cầu xin của tôi không thực sự phù hợp, người đã chỉnh sửa lại và làm cho tôi điều cao cả hơn ».

Vào thế kỷ 17, việc tôn kính Gia đình thánh Gia và thánh Giuse đã rất phát triển trong nhiều vùng của Châu âu. Thánh Gioan Brebeuf, một tu sĩ dòng Tên, tử đạo ở Canada, đã tín trao hành trình truyền giáo gian khó của ngài đến « vị tổ phụ mới của người Huros » ; và thánh nữ Maria Nhập Thể đã cũng làm như vậy. Thánh Giuse đã trở nên đấng bảo trợ của rất nhiều người và tên của người trở nên phổ biến qua việc rất nhiều người nam chọn ngài làm bổn mạng. Và trên thế giới, có rất nhiều trung tâm hành hương kính nhớ vị thánh, chẳng hạn : ở Canada hay ở Oratoire du Mont Royal. Ở Saigon có Đền Công Chính.

Cần ghi nhận rằng, vào ngày mồng 7 tháng 6 năm 1660, thánh Giuse đã hiện ra trong một hang đá tại Cotignac với một chàng trai trẻ chăn chiên đang bị chết khát là Gaspard Ricard. Thánh nhân nói : « Ta là Giuse, hãy lật viên đá này ra và con có nước uống ». Chàng chăn chiên đã làm như thế và đã có uống nước. Nguồn nước này vẫn còn hiện hữu ngày nay và thu hút rất nhiều người hành hương. Danh hiệu : Nguồn suối Thánh Giuse, « Hãy đến kín múc với niềm vui, nơi nguồn suối của Đấng cứu Độ, năm 1660), vẫn còn tồn tại.

Tuy nhiên, chỉ đến năm 1870, Đức Giáo hoàng Piô IX mới công bố thánh Giuse là đấng bảo trợ Giáo hội hoàn vũ, và ngày 19 tháng 3 hằng năm là ngày cử hành lễ trọng mừng kính ngài. Và năm 1889, Đức Giáo hoàng Leô XIII đã chính thức công bố thánh Giuse là thánh bổn mạng các người cha trong gia đình (giới gia trưởng) và những người thợ thuyền (giới thợ thuyền). Lễ mừng kính ngài cũng được cử hành vào ngày mồng 1 tháng 5 hằng năm, ngày Quốc tế Lao Động, theo lời đề nghị của Đức Giáo hoàng Piô XII. Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã thêm vào danh mục các thánh được khẩn cầu trong Kinh Nguyện Roma (Canon Roma hay còn gợi là Lễ Quy Roma) trước khi diễn ra việc thánh hiến. Ngày 19 tháng 3 năm 1971, thánh Giáo hoàng Phaolo VI đã công bố, thánh Giuse là « đấng bảo vệ gia đình » ; và năm 1989, thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng đã công bố bản văn quan trong về thánh Giuse : « Redemptoris Custos » - người gìn giữ Đấng Cứu Thế.

Từ ngày mồng 1 tháng 5 năm 2013, thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích đã thêm rằng : « từ nay, tên của thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Trinh nữ Maria, được thêm vào trong các Kinh nguyện Thánh thể II, III và IV của ấn bản Sách lễ Roma mới, ngay sau tên của Đức Nữ trinh Maria ». Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng đã công bố một Tông thư vào tháng 12 năm 2020 về thánh Giuse với danh hiệu : « Patris corde – trái tim người cha ».



[1] Linh mục tại Canada.


Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn