Truyền giáo
là công việc cấp bách của Giáo hội
trong mọi nơi mọi thời, vì đó là lệnh truyền mà
Giáo hội đã nhận từ Đấng Phục sinh trước khi Ngài về trời:
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19).
Giáo hội đã nhận từ Đấng Phục sinh trước khi Ngài về trời:
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19).
Giuse Bùi Văn
Đình, Tu Đoàn TSTM
DẪN NHẬP
Có
thể nói, truyền giáo là một trong những sứ mạng quan trọng nhất của
Giáo hội, đây là sứ mạng mà Giáo hội đã nhận từ Đức Giêsu để rồi
rao truyền cho tất cả mọi người. Giáo hội được sinh bởi cái chết và
sự Phục sinh của Đức Kitô, bổn phận của Giáo hội là nói cho thế
giới biết tình yêu của Thiên Chúa. Như Công đồng Vatican II còn khẳng
định: “tự bản tính, Giáo hội lữ
hành là người được sai đi”[1].
Có nghĩa là, tự bản tính Giáo hội phải truyền giáo. Vì thế,
truyền giáo là trách nhiệm hàng đầu của mọi Kitô hữu. Vì vậy, Giáo
hội cũng cần làm sao cho mỗi Kitô biết trách nhiệm và giá trị của
mình, để làm cho người họ gặp gỡ nhận biết Thiên Chúa.
Việc truyền giáo là công việc cấp bách
của Giáo hội trong mọi nơi mọi thời, vì đó là lệnh truyền mà Giáo
hội đã nhận từ Đấng Phục sinh trước khi Ngài về trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Các Tông đồ và các tín hữu thời sơ
khai luôn trung thành và hăng say thi hành mệnh lệnh của Đức Giêsu. Vì
thế, tinh thần truyền của Giáo hội sơ khai luôn là một mẫu gương cho
Giáo hội ở mọi nơi, mọi thời.
Để nói lên tinh thần truyền giáo của Giáo hội Sơ khai,
người viết xin được trình bày đề tài này qua ba phần chính:
Phần thứ nhất, nói về tinh thần truyền giáo của Đức
Giêsu Kitô, Ngài là vị thừa sai đầu tiên, là Đấng được chúa Cha sai
đến để mạc khải cho con người biết tình yêu của Thiên Chúa và ơn cứu
độ của Ngài. Ngài cũng chính là Tin Mừng cho muôn dân, Ngài nói lên
tiếng nói và làm chứng cho chân lý và Tin Mừng, Ngài đã thiết lập
cộng đoàn để rồi huấn luyện họ. Ngài chấp nhận chết để làm chứng
cho sự thật, và trước khi về trời Ngài đã sai môn đồ đi tiếp tục
công việc của Ngài.
Phần thứ hai nói về tinh thần truyền giáo của Giáo hội
sơ khai qua đặc tính hiệp thông. Trong đó, sự hiệp thông cầu nguyện là
yếu tố hàng đầu của việc truyền giáo, vì các Kitô hữu Sơ khai luôn
ý thức được sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong cuộc đời họ.
Tiếp đến là việc hiệp thông bẻ bánh, họ cùng hiệp thông trong Chúa,
cùng nhau sống lý tưởng của Đức Giêsu để làm cho muôn dân nhận biết
Chúa. Việc hiệp thông chia sẻ còn trở nên trọn vẹn nơi Giáo hội Sơ
khai khi họ để mọi sự làm của chung.
Phần thứ ba là đời sống chứng tá của cộng đoàn sơ khai.
Họ sống chứng tá qua tinh thần phục vụ, đó là dấu chỉ cho thấy họ
thuộc về Đức Giêsu và làm cho dân ngoại nhận ra Đức Kitô nơi chính
cộng đoàn của mình. Họ luôn hăng say rao giảng để làm chứng cho Tin
Mừng, nhất là sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng cho Tin Mừng.
I.
ĐỨC GIÊSU KITÔ, VỊ THỪA SAI
ĐẦU TIÊN
Dựa vào các sách Tin Mừng, chúng ta biết được rằng: Đức
Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến, vì vậy Ngài chính là vị thừa
sai đầu tiên và là nguồn gốc của sứ vụ truyền giáo. Trong cuộc đời
công khai, Đức Giêsu đã nhiệt thành với sứ vụ mà ngài đã lãnh nhận
từ Chúa Cha để làm chứng cho chân lý, và Ngài đã làm chứng cho đến
khi đổ giọt máu cuối cùng trên thập giá. Cái chết của Ngài chính
là một bằng chứng nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Và để tiếp tục ban ơn cứu độ, Ngài đã chọn một số người mà Ngài
gọi là môn đệ, để huấn luyện, rồi sai họ đi truyền giáo.
1. Đức Giêsu, vị Thừa Sai
của Chúa Cha
Tác giả thư Hípri xác định: “Đức Giêsu là Đấng được Chúa
Cha sai đến, chứ không phải Ngài tự ý đến” (x. Hr 5, 5), chính Chúa
Cha cũng đã từng hai lần giới thiệu Đức Giêsu là con của Ngài: lần
thứ nhất trong biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan (x. Mt
3,17); lần thứ hai trong biến cố biến hình (x. Mt 17, 5).
Đức Giêsu đến trần gian mạc khải cho con
người biết tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, và Ngài mời
gọi họ hãy đón nhận tình yêu đó để được sống trong tình yêu và
hành phúc nơi Thiên Chúa. Như lời thánh Gioan nói: “Thiên Chúa, chưa bao
giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng
ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga
1,18). Chính Ngài là lời mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa[2]. Ngài
không chỉ là người mang Tin Mừng đến, mà chính Ngài còn là Tin Mừng,
vì Ngài là vị “thừa sai” của Chúa Cha, là ánh sáng cho mọi người
thế gian (x. Ga 1,9). Việc Chúa Cha sai Đức Giêsu đến trần gian được
thực hiện bằng cách cho Đức Giêsu nhập thể trong lòng trinh nữ Maria
bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (x. Lc 1, 35). Ngài được sinh ra trong
nước Dothái, chịu nhiều ảnh hưởng của dân tộc này. Trong cuộc đời
công khai, Đức Giêsu hầu như chỉ đi rao giảng Tin Mừng trong vùng
Palestine, vì họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn giữa muôn dân để
loan truyền những kỳ công của Chúa, họ đã được chuẩn bị tư tưởng và
tinh thần để đón nhận Đấng Mêsia.
Tuy nhiên, Tin Mừng của Ngài không chỉ dành riêng cho dân
Dothái, mà là Tin Mừng cho muôn dân,
cho tất cả thế giới loài người. Như lời các thiên thần nói với các
mục đồng: “Này tôi báo cho anh em
một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân” (Lc 2, 10);
lời này cho thấy tính phổ quát của ơn cứu độ. Toàn bộ đời sống của
Đức Giêsu nhằm cho thấy tình yêu và sự tha thứ mà Thiên Chúa Cha dành
cho con người, vì Đức Kitô từng tuyên bố: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9), Ngài là Lời
cuối cùng của Chúa Cha, chính Ngài cho biết cụ thể về Chúa Cha, vì
không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài (x. Ga 14, 6). Đức
Giêsu làm chứng về những gì Ngài đã thấy, đã nghe từ Chúa Cha (x. Ga
3, 32), chính những công việc của Ngài và những dấu chỉ kèm theo đã
làm chứng rằng: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến (x. Ga 5, 36; 10,
25).
Mục đích của việc Chúa Cha sai Chúa Con đến thế gian được
thánh Gioan xác định là để thế gian nhờ Người mà được cứu độ (x. Ga
3,17). Ơn cứu độ mà Ngài ban cho con người bao gồm những khía cạnh
khác nhau trong sứ vụ của Ngài; từ mầu nhiệm nhập thể, đến cái
chết để làm chứng cho Tin Mừng. Sứ vụ của Ngài là quy tụ con cái
Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối (x. Ga 11, 52), vì Ngài
được sai đến cốt để làm việc đó (x. Lc 4, 43). Việc Đức Giêsu thực
hiện sứ vụ Chúa Cha trao phó đã được ngôn sứ Isaia tiên báo: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa
đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn”
(Is 61, 1; Lc 4, 18). Vì thế, Đức Giêsu đã không ngần ngài đi khắp các
thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin
Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 9, 35).
Ngài gần gũi với những người nghèo khó, bệnh tật và những người
bị xã hội coi khinh. Không những thế, Ngài còn tuyên bố họ là những
người được Thiên Chúa chúc phúc, Ngài giảng dạy một cách đơn sơ và
thường dùng những hình ảnh thực tế hàng ngày để nói về tình yêu
thương của Thiên Chúa.[3]
Qua những gì Đức Giêsu nói và làm, cho thấy Ngài là hiện thân của
Chúa Cha, là cánh tay ôm ấp của Thiên Chúa đang quy tụ mọi người
thành một gia đình yêu thương.
2.
Đức Giêsu hy sinh tính mạng
để làm chứng cho Tin Mừng
Trong cuộc đời công khai, Đức Giêsu luôn ý thức mình là Đấng được Chúa Cha sai đến thế gian để
làm chứng cho Tin Mừng. Những cử chỉ và lời nói của Đức Giêsu là
những mạc khải về Thiên Chúa, một Thiên Chúa đầy lòng yêu thương và
nhân hậu: việc Ngài không kết án người phụ nữ ngoại tình là một
trong những minh chứng rõ nhất (x. Ga 8,11). Qua các dấu lạ, Đức Giêsu
đã bộc lộ quyền năng của Ngài trên tội lỗi, bệnh tật và cả ma quỷ
(x. Mt 8, 28- 34; Mc 5, 1-20; Lc 8, 26-39). Chính vì thế, Ngài không ngừng
ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Nội dung của lời rao
giảng là: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng; hãy sám hối vì Nước
Trời đã gần đến (x. Mc 1, 14-17). Chủ đề sám hối rất quan trọng trong
cho việc đón nhận Tin Mừng, vì Tin Mừng không thể đến được với những
tâm hồn không sẵn sàng đón nhận. Còn ai tin vào Tin Mừng chính là tin
vào Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, Đấng lấy việc rao giảng làm lẽ sống.
Tuy nhiên Đức Giêsu đã không đưa ra một định nghĩa rõ ràng về Nước
Trời, mà chỉ vén mở mầu nhiệm Nước Trời qua một vài dụ ngôn và
quả quyết rằng Nước Trời đã đến gần.[4]
Vương Quốc mà Đức Giêsu rao giảng khác với vương quốc mà
dân Israel mong đợi. Bởi vì đa số người Dothái trong thời Chúa Giêsu
rao giảng, không còn có quan niệm về một vương quốc của Đấng Mêsia mà
các ngôn sứ đã loan báo, mà họ mong đợi một Đấng Mêsia theo nghĩa
trần tục, một anh hùng đến cứu dân Israel thoát khỏi ách thống trị
của đế quốc Rôma để lập ra vương quốc Israel hùng mạnh như đã từng
xảy ra trong lịch sử thời Đavít và Salômôn.
Trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu bị
rất nhiều người chống đối. Lúc thì bị các luật sĩ và kinh sư và
người Pharisiêu chống đối (x. Mc 2, 16; 7, 5), lúc thì bị nhóm Pharisiêu
và phe Hêrôđê tìm cách hãm hại (x. Mc 3, 6). Tuy nhiên Đức Giêsu không
hề nao núng, trái lại Ngài không ngừng làm chứng về sự thật, về Tin
Mừng, nói lên tiếng nói để bênh vực kẻ thấp cổ bé họng và giới
phụ nữ. Không những thế, Đức Giêsu còn mạnh mẽ lên án vạch trần bộ
mặt giả hình của các kinh sư và người Pharisiêu (x. Mt 23, 1-7). Ngoài
ra, Đức Giêsu còn có những hành động và cử chỉ dường như đi ngược
lại với luật ngày Sabát (x. Lc 6, 6-11; 14, 1-6), Ngài không ngần ngại
tiếp xúc với người thu thuế và tội lỗi (x. Lc 5, 29-32), nhằm cho
thấy tình yêu của Thiên Chúa vượt qua mọi hình thức của lề luật. Qua
đó, Ngài cho thấy tôn giáo đích thực không hệ tại ở những nghi thức
và tính chất truyền thống, mà là thể hiện sự công bình, lòng nhân
từ và thương xót đối với tha nhân. Tuy nhiên, Ngài lại bị một số
những người biệt phái và kinh sư coi là người làm nhơ nhuốc tôn giáo
tinh tuyền vì ngài dám tiếp xúc với người Samari, với những người
bị coi là tội lỗi, là không biết lề luật.[5]
Những lời nói và việc làm của Đức Giêsu làm chướng tai
gai mắt các biệt phái, luật sĩ, và thượng tế. Và họ tìm cách giết
Ngài, vì họ cho rằng Ngài là một tên phạm thượng, dám tự xưmg mình
là Con Thiên Chúa (x. Lc 22, 70), nhưng họ không có thẩm quyền giết
Ngài, nên đã nại đến thẩm quyền Rôma. Họ vu cáo Đức Giêsu trước mặt
tổng trấn Philatô về tội chính trị là: xách động dân chúng, ngăn cản
dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Rôma và dám tự xưng mình là vua (x.
Lc 23, 2). Ngài đã bị kết án, và chết trên thập giá, một cái chết ô
nhục đối với người Dothái, nhưng đó lại là cái chết tự nguyện của
Đức Giêsu, là một bằng chứng về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con
người. Cái chết ấy có giá trị cứu chuộc con người, đưa con người
trở về với Thiên Chúa, về với tình trạng ban đầu khi con người mới
được dựng nên, vì Ngài là Con Thiên Chúa, là vị trung gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và loài người. Nói như nhà thần học Karl Rahner “Ngài làm người để con người làm chúa
và Ngài chết để con người được sống”. Ngài đón nhận sự đau khổ
và cái chết để cứu con người, cái chết của Ngài không phải là hết,
mà là một cuộc Vượt Qua để đi vào cõi sống vĩnh hằng. Sau ba ngày
chôn trong lòng đất, Ngài đã Phục sinh vinh hiển. Chính sự Phục sinh
này đã trở thành Tin Mừng vĩ đại, để rồi tất cả những ai tin và
sống theo lời dạy của Tin Mừng này đều được sống đời đời.
3. Đức Giêsu thành lập nhóm môn đệ và sai họ đi truyền giáo
Đức Giêsu Kitô là Đấng được Chúa Cha sai đến để loan báo
Tin Mừng Nước Trời, nhằm mang ơn cứu độ cho muôn dân. Nhưng để Tin Mừng
này được loan đi khắp cùng trái đất, Ngài đã gọi và chọn một số
người mà Ngài gọi là môn đệ, trong đó Ngài đã chọn riêng nhóm “Mười
Hai” để Ngài huấn luyện và sai họ ra đi loan báo Tin Mừng, các ông được gọi là “Tông đồ”. Từ này phát xuất từ
Hylạp là “apóstolos” hoặc từ “missonnarius” trong tiếng Latin có nghĩa
là: “người được sai đi”, vì thế toàn bộ sứ vụ của Giáo hội được
tóm gọn ở trong việc được sai đi và không ngừng được sai đi.[6] Trong
Tân ước thánh Luca còn cho thấy từ Tông đồ có nghĩa là “chứng nhân”,
còn thánh Phaolô thì quan niệm Tông đồ là “Thừa sai”.[7]
Trước khi sai các Tông đồ đi, Đức Giêsu đã trực tiếp huấn
luyện để các ông trở thành những nhà truyền giáo thực thụ. Nhóm
“Mười hai” luôn sống cận kề bên Ngài, họ được chứng kiến những dấu
lạ, những lời nói uy quyền của Ngài trên sóng gió, ma quỷ và bệnh
tật (x. Mc 1, 21-45). Họ được Ngài chia sẻ những kinh nghiệm thực tế
về hành trình truyền giáo, và được Ngài sai đi thực tập truyền giáo
(x. Mt 10, 1-16; Lc 9,1-6). Sứ điệp mà Đức Giêsu và các Tông đồ rao
giảng là: “Anh em hãy sám hối, vì
Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17), sứ điệp đó là một tin vui cho
nhân loại, là Tin Mừng cho tất cả những ai tin vào Đức Giêsu, là sự
bình an cho nhân loại. Chính Đức Giêsu đã căn dặn các Tông đồ rằng: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy
nói; Bình an cho nhà này” (Lc 10, 5). Tuy nhiên, Đức Giêsu biết
trước rằng; trong hành trình truyền giáo, các ông cũng sẽ gặp không
ít phiền toái, những thử thách và những chống đối, nên đã căn dặn: “Anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như
bồ câu” (Mt 10,16). Ngoài ra Đức Giêsu cũng ban cho các Tông đồ
quyền trên các thần ô uế và bệnh tật, vì vậy các ông rất hớn hở
về điều này, nhưng Ngài cho các ông thấy niềm vui lớn lao hơn là: tên
của họ được ghi ở trên trời (x. Lc 10, 20).
Khi Đức Giêsu sai các Tông đồ ra đi truyền giáo, Ngài cũng
ban Chúa Thánh Thần cho họ, vì chính Chúa Thánh Thần là hồn sống
của việc truyền giáo.[8]
Ngài làm cho Giáo hội được tăng trưởng (x. Ga 15, 26-27; 16, 6, 14),
biến cố ngày lễ Ngũ Tuần đã cho thấy điều đó (x. Cv 2). Và khi trao
phó cho họ sứ vụ truyền giáo, Đức Giêsu cũng ban cho họ được tham dự quyền bính của Ngài: “Ai nghe anh em là nghe Thầy” (Lc 10,
16). Vai trò của các Tông đồ là làm cho muôn dân trở thành môn đệ của
Thầy, cùng với đó là vai trò thánh hóa và điều khiển cộng đoàn
nhân danh Chúa Ba Ngôi và cho họ thấy Chúa luôn đồng hành và dẫn dắt
họ (x. Mt 28, 16-20; Mc 16, 15; Ga 20, 21-23). Như thế sứ mệnh truyền
giáo bắt nguồn từ tình yêu muôn thuở của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì Giáo
hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và sứ mạng của Chúa Thánh
Thần theo dự tính của Chúa Cha.[9]
Vì thế, mục đích tối hậu của việc truyền giáo không gì
khác ngoài việc làm cho mọi người được dự phần vào sự hiệp thông
với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Một điều cần thiết đối
với hành trình truyền giáo là phải biết sống thanh thoát, vì Đức
Giêsu đã từng dạy các Tông đồ: khi đi truyền giáo, họ không được mang
theo bao bị, tiền bạc (x. Mc 6, 8). Điều này cho thấy việc khẩn cấp
của việc truyền giáo, và nói lên tinh thần phó thác của người Tông
đồ vào Thiên Chúa trong khi thi hành
sứ vụ này, để họ không bám cấp vào của cải trần thế, đây
cũng chính là tinh thần của Đức Giêsu, Ngài đến trần gian trong thân
phận của một người nghèo, Ngài phó thác hoàn toàn nơi Chúa Cha khi
nói: “con chồn có hang, chim trời có
tổ, nhưng Con Người không có chỗ tự đầu” (Mt 8,20; Lc 9,58).
Trong hành trình truyền giáo, Đức Giêsu sai các Tông đồ
đến với dân Israel trước (x. Mt 10, 5-6). Có thể nói, đây cũng là tiến
trình mạc khải về Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn bộc lộ dần
dần, vì những ý tưởng về Tin Mừng xem ra còn xa lạ với những người
dân ngoại. Hơn nữa, ơn cứu độ cần phải bắt đầu từ dân Israel, một dân
được Chúa chọn. Để từ đó, ơn cứu độ sẽ được chuyển dần đến các
dân tộc khác (x. Rm 1, 16). Vì chỉ sau khi sống lại, Ngài mới truyền
cho các Tông đồ: anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin
Mừng cho mọi loài thọ tạo (x. Mc 16, 15; Mt 28, 18-20). Vì thế lúc đầu
các Tông đồ chỉ rao giảng trong môi trường Dothái, nhưng trớ trêu thay,
phần đông dân Dothái không chịu đón nhận mà còn bách hại các ngài.
Và khi bị bách hại, cộng đồng Giêrusalem đã buộc phải tản mác ra ngoài (x. Cv 8).
Sau đó, Tin Mừng đã được lan rộng đến đảo Síp và Antiôkia (x. Cv 11,
12-19). Và Antiôkia đã trở thành trung tâm truyền giáo đầu tiên, từ đó
Tin Mừng được lan truyền sang Âu châu và Aicập.[10]
Lời rao giảng của các Tông đồ chủ yếu tập trung vào Đức
Giêsu và Nước Thiên Chúa. Ở xứ Samari, ông Philípphê loan báo Tin Mừng
về Nước Thiên Chúa và danh Đức Giêsu Kitô (x. Cv 8, 12). Ở Rôma, thánh
Phaolô rao giảng Nước Thiên Chúa và giảng dạy những điều liên quan tới
Đức Giêsu Kitô (x. Cv 28, 31); cả các Kitô hữu đầu tiên cũng rao giảng
về Nước Thiên Chúa (x. Ep 5, 5).[11]
Đối tượng của lời rao giảng là làm chứng rằng Đức Giêsu đã sống
lại (x. Cv 2, 24; 3, 15; 4, 10), các ông đã thực sự cam kết với lời
chứng đó, vì họ đã thực sự sống, chứng kiến và cảm nghiệm về Đức
Giêsu. Thánh Phaolô cho thấy, làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh là một
trong những điều kiện để làm Tông đồ.[12]
Tuy nhiên, sứ mạng truyền giáo không chỉ là loan báo Tin
Mừng, nhưng còn bao gồm việc thánh hóa và cử hành các bí tích, dạy
người ta tuân giữ điều Chúa dạy (x. Mt 28, 18-20). Và phép rửa cũng
được khai nguồn từ Đức Kitô (x. Mt 28, 18). Thánh Phaolô giải thích, đó
là nghi thức biến đổi tội nhân thành con cái Chúa (x. Rm 6, 1-11).
Thánh Gioan gọi đó là sự tái sinh bởi nước và Thần Khí (Ga 3, 5),
và Đức Giêsu còn trao cho các Tông đồ nhiệm vụ cử hành Thánh thể (x.
Lc 22, 19; 1Cr 11, 24), để cung ứng lương thực thiêng liêng cho con người,
và Ngài còn ban quyền tha tội cho họ.[13]
Đó là những đặc ân mà Đức Giêsu trao phó cho các Tông đồ để các ông
tiếp tục thi hành và quản trị Giáo hội trong cuộc lữ hành dương thế
này. Đặc biệt, việc truyền giáo được thực hành cách thực tế qua
đời sống hiệp thông của các Kitô hữu.
II. GIÁO HỘI SƠ KHAI TRUYỀN GIÁO
QUA ĐẶC TÍNH HIỆP THÔNG
QUA ĐẶC TÍNH HIỆP THÔNG
Biến cố Ngũ Tuần là khởi điểm cho sứ mạng truyền giáo
của Giáo hội, với ơn sức mạnh mà các Tông đồ nhận được từ Chúa
Thánh Thần (Cv 2, 1-13). Các tin hữu Sơ khai chuyên cần nghe các Tông đồ
giảng dạy. Họ sống hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ
bánh, và cầu nguyện không ngừng. Họ đều hợp nhất với nhau, và để
mọi sự làm của chung. Nhờ đó, Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm
những người được cứu độ (x. Cv 2, 42-47). Việc truyền giáo trong Giáo
hội Sơ khai được bộc lộc qua đời sống cầu nguyện, hiệp thông bẻ bánh
và để mọi sự làm của chung.
1. Giáo hội Sơ khai hiệp thông cầu nguyện
Việc hiệp thông cầu nguyện là yếu tố
cần thiết cho sứ mệnh truyền giáo, vì việc truyền giáo không phải
là do sức con người, nhưng là do sự tác động của Thiên Chúa qua sự
cộng tác của con người, như lời Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại
ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,
37-38).
Trong cộng đoàn Giáo hội Sơ khai, tinh thần hiệp thông trong
cầu nguyện được bộc lộ khá rõ ràng. Lúc đầu, họ thường cầu nguyện
với những nghi thức Dothái giáo, vì hầu hết họ là những tín hữu
gốc Dothái. Chính các Tông đồ cũng là những người gốc Dothái, nên
những nghi thức phụng vụ thường gắn liền với những nghi thức truyền
thống Dothái, và họ còn tuân giữ một số lề luật Dothái như: chịu
phép cắt bì, tẩy uế, việc nghỉ ngày Sabát. Đặc biệt họ thường lên
đền thờ cầu nguyện (x. Cv 2, 46), Phêrô và Gioan cũng thường lên đền thờ cầu nguyện vào lúc rạng
đông và giờ thứ chín (x. Cv 3, 1; 5, 21). Trước mắt dân tộc, họ là
những người Dothái mộ đạo và được phúc lành của Thiên Chúa phù hộ,
nhưng họ vẫn ý thức về vai trò của chính mình là một cộng đồng
riêng biệt được Thiên Chúa chọn giữa muôn dân để làm chứng cho Ngài
bằng sự hiệp thông cầu nguyện.[14]
Sự hiệp thông cầu nguyện bắt nguồn từ Đức Giêsu, Ngài là
vị Thừa Sai đầu tiên và lý tưởng của người Tông đồ, Ngài thường
xuyên cầu nguyện cùng Chúa Cha, nhất là trong những biến cố trọng
đại như: khi chịu phép rửa; khi tuyển chọn các Tông đồ và nhất là
cầu nguyện cho các Tông đồ khỏi sa chước cám dỗ (x. Lc 3, 21; 6, 12-13;
22, 32-46), Ngài nhắc môn đệ hãy cầu nguyện với một tâm tình đơn sơ
và phó thác; tránh kiểu hình thức và phô trương như những người
Pharisiêu và bọn đạo đức giả thường làm. Mà hãy cầu nguyện bằng
một kinh nguyện thật đơn sơ nhưng chứa đầy sự hiệp nhất (x. Mt 6,
5-13).
Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ, các môn đệ, cùng
với Đức Maria, một số những người anh em bà con và những người đã
từng theo Đức Giêsu khi Ngài rao giảng, thường tụ họp với nhau để cầu
nguyện (x. Cv 1, 13-14). Và biến cố Ngũ Tuần đã cho thấy sức mạnh và
sự cần thiết của việc cầu nguyện (x. Cv 2, 13-14). Sau biến cố Ngũ
Tuần, các Tông đồ đã mạnh dạn nói về Đức Giêsu cho những người
Dothái, là những người trước đó đã từng lên án đóng đinh Đức Giêsu
vào thập giá. Chính nhờ hiệu lực của lời cầu nguyện và với ân
sủng của Thiên Chúa ban, thánh Phêrô đã mạnh dạn nói cho người Dothái
biết Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà các ngôn sứ đã tiên báo. Chính
nhờ lời giảng của Phêrô và sự tác động của Chúa Thánh Thần mà đã
có rất nhiều người tin và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô (x. Cv 2, 14-41). Có thể nói, Nước Thiên
Chúa được lan rộng là do ân sủng của Chúa, nhưng cũng phải kể đến
sự cộng tác bằng lời cầu nguyện, việc rao giảng của các Tông đồ,
các môn đệ và các Kitô hữu tiên khởi mà Nước Chúa lan rộng một cách
mạnh mẽ, họ được nuôi dưỡng bởi nguồn suối ân sủng của Thiên Chúa
thông qua các buổi họ quy tụ lại với nhau, cùng nhau cầu nguyện và
dâng lên Thiên Chúa công việc hàng ngày.[15]
Cộng đoàn Giáo hội Sơ khai là một cộng đoàn lý tưởng vì
họ biết gắn bó với nhau trong lời cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện,
họ xin Chúa soi sáng để đón nhận những người lo việc cộng đoàn: “Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đã
đặt tay trên các ông” (Cv 6, 6); họ cầu nguyện để nhận ra Chúa
chọn ai làm Tông đồ thay thế Giuđa (x. Cv 1, 24). Nhờ việc họ họp nhau
cầu nguyện mà Chúa đã xuống ơn, làm cho họ mạnh dạn nói Lời Chúa
(x. Cv 4,31); các Tông đồ cũng cầu nguyện và đặt tay trên dân Samari để
họ nhận được Thánh Thần (x. Cv 8, 14-17). Có thể nói, tinh thần cầu
nguyện của Giáo hội Sơ khai nói lên sự phó thác vào Thiên Chúa, họ
ý thức được sự yếu đuối của con người; những khi con người bất lực,
chỉ còn cách chạy đến với Chúa: đang khi Phêrô bị giam, Hội thánh
không ngừng cầu nguyện cho ông (x. Cv 12, 5). Người Tông đồ không chỉ
cầu nguyện để có sức truyền bá Tin Mừng, nhưng còn cầu nguyện khi
họ bị giam cầm. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại việc ông Phaolô và
Xila cầu nguyện và hát thánh vịnh trong khi bị xiềng xích, gông cùm,
khiến nhà tù rung chuyển. Qua sự kiện này, viên cai ngục liền chạy
đến với Phaolô và Xila nói: tôi phải làm gì để được ơn cứu độ,
Phaolô và Xila cho biết; cần tin vào Đức Giêsu, thì ông và cả nhà
được cứu độ, ông này cùng với gia đình đã tin và xin lãnh nhận phép
rửa (x. Cv 16, 25-34).
Ngoài ra, việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn Giáo hội
Sơ khai còn có mục đích nối kết các thành viên trong cộng đoàn, và
giúp họ ý thức đến trách nhiệm mà Đức Kitô đã trao phó là: đem Tin
Mừng đến cho muôn dân. Trong khi cầu nguyện, họ ý thức mình thuộc về
Đức Kitô, cần đến sự trợ lực của Ngài và của Thánh Thần để có
năng lực truyền giáo. Họ cầu nguyện để vượt qua những khó khăn như:
xích mích trong nội bộ do việc chuyển nhượng tài sản, phân phát lương
thực và cả những khác biệt về quan điểm truyền giáo. Để rồi, cùng
với sự nâng đỡ của Thánh Thần, cộng đoàn vẫn tồn tại và phát
triển.[16]
Trong bối cảnh bị cấm cách và bắt bớ rất khó khăn trong
việc truyền giáo, nhưng Giáo hội không ngừng phát triển, đó là nhờ
sự trung thành, nhiệt tâm truyền giáo của các Tông đồ và các tín
hữu, nên con số tín hữu không những không bị giảm mà còn tiếp tục
gia tăng. Có thể nói, nhờ yếu tố hiệp thông giữa các Tông đồ và các
tín hữu nên Giáo hội Sơ khai đã vượt qua mọi biến cố. Ngoài ra, việc
cầu nguyện còn là thái độ tự nhiên đi liền với niềm tin[17],
họ tôn vinh và tạ ơn Chúa trong tình hiệp thông với nhau, và điều đó
còn được thể hiện cách thực tế qua việc cùng nhau bẻ bánh.
2. Giáo hội Sơ khai hiệp thông bẻ bánh
Việc bẻ bánh gợi lên một ý tưởng đã thoáng thấy trong
Thánh Kinh Cựu ước. Việc bẻ bánh đó được đặt trong khung cảnh bữa
tiệc Vượt Qua của người Dothái, nó nói lên một nghi thức phụng vụ,
được cử hành tại mỗi tư gia để tưởng niệm biến cố Thiên Chúa viếng
thăm và giải phóng dân Dothái (x. Xh 12).[18]
Trong bữa tiệc này, người chủ tọa đọc lời chúc tụng, rồi bẻ bánh,
chia cho những người đồng bàn (x. Gr 16, 7; Ac 4, 4).[19]
Có thể nói, việc bẻ bánh này mang tính phụng vụ, bởi vì nó thể
hiện tình huynh đệ và chia sẻ.
Trong Giáo hội Sơ khai, việc bẻ bánh có một ý nghĩa rất
quan trọng trong hành trình sống đạo và cho việc loan báo Tin Mừng.
Trước tiên, bữa tiệc này gợi nhớ lại bữa Tiệc Ly mà chính Đức Giêsu
và các môn đệ đã cử hành trước khi Ngài chịu khổ hình. Trong bữa
tiệc đó, Đức Giêsu đã dạy cho họ nhiều bài học giá trị về tinh
thần phục vụ như: khi Ngài rửa chân cho các môn đệ, về đời sống tương
quan, về cách thức lãnh đạo cần phải có của người mục tử như: sự
đại lượng, bao dung và tinh thần phục vụ (x. Ga 14, 1-20). Vì thế khi
các tín hữu thời Giáo hội Sơ khai cử hành nghi thức bẻ bánh, là
lúc họ thể hiện sự hiệp thông huynh đệ, ý thức đến việc chia sẻ
đời sống tương quan cho nhau trong đời sống hiệp nhất. Như vậy, việc
bẻ bánh không chỉ mang ý nghĩa là chia sẻ tình bạn, mà còn có nghĩa
là chia sẻ sự sống của Đức Kitô, Ngài muốn cho thấy rằng, trót cả
cuộc đời của mình là cuộc trao ban, ngõ hầu mang Nước Thiên Chúa đến
cho tha nhân.[20]
Chính việc chia sẻ này là một tấm gương sáng chiếu soi nơi những
người ngoại giáo để họ nhận biết Thiên Chúa và trở về với Ngài.
Ý thức về tầm quan trọng của việc bẻ bánh như thế, nên
các Kitô hữu thời Sơ khai thường cử hành nghi lễ này tại Đền thờ hay
tại tư gia mỗi ngày và nhất là vào ngày Chúa Nhật để tưởng niệm
việc Chúa Kitô chết và Sống lại, đó cũng chính là điểm khác biệt
so với nghi lễ của người Do thái cử hành vào ngày Sabát. Có thể
nói, việc cử hành lễ bẻ bánh vào Chúa Nhật có một ý nghĩa rất
lớn cho việc truyền bá Tin Mừng, vì những người Dothái nhìn vào sự
mới lạ của nghi thức này; một nghi thức cảm thấy rất quen, nhưng
cũng có những điểm rất mới lạ. Và nhất là cách những Kitô hữu đối
xử với nhau trong và ngoài nghi lễ, từ đó người Dothái càng dễ nhận
biết Đức Giêsu Kitô.
Nghi lễ bẻ bánh hiểu theo nghĩa chuyên môn là “cử hành
Thánh thể”, nhưng nghi lễ này lại không giới hạn vào một nghi lễ
phụng vụ, mà còn được lồng vào khung cảnh của bữa ăn huynh đệ, vừa
nuôi dưỡng thân xác, vừa được sống vui vầy bên nhau, và cảm nhận được
sự hiện diện của Chúa Phục sinh.[21]
Nghi lễ này nói lên tình hiệp thông trong việc chia sẻ Thánh thể Chúa
Kitô, thể hiện sự hiệp thông và chia sẻ niềm tin của Giáo hội Sơ
khai, vì chỉ những người tin vào Đức Giêsu mới tham dự nghi lễ này.[22]
Nghi thức bẻ bánh như là nguyên nhân và biểu tượng đặc thù của mối
hiệp nhất trong cộng đoàn Giáo hội, nghi thức này nói lên bản sắc
cá biệt của các Kitô hữu gốc Do thái sống giữa đồng bào mình hằng
lên làm việc tại Giêrusalem (x. Cv 2, 42- 47).
Thánh Phaolô thấy được ý nghĩa thần học của việc bẻ
bánh này chính là tham dự vào Thánh thể Đức Kitô, vì khi ta cùng
nhau bẻ bánh, là chúng ta dự phần vào thân thể Đức Kitô, và nhờ đó
họ trở nên một thân thể trong Đức Kitô (x. 1Cr 10, 16-17). Chính Thánh
thể liên kết các tín hữu với Đức Kitô và liên kết họ với nhau để
làm gia tăng đức ái trong Giáo hội.[23]
Nghi thức bẻ bánh còn gợi lên việc Chúa hiện diện giữa cộng đoàn,
đó cũng là dấu chỉ nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục sinh như hai
người môn đệ trên đường Emmaus nhận ra Chúa khi Ngài bẻ bánh (x. Lc 24,
30- 31). Như vậy, việc tham dự lễ bẻ bánh nói lên tính truyền giáo
của Giáo hội Sơ khai, là cách thức họ giới thiệu Đức Giêsu là Thiên
Chúa đến trần gian cứu độ con người. Việc bẻ bánh còn là cách thức
để họ diễn tả một cộng đoàn tâm đầu ý hợp phụng thờ Thiên Chúa,
nhờ đó họ mới có thể sống đúng phẩm giá của những Kitô hữu đích
thực. Vì mỗi lần họ cùng nhau tham dự lễ bẻ bánh là họ thể hiện
tâm tình hiệp thông với nhau, đó chính là dấu chỉ cho thấy sự hạnh
phúc của những người tin vào Chúa, một sự hạnh phúc mà những người
dân ngoại không thể có và cũng không thể cảm nghiệm được. Nhờ đó, những
người ngoại giáo mới biết Thiên Chúa và đến với Ngài để được cứu
độ.
Việc hiệp thông bẻ bánh còn nói lên tính cách phụng vụ
và ca tụng Thiên Chúa; nhờ đó Chúa Thánh Thần đến dẫn dắt Giáo hội
trên đường truyền giáo, như lời Đức Giêsu nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời
miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4). Như vậy, bánh còn được so sánh
với Lời Chúa, bánh biểu tượng Lời của Thiên Chúa mà nhờ đó người ta
được sống mỗi ngày[24].
Việc bẻ bánh còn là cách thức diễn tả dấu chỉ việc Lời Chúa luôn
ở bên con người, giúp con người thắng mọi âm mưu ma quỷ, giải thoát
con người khỏi ách thống trị ma quỷ, khỏi cơn đói khát về mặt thể
chất, và nhất là được nuôi dưỡng về mặt thiêng liêng. Qua các phép
lạ hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 19-21; Mc 6, 41-44), Đức Giêsu cho thấy
việc phân chia của ăn có sức thuyết phục con người đón nhận Tin Mừng.
Qua các bằng chứng chia sẻ của ăn cho người khác, cộng đoàn Giáo hội
Sơ khai đã thể hiện một tinh thần yêu thương, diễn tả lòng nhân từ
của Thiên Chúa đối với những người nghèo, và tinh thần truyền giáo
còn thể hiện một cách rõ nét hơn nữa trong việc để tài sản làm
của chung.
3.
Giáo hội Sơ khai hiệp thông
chia sẻ
Sách Công vụ Tông Đồ cho thấy, các Kitô hữu Sơ khai đã để
mội sự làm của chung, với một tinh thần tự nguyện và rộng rãi. Họ
làm như thế vì tình yêu thương người khác; ông Banaba là một trong số
đó: “Ông bán đất đi, lấy tiền đem
đặt dưới chân các Tông đồ” (Cv 4, 37). Có thể nói, giải thích
việc mọi người để mọi sự làm của chung là một điều khó, vì có
người cho đây là việc đặt ra một quỹ chung để đài thọ cho những
người nghèo, theo tục lệ có sẵn ở cộng đoàn Dothái, và việc phục
vụ các quả phụ đã ám chỉ điều này (x. Cv 6, 1). Nhưng xem ra tác giả
Công vụ muốn nói về việc để của chung thực sự.[25]
Việc đặt mọi sự làm của chung trong cộng đoàn Giáo hội
Sơ khai nói lên tư cách của những cộng đoàn có sự hiện diện của
Chúa. Hơn nữa đây cũng chính là cách sống của Đức Giêsu, Ngài đã
đến trần gian với một tinh thần siêu thoát, không bám víu vào của
cải trần thế, đó là một tinh thần luôn quy hướng về Chúa. Nhờ thế
giá và lời giảng dạy của các Tông đồ, cộng đoàn Sơ khai đã đón
nhận Lời Chúa một cách mãnh liệt, họ bỏ tất cả để theo Chúa. Họ
bán của cải đem đặt dưới chân các Tông đồ làm của chung để các ngài
phân phát cho mọi người tùy theo nhu cầu (x. Cv 4, 35, 37). Qua việc đặt mọi sự làm của chung,
chúng ta khám phá ra cộng đoàn Giáo hội Sơ khai là nơi gặp gỡ, yêu
thương, cảm thông, tương trợ vật chất cũng như tinh thần giữa người
với người (x. Cv 2, 44), ngõ hầu họ thể hiện một bản chất sâu xa về
mặt tinh thần của những người con cái Chúa.
Chính lời Đức Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Anh
chỉ còn thiếu một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người
nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,
21) đã thực sự thấm sâu vào lòng các tín hữu thời Sơ khai. Họ không
chỉ hiệp nhất với nhau trong tinh thần mà còn cả trong việc làm cụ
thể, họ dám từ bỏ tất cả những gì mình có vì nhu cầu của người
khác. Chính những cử chỉ sống tình yêu này nói lên sự khát vọng
của con người nhận biết chân lý, và trong chân lý đã giải thoát họ
khỏi những sự bám chấp vào của cải trần thế, để thực thi sứ mệnh
của Thiên Chúa là biết sống cho người khác và vì người khác. Đó
chính là tâm trạng của những con người đang sống trong tình yêu đích
thực là trong Đức Giêsu Kitô. Một tình yêu đích thực là cho đi mà
không tính toán. Những Kitô hữu Sơ khi đã nghiệm được lời Chúa Giêsu
đã dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35).
Tâm tình chia sẻ của cải này nói lên tính cách tâm tình
truyền giáo của Giáo hội Sơ khai, chính tình yêu thôi thúc họ giới
thiệu Chúa cho người khác để họ cũng được hưởng sự bình an và hạnh
phúc với mọi người. Việc đặt mọi sự làm của chung còn nói lên một
tinh thần siêu thoát trong đời sống kết hiệp với Chúa, họ không còn
bị của cải hay vật chất đời thường chi phối đời sống nữa. Việc phân
chia tài sản như thế thể hiện rằng, họ cùng chung một niềm tin và hy
vọng.[26]
Sự hiệp thông trong tình bác ái chính là tư cách và mẫu gương của
người môn đệ Đức Kitô, lan tỏa qua các Kitô hữu, nhờ đó Tin Mừng được
loan truyền cách nhanh chóng.
Lối sống của các tín hữu Sơ khai thật là đặc biệt, không
một ai coi bất cứ cái gì là của riêng (x. Cv 4, 32). Mặc dù họ vẫn
có quyền sở hữu hợp pháp những gì họ có, nhưng họ đặt chúng dưới
quyền điều hành của các Tông đồ. Thực ra họ có quyền bán hay không
bán, họ cũng có quyền nộp tất cả hay chỉ một phần mà thôi.[27]
Việc góp của riêng thành của chung không phải do sự áp đặt, nhưng là
do tự nguyện (x. Cv 5, 4). Đó là tinh thần sống tự nguyện thanh thoát
vì Tin Mừng. Để từ nay, người Kitô hữu không còn phải lo lắng về vật
chất, mà chỉ ý thức đến vai trò của mình là phục vụ mọi người
với một tinh thần rộng mở, và điểm nhắm tới là sống hòa thuận yêu
thương nhau, thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua tình yêu thương mọi
người. Lời Đức Giêsu dạy: “Hãy bán
tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không
hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm
không bén mảng, mối mọt không đục phá” (Lc 12, 33), đã thực sự
thấm nhuần vào đời sống của họ, và họ không còn để lòng mình bán
chấp những của cải trần thế, mà chỉ biết sống một đời sống chứng
tá trong tinh thần phục vụ và hy sinh vì Tin Mừng.
III.
GIÁO HỘI SƠ KHAI
TRUYỀN GIÁO BẰNG ĐỜI SỐNG CHỨNG TÁ
TRUYỀN GIÁO BẰNG ĐỜI SỐNG CHỨNG TÁ
Đức Giêsu sai các Tông đồ đi rao giảng
Tin Mừng với một yêu cầu là làm chứng cho Ngài: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp
miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Các
Tông đồ nhận thấy trong sư điệp đó mang một ý nghĩa sống chứng tá
trong hành trình truyền giáo. Việc sống chứng tá được thể hiện qua tinh
thần sống phục vụ, một tinh thần nói lên sự quảng đại của những con
người được cứu chuộc, và từ đó họ có thể hăng say rao giảng Tin
Mừng, và dám dấn thân một cách tích cực trong việc rao giảng Tin
Mừng theo gương Đức Kitô.
1. Giáo hội Sơ khai
truyền giáo bằng đời sống phục vụ
truyền giáo bằng đời sống phục vụ
Sống tinh thần phục vụ là sống tinh thần của Đức Kitô,
vì cũng như Ngài đến không phải để cho người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ (x. Mt 20, 20). Mẫu gương Ngài rửa chân cho các Tông đồ trong
bữa Tiệc Ly đã nói lên điều đó (x. Ga 13, 3-15). Cộng đoàn Giáo hội
Sơ khai luôn ý thức tinh thần này, chính tinh thần phục vụ là một
cách thế làm cho mọi người nhận biết đạo Chúa. Có thể nói, đây là
một trong những cách thức truyền đạo hiệu quả nhất, dù họ không
trực tiếp rao giảng, nhưng cách sống của họ có một sức hút kỳ lạ.
Giữa một môi trường tôn giáo và xã hội phức tạp như thế mà họ lại
được toàn dân quý mến. Cách sống của họ làm cho người khác phải
đặt câu hỏi, và khi tìm được câu trả lời họ cũng muốn trở thành
Kitô hữu, thành chứng tá cho Tin Mừng. Nói theo ngôn ngữ thời nay:
cộng đoàn tín hữu Sơ khai đã truyền giáo bằng đời sống chứng tá hơn
là lời rao giảng. Chính vì vậy, lịch sử đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết tân tòng xin gia nhập đạo vì
chứng kiến gương bác ái, tình huynh đệ cộng đoàn, hoặc sự can đảm
của các tử đạo”.[28]
Trách nhiệm hàng đầu của người Tông đồ là phải dồn tất
cả mọi nghị lực và tâm trí để thi hành sứ vụ rao giảng Nước Trời
trong tinh thần phục vụ người khác. Lời Đức Giêsu nói với họ: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải
làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 35),
luôn là yếu tố hàng đầu cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Tinh thần
phục vụ đó nói lên tính cách của người Tông đồ, theo gương Đức Giêsu
để phục vụ ngõ hầu đưa nhân loại về với Chúa, tinh thần đó được
bộc lộ bằng một tình yêu và lòng vị tha vô vị lợi. Có thể nói,
chính tình yêu này là một trong những “tác nhân”, một chất “xúc tác”
quan trọng giúp người khác nhận ra “Chân Lý”, khi nhìn vào một con
người hăng say phục vụ, người ta dể dàng mến phục, và muốn theo cách
sống của người ấy, họ sẽ tìm hiểu lý tưởng sống của người ấy.
Tinh thần phục vụ của các tín hữu nơi Giáo hội Sơ khai có sức
thuyết phục người ta nhận biết Đạo Chúa Kitô.
Truyền giáo là một sự cao cả, đối điện với sứ vụ này,
tất cả mọi giá trị, mọi nhu cầu yêu sách và quyền lợi khác, dù có
chính đáng đến đâu cũng vẫn bị coi là thứ yếu. Ngay cả việc chôn
cất cha mẹ là nghĩa vụ thiêng liêng của con cái, cũng vẫn bị coi là
thứ yếu so với sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thánh Luca thuật lại, khi Đức Giêsu kêu gọi anh thanh niên đi theo
Ngài, nhưng anh ta xin phép Ngài để về chon cất cha mẹ anh trước đã
và Ngài đã không do dự mà nói rằng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn
anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9, 60). Như vậy,
việc truyền giáo đã trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Việc truyền giáo
này trức hết được thể hiện khi con người biết yêu thương nhau, biết tha
thứ và phục vụ lẫn nhau.
Chính Đức Giêsu khi giải thích điều răn trọng nhất cho
những người thông luật Ngài cũng chốt lại hai điều căn bản là: mến
Chúa yêu người (x. Mt 22, 34-40; Lc 10, 25-28). Tình yêu của Đức Giêsu
đối với thế gian được diễn tả cách hoàn hảo trong việc Ngài hiến
tặng sự sống của mình cho nhân loại, cho thấy tình yêu của Thiên Chúa
đối với thế gian.[29]
Có thể nói, Giáo hội Sơ khai đã phục vụ Nước Thiên Chúa cách hữu
hiệu khi kêu gọi con người sám hối để đón nhận chân lý, nói cho họ
biết tình yêu của Thiên Chúa.
Tinh thần phục vụ này còn được bộc lộ qua việc thiết
lập các cộng đoàn, hướng dẫn các dự tòng để họ có được một đời
sống đức tin vững mạnh, biết nâng đỡ những người yếu đuối chưa có
đức tin. Sự phục vụ của người môn đệ Chúa như nguồn ánh sáng chân
lý đến với muôn dân. Đức Giêsu nói: anh em là muối cho đời, là ánh
sáng cho trần gian, và ánh sáng đó phải được chiếu giãi trước mặt
thiên hạ, để họ thấy những công việc anh em làm mà tôn vinh Cha của
anh em, Đấng ngự trên trời (x. Mt 5, 13-16). Lời Đức Giêsu đã được bộc
lộ một cách rất rõ ràng qua tinh thần phục vụ của các Tông đồ, qua
những con người phục vụ hăng say đó người ta nhận ra Thiên Chúa đang
hiện hữu trong cộng đoàn. Và khi số tín hữu gia tăng, nhu cầu phục
vụ tăng lên, các Tông đồ đã có sáng kiến “lập nhóm Bảy người” (Cv 6) để không làm mất đi tinh thần
phục vụ và sự dấn thân trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
2. Giáo hội Sơ khai truyền giáo bằng việc dấn thân
Khởi đầu cuộc rao giảng Nước Trời, Đức Giêsu đã kêu gọi
các Tông đồ theo Ngài, và các ngài đã hưởng ứng tích cực. Các Tông
đồ là những người tiên phong trong việc loan báo Tin Mừng, họ là
những người đã lắng nghe tiếng Chúa, làm theo lời Chúa dạy là đem
Tin Mừng đến cho mọi người.
Khi thành lập nhóm “Mười Hai”, Đức Giêsu đã chọn thánh
Phêrô làm thủ lãnh, vì vậy Thánh nhân luôn ý thức và trách nhiệm về
sứ vụ mà ngài đã nhận từ nơi Thầy mình là chăm sóc và củng cố
đức tin cho anh em mình, bắt đầu bằng việc rao giảng cho người Do thái
tại Giêrusalem trước, rồi đến Samari và cuối cùng là đi khắp thế
giới (x. Cv 1, 8). Vì thế sau khi Đức Giêsu lên trời, thánh Phêrô đã
khẩn trương tập họp các Tông đồ và một số môn đệ để chọn người thế
chỗ Giuđa, và các ông đã chọn Mathia: ông được kể thêm vào số mười
một tông đồ nhằm thực hiện sứ vụ mà Chúa Giêsu đã truyền dạy (x. Cv
1, 15-26). Sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần,
Phêrô loan báo Tin Mừng ngay và thành lập cộng đoàn đầu tiên (x. Cv 3),
ngài làm chứng về Đức Giêsu trước tòa Dothái (x. Cv 4, 19-20).
Có thể nói, việc truyền giáo ở giai đoạn ban đầu khá
thành công, vì đã có nhiều người gia nhập cộng đoàn, con số tăng lên
liên tục: từ 120 người lên 3000 người, rồi lên 5000 người (x. Cv 1, 15;
2, 37; 4, 4). Với lòng hăng say nhiệt thành trong việc loan báo Tin
Mừng, các Tông đồ đã làm cho nhiều người tin theo Chúa. Trong khi đó
các Tông đồ còn phải đương đầu với môi trường ngoại giáo Hy-La ở
lãnh thổ Palestine, đó là những thành phố nằm dọc địa Trung Hải.
Sách Công vụ cho biết, việc truyền giáo cho người Hy hóa cũng lan tới
miền này, Philípphê làm phép rửa cho viên thái giám người Êthióp (x.
Cv 8, 27). Từ miền Duyên Hải này, các Tông đồ tiếp tục việc truyền
giáo cho những vùng dân ngoại. Thực vậy, với tâm trạng của các Tông
đồ vốn là những người Dothái, họ vẫn không tránh khỏi tâm thức của
người Dothái, nên không muốn tiếp xúc với người ngoài Dothái, nhưng
Thánh Phêrô đã tuyên bố không thể từ chối phép rửa tội cho họ.[30]
Bởi chính Phêrô đã được Chúa cho dấu lạ từ Trời để mở cửa Giáo
hội cho các dân tộc ngoài Dothái (x. Cv 10, 34-48), đó là dấu chỉ cho
thấy tính phổ quát của ơn cứu độ của Đức Giêsu.
Thánh Gioan nói lên sứ mạng của người Tông đồ là: “Chúng tôi làm chứng về những điều
chúng tôi đã thấy” (Ga 3, 11). Đối tượng mà các Tông đồ rao giảng
là Đức Giêsu Kitô, Ngài là Thiên Chúa nhập thể làm người, đã chịu
chết và Phục sinh để cứu độ nhận loại. Các Tông đồ ngoài việc rao
giảng bằng lời, các Ngài còn thực hiện những việc kỳ diệu là
những phép lạ giữa dân chúng như lời Đức Giêsu đã truyền cho các ông.
Sách Công vụ kể việc Thánh Phêrô chữa một người què bẩn sinh (x. Cv 3,
2-8). Điều đó cho thấy dấu chỉ Chúa ghé thăm dân Ngài, vì những việc
đó được thực hiện nhân danh Đức Giêsu chứ không phải nhân danh ai khác
(x. Cv 3, 16). Nhờ đó, các Tông đồ có một sức mạnh mang tính linh thánh,
để làm cho người ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.[31]
Công cuộc trở lại của các tín hữu thời Sơ khai có một
bề dày chiều sâu đức tin, không phải họ tin một cách mù quáng, vu vơ.
Nhưng họ đón nhận Lời Chúa với tất cả nhiệt tâm, vì ngày ngày họ
tra cứu Sách Thánh để xem có đúng như vậy không. Vậy nhiều người
trong nhóm họ đã tin theo; về phía người Hy lạp, cũng có nhiều phụ
nữ thượng lưu và nhiều đàn ông cũng tin theo (x. Cv 17, 11-12). Điều ấy
cho thấy đời sống đức tin của các Kitô hữu thời Sơ khai có sức lôi
cuốn mọi người. Tuy nhiên, chúng ta cần xác định rằng: việc dân chúng
trở lại, công việc cốt lõi của Chúa, còn con người chỉ là cộng tác
mà thôi. Vì chính Ngài mới là Đấng làm cho cộng đoàn ngày càng có
thêm người được cứu độ (x. Cv 6, 7). Nhờ đó, Giáo Hội được vững chắc
và sống trong sự kính sợ Thiên Chúa nhờ sự nâng đỡ của Thánh Thần
và có bàn tay Thiên Chúa ở với họ (x. Cv 11, 21).
Trong công cuộc truyền giáo của Giáo hội Sơ khai, chúng ta
nhận ra mỗi cộng đoàn có những cách thức truyền giáo riêng: họ biết
hội nhập văn hóa trong việc rao giảng Tin Mừng. Trong các bài “Keryma” được nói tới trong môi
trường Dothái, Phêrô cho thấy Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã
hứa với tổ tiên họ. Những tín hữu này vẫn thường giữ đạo Đức Kitô
với những tâm tình của người Dothái. Hằng ngày, họ vẫn lên đền thờ
cầu nguyện, bẻ bánh với nhau, cùng nhau chia sẻ tình thân hữu. Nhưng
khi Giáo hội tại Giêrusalem bị bách hại, các tông đồ và các Kitô hữu
tản đi nhiều miền khác nhau, và chính biến cố bắt bớ này làm cho
Giáo hội ngày càng thêm đông ở nhiều vùng miền khác nhau, nhất là
Giáo hội ở Antiôkia. Ngay từ lúc mới thành lập, cộng đoàn Antiôkia
xem ra nhốn nháo, vì họ muốn độc lập khỏi Dothái giáo, khỏi luật
cắt bì. Chính sự kiện này được đưa ra bàn cãi, và đã tìm được sự
dung hòa ở Công Đồng Giêrusalem năm 49, khi Công Đồng này cho phép những
người ngoại gia nhập Hội thánh, không phải chịu cắt bì theo nghi thức
của Do thái giáo (x. Cv 15). Điều quan trọng là Giáo hội tại Antiôkia
đã sớm ý thức về ơn gọi truyền giáo của mình. Chính họ đã cử ông
Banaba và ông Phaolô đi truyền giáo (x. Cv 13, 2-3).[32]
Thánh Phaolô là một con người hăng say rao giảng Tin Mừng,
dù Ngài không thuộc nhóm “Mười Hai”, nhưng Ngài được chính Đức Giêsu
chọn và sai đi rao giảng, vì Ngài đã được gặp Đấng Phục sinh (x. 1Cr
15,8). Trong các thư, ngài đã xác
nhận mình chính là Tông, ngài cũng nhiều lần làm phép lạ để củng
cố lời rao giảng của mình (x. Rm 15, 9; 2Cr 12, 2).[33]
Thánh Phaolô có những tâm tình yêu mến Đức Kitô, đến nỗi cuộc sống
của ngài là hoàn toàn sống cho Đức Kitô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống
trong tôi” (Gl 2, 20); ngài yêu mến các tín hữu, và không muốn trở
thành gánh nặng cho họ (x. 2Tx 3, 8; Cv 18, 3). Ngài luôn nhiệt tâm trong
các hoạt động truyền giáo, mong ước có nhiều người nhận biết Chúa,
chính sự nhiệt tâm đã nung nấu tâm can, đến mức thánh nhân phải thốt
lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Cộng đoàn Giáo hội Sơ khai phát triển mạnh mẽ nhờ các
vị Tông đồ hăng say rao giảng Tin Mừng, nhất là đối với những người
nghèo và nô lệ, nhờ Tin Mừng và đời sống chứng tá của các ngài mà
những người nghèo, người nô lệ, nam hay nữ có được sự bình an vì họ
đều được bình đẳng trước mặt Chúa (x. Gl 3, 28). Nhưng cũng chính vì
Tin Mừng ấy mà các ngài đã phải chấp nhận nhiều nghịch cảnh, bị bắt
bớ và cuối cùng là hy sinh mạng sống để là chứng.
3. Giáo hội Sơ khai truyền giáo bằng việc hy sinh
Với sự nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, các tín hữu Sơ
khai luôn chịu nhiều khó khăn, nhất là sự thù ghét của những người
Dothái vốn thù ghét với Đức Giêsu. Họ không chấp nhận lời rao giảng
của các Tông đồ mà tìm cách bách hại các ngài. Sự nhiệt tâm truyền
giáo đã làm cho các Tông đồ phải chấp nhận những gông cùm thử thách
và phải đón nhận cả cái chết vì Tin Mừng.
Một gương mặt điển hình, và cũng là tấm gương cho các
tín hữu Sơ khai chính là Stêphanô. Trước mặt các thủ lãnh Dothái,
Stêphanô đã đưa ra bài diễn từ rất uyên bác để minh chứng Đức Giêsu
là Đấng Mêssia, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa với cha ông họ, nhưng lời
rao giảng của ông đã không được mọi người đón nhận, họ đã nhất
quyết xông vào và ném đá ông, khiến ông phải chết (x. Cv 7, 1-60). Và
ông đã trở thành vị tử tạo đầu tiên vào năm 36, chính Saolô đã tiếp
tay trong vụ xử tử này (x. Cv 8, 1).[34]
Sau cái chết của Stêphanô, những người Do thái tiếp tục bách hại
Giáo hội Chúa Kitô.
Gương mặt đáng sợ nhất trong thời đó lại là Saolô, ông là
người biệt phái nhiệt thành với truyền thống Dothái giáo, ông không
chấp nhận một tôn giáo mới trên lãnh thổ Dothái, và nhất là những
người gốc Dothái theo Kitô giáo thì ông lại càng không chấp nhận, nên
ông đã tìm mọi cách để triệt hạ Giáo hội, ông đến từng nhà lôi cả
đàn bà, đàn ông đi tống ngục vì “tội” theo Kitô giáo. Không chỉ những
người gần nhà, ông còn đến gặp thượng tế để xin thư giới thệu cho
ông đi tới Đamas để bắt các Kitô hữu giải
về Giêrusalem, và chính trên con đường này, Đức Giêsu đã hiện ra kêu
gọi ông, và ông đã trở thành chứng nhận cho Ngài. (x. Cv 3, 8; 9,
1-19). Sự bắt bớ các Kitô hữu Sơ khai, đã làm cho họ tản mác khắp
nơi. Tuy vậy, các tín hữu Sơ khai không hề nao núng, đi tới đâu họ lại
tiếp tục rao giảng Tin Mừng tại đó, nhờ vậy mà con số tín hữu mỗi
ngày một gia tăng.
Và “Thiên
Chúa đã vẽ đường thẳng trên những nét cong của con
người”. Từ
một người bắt đạo, sau khi được Đức Giêsu kêu gọi làm chứng nhân cho
Ngài trên đường Đamas, Phaolô đã hăng say, can trường đi gieo hạt gống
Tin Mừng tại nhiểu thành phố ở Tiểu Á và Hylạp qua ba cuộc “hành
trình” cam go vào những năm (46-49; 50-53; 54-58). Quả thực, trong những
năm đầu của hành trình truyền giáo, các Tông đồ đã gặp đủ thứ trở
ngại, nhưng trở ngại đầu tiên là những người Kitô hữu gốc Dothái; họ
còn gắn bó với phép cắt bì, và bắt buộc các Kitô hữu gốc dân
ngoại phải giữ luật cắt bì, họ chỉ trích Phêrô đã vào nhà của
những người dân ngoại và ăn uống với
họ (Cv 11, 2-3). Và vấn đề chỉ được giải quyết ở Công Đồng
Giêrusalem năm 49. Mặt khác, các Tông đồ còn phải chịu nhiều khó khăn
bởi các tư tế và nhóm Xa Đốc, họ ghen tức vì những ảnh hưởng của
các Tông đồ trên dân chúng, với những nghi kị tôn giáo, họ bắt hai
Tông đồ Phêrô và Gioan giải ra trước tòa hội đồng để ngăm đe và sau
đó thả hai ông ra (x. Cv 4, 2-23).
Lần khác, các Tông đồ lại bị các quan coi đền thờ bắt
theo lệnh của các thầy cả thượng tế (x. Cv 5, 18, 26), nhưng sau đó
các ông cũng được tha, điều đó cho thấy mối căm ghét của các thầy tư
tế và phía Xa đốc đối với các Kitô hữu Sơ khai thật là mãnh liệt, và trong cuộc họp thứ hai của
thượng hội đồng đã cho thấy mối bất bình của phái Pharisiêu và phái
Xa đốc.[35]
Và ông Gamaliel đã biện hộ cho các Tông đồ, ông nói: cứ để mặc những
người này, cứ cho họ về, vì nếu là ý định hay công việc của người
phàm, tất sẽ bị phá hủy; còn nếu là công việc của Thiên Chúa, thì
không thể phá hủy được, và họ đã tán thành ý kiến của ông. Họ đánh đòn các Tông
đồ rồi thả ra, còn các Tông đồ thì vui mừng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng
đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu và sau đó họ lại tiếp tục loan báo Tin Mừng
(x. Cv 5, 38-42).
Có thể nói, sự chống đối và bách hại là chuyện
không thể tránh né với các Tông đồ, vì họ là môn sinh của Đức Kitô, mà Đức
Giêsu đã từng nói: “Trò không hơn Thầy, tớ
không hơn chủ” (Mt 10, 24). Vậy nếu Đức Giêsu là Thầy mà họ đã bắt bớ, thì
họ cũng sẽ bắt bớ môn đệ là chuyện không tránh khỏi. Hơn nữa chính Đức Giêsu
cũng đã từng căn dặn các Tông đồ rằng: “Hãy
coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường của họ. Và anh em sẽ
bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân
ngoại được biết” (Mt 10, 17-18). Vì thế khi bị tra khảo về việc rao giảng
Tin Mừng, thánh Phêrô đã nhất quyết với Tin Mừng mà mình đã lãnh nhận khi nói
với người Dothái: “Phải vâng lời Thiên
Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5, 30). Sứ điệp mà các ông rao giảng là:
Đức Giêsu đã bị các ông giết chết bằng cách treo Ngài lên thập giá, nhưng Thiên
Chúa đã cho Người chỗi dậy, đặt Ngài làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ để đem lại ơn
sám hối và tha tội cho dân Israel (x. Cv 5, 31).
Khi nói đến sự bách hại các tín hữu Sơ khai, chúng ta không thể
không nhớ tới vụ hỏa hoạn xảy ra vào rạng ngày 18 tháng 7 năm 64. Lý do đám
cháy là vì Nero muốn thiêu hủy tất cả khu phố cũ của Rôma để xây dựng một đế
đô mới, và khi đám cháy đang bùng phát dữ dội, vì sợ dư luận, ông đã đổ tội đốt
thành cho các Kitô hữu. Vì thế, người Kitô hữu đã bị lùng bắt và giết một cách
không thương tiếc để làm thỏa cơn giận của dân chúng. Trong khi đánh lừa được
dư luận và dân chúng, Nero cũng bày ra nhiều trò hung dữ để tra tấn, hỏa thiêu,
chém đầu, đóng đinh, làm mồi cho thú dữ cắn
xé và ăn thịt. Và một thú vui khủng khiếp mà Nero bày ra là tẩm dầu vào các tín
hữu làm đuốc đốt cho Nero chạy xe hoặc ăn uống ban đêm[36]. Vào thời
đó, ai cũng có quyền tố cáo các Kitô hữu trước nhà cầm quyền Rôma. Bởi vì trước
pháp luật, người Kitô hữu không có quyền sinh sống và hoạt động trong đế quốc
Rôma. Do đó, có tới hàng triệu tín hữu bi giết hại.[37]
Nhìn chung, cộng đoàn Giáo hội Sơ khai luôn nhiệt thành với sứ mệnh
được Đức Giêsu trao phó, và họ không ngần ngại đem Tin Mừng đến cho mọi nơi, dù
phải chịu bắt bớ, gươm giáo và chấp nhận cái chết để làm chứng cho Tin Mừng.
Chính Đức tin dũng cảm của các tín hữu chịu bách hại và chết vì đạo đã gây kinh
ngạc cho nhiều người, và họ muốn tìm hiểu những động lực nào đã thúc đẩy các
Kitô đón nhận đau khổ một cách thanh thản như thế.[38]
KẾT
LUẬN
Nhìn vào Giáo hội Sơ khai, chúng ta khám phá ra nơi đó sức sống vô
biên, lòng nhiệt thành của các Tông đồ và những người đã dấn thân trong bước
chân đầu tiên của hành trình truyền giáo. Quả thực, đây là những con người luôn
nhiệt thành với sứ vụ mà Đức Giêsu đã trao phó. Vì họ là những người đã từng sống
và cảm nghiệm về Đức Giêsu, được Ngài dẫn dắt và họ đã khám phá ra chính Ngài
là vị Thừa Sai của Chúa Cha, Ngài đến trần gian để cứu độ con người, và ước
mong của Ngài là làm sao cho mọi người được cứu độ.
Đức Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian, Ngài mạc khải cho con
người biết về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua cái chết và Phục
sinh, Ngài đã giao hòa con người với Thiên Chúa, phục hồi bản tính con người sa
ngã, cho họ được tham dự vào bản tính của Ngài. Ơn cứu độ của Ngài mang tính phổ
quát, là Tin Mừng cho tất cả loài người. Và để tiếp tục chương trình cứu độ mà
Ngài đã thực hiện, Ngài đã kêu gọi một số người để quy tụ và huấn luyện rồi sai
họ đi truyền giáo.
Cộng đoàn Giáo hội Sơ khai đã thực hiện lời mời gọi của Đức Giêsu
một cách triệt để bằng những cách thức khác nhau như: sự hiệp thông cầu nguyện,
cùng nhau bẻ bánh và chia sẻ của cải cho nhau. Đó là những cách thực mà họ đã bộc
lộ cho nhân loại thấy Thiên Chúa thực sự hiện diện giữa cộng đoàn, nhờ ơn Chúa
Thánh Thần tác động, để nhờ đó nhiều người nhận biết danh Thiên Chúa. Qua việc
sống hiệp thông với nhau, họ cho thấy Đức Giêsu thực sự hiện diện giữa cộng
đoàn, và chính Ngài đã dùng Thánh Thần mà thôi thúc họ đi rao giảng Tin Mừng.
Trong Giáo hội Sơ khai, các tín hữu thể hiện đời sống chứng tá vì
Tin Mừng, họ hăng say phục vụ Tin Mừng, họ nhiệt thành phục vụ và đã
phục vụ cho đến khi đổ máu đào để làm chứng cho chân lý. Đời sống
chứng tá của cộng đoàn Giáo hội Sơ khai là một mẫu gương sống động
cho Giáo hội tới ngày nay, đó là một Giáo hội lữ hành. Một Giáo
hội Công giáo, thánh thiện và Tông truyền, nhưng vẫn còn có những
phần tử tội lỗi, nên Giáo hội vẫn luôn cần biết thanh tẩy và nhìn
lại cách sống của mình. Cũng như các Tông đồ đã từng được Đức Giêsu
kêu gọi, huấn luyện nên những chứng nhân trung thành, nhưng các ngài
vẫn tưởng mình sẽ bám chấp lấy những chức vụ sau khi Chúa khôi phục
nước Israel, mong làm người lớn nhất trong Nước Trời (x. Mt 18, 1).
Bài học học mà Đức Giêsu thực hiện trong bữa Tiệc Ly cho
thấy ý nghĩa sống động của đời sống chứng tá. Lời nhắc của Đức
Giêsu sau khi rửa chân cho các môn đệ làm cho các ông không thể quên
được tinh thần phục vụ của người môn đệ Đức Kitô: “Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em
cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Sứ vụ Đức Giêsu trao ban
cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,
15) cũng luôn là lời mời gọi mỗi Kitô hữu trong mọi thời, đặc biệt
là lời mời gọi đối với người tu sĩ
ngày nay. Mỗi Kitô hữu nói chung, và mỗi tu sĩ nói riêng, hãy
nhiệt tâm trong việc truyền giáo; hãy biết thao thức với những thao
thức của Chúa Giêsu và Giáo hội của Ngài, để cho Tin Mừng Phục sinh
ngày một lan rộng khắp nơi; để cho tiếng gọi “hãy đi” của Đức Giêsu
được hiện diện trong mọi hoàn cảnh và thách đố luôn mới mẻ nơi sứ
vụ truyền giáo của Giáo hội; tất cả chúng ta được mời gọi “xuất
hành”; tất cả chúng ta đều được mời gọi ra khỏi sự riêng tư để đến
nơi cần ánh sáng của Tin Mừng.[39]
[1] Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 2.
[2] Xc. ĐGH. Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, số 5.
[3] Xc. ĐGH. Gioan Phaolô II, Tông huấn Ecclêsia in Asia, số 11,
tr.40.
[4] Xc. Nguyễn Thái Hợp, Bước Theo Đức Kitô, tr. 45.
[5] Xc. Felipe Gomez, Kitô học (Antôn & Đuốc sáng,
Manila, 2002), tr. 186.
[6] Xc. Felipe Gomez, Truyền giáo học (Antôn & Đuốc
sáng, Manila, 2003), tr. 18.
[7] Xc. Felipe Gomez, Truyền giáo học, tr. 283.
[8] Xc. ĐGH. Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, số 75.
[9] Xc. Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 2.
[10] Xc. Felipe Gomez, Truyền giáo học, tr. 35.
[11] Xc. ĐGH. Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, số 16.
[12] Xc. Jean Daníelou, Nouvelle histoire de L’eglise, Phạm Phúc Khánh & tgk dịch, Bộ tân lịch sử Giáo hội, Cuốn 1A,
tr. 54-55.
[13] X. Felipe, Giáo hội học, tr. 263.
[14] Xc. Jean Daníelou, Nouvelle histoire de L’eglise, Phạm Phúc Khánh & tgk dịch, Bộ tân lịch sử Giáo hội, cuốn 1 A,
tr. 65.
[15] Xc. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh (Roma, 2002), tập 2, tr. 33.
[16] Xc. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, (Rôma, 2002), tập 2, tr.33.
[17] Xc. Bùi Đức Sinh, Lịch sử Giáo hội, (California USA, 2009), tr. 59.
[18] Xc. Phan Tấn Thành, Về Nguồn (Rôma, 1997), tập 1, tr. 140.
[19] Xc. Sđd., tr. 230.
[20] Xc. Phan Tấn Thành, Về Nguồn, (Rôma 1997), tập 1, tr. 142-143.
[21] Xc. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh (Rôma 2002), tập 2, tr. 33.
[22] Xc. Felipe Gomez, Giáo hội (Antôn & Đuốc sáng, HL 2002), tr. 106.
[23] Xc. Sđd., tr. 124.
[24] Xc. Chữ “Bánh”, Từ điển Thần học Thánh Kinh (Phân khoa Thần học Giáo Hoàng
Học Viện Thánh Piô X, Đà Lạt- Việt Nam), tập 1, tr. 122.
[25] Xc. Jean Daníelou, Nouvelle histoire de L’eglise, Phạm Phúc Khánh & tgk dịch, Bộ tân lịch sử Giáo hội, Cuốn 1A,
tr. 69.
[26] Xc. Nguyền Thái Hợp, Bước Theo Đức Kitô, tr. 99.
[27] Xc. Ibid., tr. 95.
[28] Đào Trung Hiệu, Cuộc Lữ Hành Đức Tin, tập 1, tr. 21.
[29] Xc. ĐGH. Gioan Phaolô II, Thông Điệp Redemptoris Missio, số 15.
[30] Xc. Jean Daníelou, Nouvelle histoire de L’eglise, Phạm Phúc Khánh & tgk dịch, Bộ tân lịch sử Giáo hội, Cuốn 1 A,
tr. 78-79.
[31] Xc.Ibid., tr. 55.
[32] Xc. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh (Rôma, 2002), tập 2, tr. 35.
[33] Xc. Felipe Gomez, Giáo hội, tr. 266-267.
[33] Xc. Công Đồng Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 7; Hiến chế Lumen Gentium, số 17.
[34] Xc. Paul Christophê, Giữa lòng nhân loại, Lịch sử Giáo hội từ
khai nguyên đến thế kỷ XV, (Droguet & Ardant, 2001), tập 1, tr 15.
[35] Xc. Jean Daníelou, Nouvelle histoire de L’eglise, Phạm Phúc Khánh & tgk dịch, Bộ Tân Lịch sử Giáo hội, Cuốn 1 A,
tr. 57-58.
[36] Xc. Bùi Đức Sinh, Lịch sử Giáo hội Công giáo tr. 70-71.
[37] Nguyễn Tri Ân, Thánh Phaolô trên đường tuẫn giáo (Chân
lý, 1959), tr. 192.
[38] Phan Tấn Thành, Về Nguồn, (Chân Lý, 1998), tập 2, tr. 79.
[39] Xc. ĐGH. Phancicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 20.http://baochiaselts.blogspot.com/2016/09/so-80-oi-song-thanh-hien-su-mang-tong-o.html
Xưởng gia công in ấn
Trả lờiXóaIn tem decan sản phẩm
In vỏ hộp tráng kim
In thùng carton tại hà nội
Xưởng nhận gia công sau in
Đăng nhận xét