Mục Tử Theo Tông Huấn Evangelii Gaudium

Mục tử
theo Tông huấn Evangelii Gaudium
Trong mục vụ truyền giáo,
vai trò của người mục tử rất quan trọng.
Vì vậy, Tông huấn đã phác họa chân dung người mục tử:
tiên phong, tham gia, đồng hành, và sinh hoa trái…
Phaolô Nguyễn Hải Đăng, OP.



Tông huấn Evangelii Gaudium - Niềm vui Tin Mừng của ĐGH Phanxicô là những định hướng cần thiết về phương diện mục vụ truyền giáo mà Giáo Hội cần lưu ý. Tông huấn khẳng định hoạt động truyền giáo chính là thế giới của mọi công trình Giáo Hội (EG, 15) theo gương mẫu của Đức Giêsu Kitô, nhà truyền giáo và là Mục tử đầu tiên, Đấng vẫn luôn mời gọi chúng ta tiếp bước sứ mạng cứu độ của Người (EG, 12).
Dù có những khó khăn hiện tại trong việc truyền giảng Tin Mừng và thách đố hội nhập của từng bối cảnh văn hóa nhưng Giáo Hội vẫn luôn xác định “nhiệm vụ truyền giáo là nhiệm vụ đầu tiên của Giáo Hội và phải đứng hàng đầu” và Tông huấn không ngừng thúc bách “chúng ta không thể ngồi bình thản chờ đợi cách thụ động nơi các nhà thờ của mình nhưng phải vượt qua một mục vụ chỉ đơn thuần là duy trì đến một mục vụ truyền giáo thật sự.”[1] Vậy Tông huấn đã phác họa một chương trình mục vụ truyền giáo trong bối cảnh hiện nay thế nào? Đâu là vai trò của người mục tử và của mọi thành phần Giáo Hội trong thực hành mục vụ truyền giáo hiện nay?
I.  NỀN TẢNG TRUYỀN GIÁO
THEO TÔNG HUẤN EVANGELII GAUDIUM
1.   Truyền giáo: bản chất của người Kitô hữu
Tông huấn khẳng định truyền giáo chính là bản chất của người Kitô hữu dựa trên lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 18:19-20a) (EG, 19).
Thật vậy, Giáo Hội lữ hành chính là Giáo Hội “đi ra”: đi ra ngoài khu vực quen thuộc của mình và can đảm đi đến tất cả những vùng ngoại vi, là những người cần ánh sáng của Tin Mừng (20). Và niềm vui của Giáo Hội chính là niềm vui truyền giáo dành cho tất cả mọi người, không loại trừ một ai: “Anh em đừng sợ. Này tôi mang lại cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho tất cả mọi người” (Lc 2:10) (EG, 23).
2. Đức Giêsu:
     nguồn mạch của mọi hoạt động truyền giáo
Chỉ qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, cuộc gặp gỡ với nguồn mạch tình yêu của Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định (EG, 7) mới có thể giải thoát chúng ta khỏi tình trạng cô lập, chỉ nghĩ về mình và tìm thấy nguồn gốc của những hoạt động truyền giáo. Vì một khi nhận được tình yêu này, là điều đem lại ý nghĩa cuộc đời, làm sao chúng ta có thể ngồi yên mà không truyền thông cho người khác? (EG, 8).
Chính qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, chúng ta sẽ được “biến đổi” và được mời gọi “ra đi” “Tình yêu Ðức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9:16). Tông huấn cho thấy điều tốt lành luôn luôn có khuynh hướng lan truyền. Mỗi kinh nghiệm đích thực về chân lý và sự thiện mỹ là tự nó tìm cách lan rộng (EG, 9).
3. Thách đố thời đại
           đối với sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội
Có thể nói sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội đang phải đối diện với những thách đố của thế giới hiện đại, đó là: nền kinh tế loại trừ và chênh lệch xã hội, mạnh được yếu thua, hậu quả là một bộ phận con người bị loại trừ (EG, 53); đó là thái độ vô tâm, không có khả năng trắc ẩn trước đau khổ của tha nhân (EG, 54); đó là thái độ tôn thờ tiền bạc và coi tiền bạc như một công cụ cai trị (EG, 57-58).
Ngoài ra, Giáo Hội cũng đang phải đối diện với những thách đố nghiêm trọng về văn hóa và đức tin do xu thế toàn cầu hóa và chủ nghĩa cá nhân. Dường như có sự thất bại về truyền thụ đức tin Kitô giáo tại lục địa Âu châu, cũng như tình trạng gãy đổ căn tính truyền thống của gia đình. Những thách đố này đòi hỏi một chương trình mục vụ truyền giáo thích hợp, có khả năng hàn gắn và chữa lành những đổ vỡ từ vết thương xã hội. Những thách đố đó đòi hỏi sự canh tân và hội nhập của mọi thành phần Giáo Hội: người mục tử, cộng đoàn Giáo Hội địa phương, người giáo dân và nhà truyền giáo trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng hôm nay.
II.  MỤC  TỬ THEO TÔNG HUẤN EVANGELII GAUDIUM
1.   Vai trò mục tử
Đi bước trước mà không sợ hãi: Trong mục vụ truyền giáo, vai trò của người mục tử rất quan trọng. Vì vậy, Tông huấn đã phác họa chân dung người mục tử: tiên phong, tham gia, đồng hành, và sinh hoa trái… Người mục tử phải là người đi bước trước mà không sợ hãi, đi ra gặp gỡ, tìm kiếm những người xa cách, những người bị ruồng bỏ để ban tặng sự thương xót, là kết quả kinh nghiệm lòng thương xót Chúa (EG, 24). Hơn nữa, người mục tử phải tham gia vào cuộc sống hằng ngày của những người khác, chạm đến thân xác đau khổ của Ðức Kitô trong những người khác, phải có “mùi của con chiên”…phải kiên nhẫn chăm sóc các hạt giống Tin Mừng, không mất bình an vì những cỏ lùng và luôn biết ăn mừng trong mỗi bước tiến trong việc truyền giáo… (EG, 24).
Không ngừng gặp gỡ Thiên Chúa: Người mục tử phải không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa  mỗi ngày để đón nhận nguồn sống, để học biết tha thứ, để sống niềm hy vọng. Chúng ta đừng bao giờ chạy trốn Thiên Chúa, đừng bao giờ bỏ cuộc vì Thiên Chúa luôn đem lại cho chúng ta niềm vui. Tin Mừng luôn mời gọi chúng ta đến sự vui mừng. Sứ điệp của Người là một nguồn vui (Ga 15,11). Thật vậy, người mục tử phải là người loan báo sự tha thứ và niềm vui Tin Mừng (EG, 3, 5).
Lời giảng đi đôi với việc làm: Tông huấn nhắc nhở rằng mọi giáo huấn phải được phản ảnh bằng thái độ của người rao giảng Tin Mừng, đó là thái độ gần gũi, yêu thương và làm nhân chứng.Lời giảng của người mục tử phải phản thương xót của Thiên Chúa hơn là những giới luật, luân lý nô lệ hóa con người (EG, 43). Thật vậy, trong mục vụ truyền giáo, người mục tử cần lưu ý rằng tòa giải tội không phải là phòng tra tấn nhưng là nơi dành cho lòng thương xót của Chúa. Mọi người đều phải đến với sự an ủi và khích lệ của tình yêu Thiên Chúa, là điều vượt trên và vượt ra ngoài những lỗi lầm và sa ngã của họ (EG, 44).
2.   Mục tử với Lời Chúa
Bài giảng chính là cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Dân Người: Bài giảng cũng là một yếu tố cần lưu tâm trong mục vụ truyền giáo. Bài giảng là tiêu chuẩn để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của một mục tử với dân mình (EG, 135). Bài giảng không phải là một hình thức giải trí hay một bài dạy giáo lý, bài diễn văn hoặc thuyết trình nhưng là một cuộc đối thoại trong bối cảnh cử hành phụng vụ. Do đó, phải ngắn gọn, không được chiếm quá nhiều không gian, để Chúa có thể tỏa sáng nhiều hơn nhà thuyết giảng và phải hướng người nghe đến sự hiệp thông với Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể (EG, 138).
Bài giảng phải biểu lộ niềm vui của Tin Mừng: Vì bài giảng là một cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và Dân Người nên nhà giảng thuyết cần thể hiện sự gần gũi trong cung cách, ấm áp trong giọng nói, dịu dàng trong cách thể hiện và biểu lộ niềm vui qua những cử chỉ hầu người nghe cảm nhận được niềm vui Tin Mừng (EG, 140).
Trong bài giảng cần lưu tâm đến yếu tố thiện và mỹ vì một bài giảng thuần túy về luân lý hoặc về tín lý, hay một bài giảng trở thành một bài thuyêt trình về chú giải Thánh Kinh, sẽ làm giảm bớt sự truyền thông giữa các tâm hồn (EG, 142).
Soạn bài giảng cần thời gian để học hỏi, cầu nguyện, suy niệm và sáng tạo mục vụ: Đó là một yêu cầu khẩn thiết trong hoạt động mục vụ của mục tử. Lòng tín thác vào Chúa Thánh Thần, Ðấng hoạt động trong bài giảng không chỉ đơn thuần thụ động, mà tích cực và và sáng tạo. Một mục tử không chuẩn bị thì không “thuộc về tinh thần”; mục tử ấy bất hảo và vô trách nhiệm đối với những hồng ân mà mình đã nhận được (EG, 145).
Những lưu ý mục vụ: a. Tiên quyết, bản văn Kinh Thánh phải là nền tảng của việc giảng dạy (EG, 146); b. Tiếp cận Lời Chúa bằng một thái độ suy phục và cầu nguyện để Lời Chúa thấm sau và biến đổi nhà giảng thuyết (EG, 149); c. Hiểu đúng ý nghĩa Lời Chúa (EG, 147); d. Cá nhân hóa Lời Chúa, nghĩa là để bản thân được đánh động bởi Lời Chúa và làm cho Lời ấy nhập thể trong cuộc sống cụ thể của mình (EG, 150);e. Nhà thuyết giảng cũng phải lắng nghe dân chúng, để tìm ra những gì mà các tín hữu cần nghe (EG, 154); f. Bài giảng cần đơn giản, tích cực, rõ ràng, trực tiếp, phù hợp (EG, 158), giàu hình ảnh minh họa (EG, 157), công bố niềm hy vọng (EG, 159).
3. Mục tử và mục vụ truyền giáo
    trong cộng đoàn Giáo xứ
Hội Thánh sống động” và là “cộng đoàn truyền giáo”: Giáo xứ chính là “Hội thánh sống động”, là sự hiện diện của Hội Thánh trong một lãnh thổ, để lắng nghe Lời Chúa, để đối thoại, để rao giảng, để làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành. Xa hơn nữa, giáo xứ phải là nơi khuyến và đào tạo các thành viên của mình thành những nhà truyền giáo, là chỗ tạm trú của những người đang khát, là trung tâm nhà truyền giáo liên tục đi ra… (EG, 28).
Giáo xứ là cộng đoàn chữa lành: Giáo xứ là người mẹ với trái tim rộng mở để bất cứ ai muốn tìm đến không gặp phải sự lạnh lùng của một cánh cửa đóng kín (EG, 47). Đặc biệt, cánh cửa bí tích, nhất là bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, phải luôn được rộng mở cho tất cả mọi người. Để giáo xứ trở thành một “cộng đoàn truyền giáo”, Tông huấn mạnh mẽ nhắc nhở :
Chúng ta thường hành xử như những người ban phát ân sủng chứ không như những người giúp người khác dễ dàng lãnh nhận ân sủng. Nhưng Hội thánh không phải là một hải quan, mà là ngôi nhà của Chúa Cha, ở đó có chỗ cho tất cả mọi người, với tất cả những khó khăn trong cuộc sống của họ (EG, 47).
Mở cửa và ra đi” đến với mọi người, nhất là người nghèo: Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo nên Giáo Hội được mời gọi hãy ra điđể cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Ðức Giêsu Kitô không loại trừ một ai: “Tôi muốn có một Giáo Hội bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Giáo Hội bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám vứu vào sự an toàn riêng của mình” (EG, 49). Nhưng Giáo Hội cũng cho thấy đối tượng ưu tiên của việc loan báo Tin Mừng chính là “những người nghèo khổ và tật nguyền, những người thường bị khinh miệt và lãng quên”. Hôm nay và mãi mãi, “người nghèo là những người nhận được đặc quyền của Tin Mừng” (EG, 48).
4. Mục tử và giáo dân trong mục vụ truyền giáo
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng: trước những thách đố thời đại: việc buôn bán ma túy và buôn bán người, lạm dụng, bóc lột trẻ em, bỏ rơi người già cả, bệnh tật, tham nhũng và tội phạm… đời sống chứng tá của người tín hữu chính là nền tảng cho việc khôi phục phẩm giá của đời sống con người trong những hoàn cảnh này (EG, 75). Tông huấn mời gọi người tín hữu sống trọn vẹn những gì là con người và tự giới thiêu mình vào trung tâm của những thách đố như những nắm men nhân chứng, trong bất cứ nền văn hóa và hòa cảnh nào, làm cho chúng ta thành những Kitô hữu tốt hơn và sinh hoa kết quả dồi dào hơn (EG, 75).
Cổ võ sự cộng tác mục vụ của người giáo dân: Trong hoạt động mục vụ, Giáo Hội phải giúp người tín hữu ý thức về căn tính và sứ vụ của mình trong Giáo Hội, đặc biệt trong các hoạt động bác ái, dạy giáo lý, cử hành đức tin. Bối cảnh hiện nay càng thúc bách Giáo Hội cổ võ sự cộng tác mục vụ truyền giáo của người giáo dân trong các lĩnh vực xã hội, chính trị và kinh tế (EG, 102).
Nhìn nhận vai trò của người nữ, giới trẻ và những người già trong Giáo Hội: Tông huấn đề cao sự cộng tác của người phụ nữ hiện nay trong hoạt động mục vụ, truyền giáo của Giáo Hội, ngay cả trong lĩnh vực suy tư thần học (EG, 103). Đồng thời nhắc nhở người mục tử cần quan tâm mục vụ nhiều hơn nữa đối với giới trẻ và những người gia, những người đánh thức niềm hy vọng và mở lòng Giáo Hội hướng về tương lai (EG, 108).
Học hỏi Kinh Thánh cần được mở ra cho mọi tín hữu: mục vụ truyền giáo đòi hỏi chúng ta phải làm quen với Lời Chúa, và điều này đòi buộc các giáo phận, các giáo xứ và các nhóm Công Giáo đề ra một chương trình học hỏi Thánh Kinh nghiêm túc và kiên trì, cũng như thúc đẩy việc đọc Thánh Kinh trong cầu nguyện của cá nhân và cộng đồng (EG, 175).
5.   Mục tử chính là nhà truyền giáo :
người loan báo niềm vui và hy vọng
Thách đố của nhà truyền giáo hôm nay: đó là sự thiếu nhiệt tâm truyền giáo do mối bận tâm quá đáng về tự do cá nhân (EG, 78), do mặc cảm che dấu căn tính và những xác tín Kitô giáo (EG, 79), do tham vọng tìm kiếm sự an toàn của tiền bạc, quyền lực và vinh quang con người thay vì dâng hiến đời mình cho tha nhân trong việc truyền giáo (EG, 80).
Người loan báo niềm vui và và hy vọng: trước những thách đố đó, Tông huấn nhấn mạnh “Niềm vui của Tin Mừng là điều không ai và không gì có thể tước đoạt khỏi tay chúng ta (Ga 16, 22). Chúng ta đừng bao giờ để cho mình bị cướp mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng” (EG, 83-84). Vì vậy, nhà truyền giáo của thế giới hôm nay phải là người loan báo niềm vui và hy vọng trước “gam màu tối” của thế giới, xã hội và con người hôm nay. Nhà truyền giáo phải là người có khả năng đáp ứng đầy đủ cho những ai đang khao khát Thiên Chúa, có khả năng chữa lành, giải thoát, đem lại sự sống và bình an (EG, 89).
Chọn lựa phục vụ người nghèo: Tông huấn khẳng định: “Vẻ đẹp của Tin Mừng có một dấu chỉ mà chúng ta không bao giờ được thiếu: là chọn thương yêu những người bé mọn, những người bị xã hội ruồng bỏ và loại trừ” (EG, 193). Đức Giêsu được sinh ra trong cảnh nghèo hèn, lớn lên trong đời sống bình dị. Khi bắt đầu sứ vụ công khai, đám đông theo Người là những người bệnh tật, nghèo hèn, bị loại trừ… và sứ vụ của Người chính là: “Thánh Thần Chúa ngự trên Tôi, vì Chúa đã xức dầu cho Tôi và sai Tôi đi để mang Tin Mừng đến cho những người nghèo” (Lc 4:18).
Tông huấn cho thấy sứ vụ trọng yếu của một nhà truyền giáo hôm nay chính là phục vụ người nghèo.
Không ai được nghĩ rằng mình được miễn trừ nhiệm vụ quan tâm đến người nghèo và công bằng xã hội. Việc hoán cải tinh thần, cường độ của tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, lòng nhiệt thành với công lý và hòa bình, ý nghĩa Tin Mừng của người nghèo và sự nghèo đói là điều đòi buộc tất cả mọi người (EG, 201).
Người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần: nghĩa là những nhà truyền giáo vừa cầu nguyện vừa làm việc. Đức Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được Thiên Chúa biến đổi qua đời sống cầu nguyện.Không có cầu nguyện, mọi hoạt động truyền giáo có nguy cơ trở thành trống rỗng và cuối cùng lời rao giảng của nhà truyền giáo cũng trở nên không có hồn (EG, 259, 262).
Nhà truyền giáo là một nhà chiêm niệm: Một nhà truyền giáo thực sự, là người không bao giờ ngừng là một môn đệ, biết rằng Đức Giêsu đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Gặp gỡ Đức Giêsu phải là trung tâm của mọi hoạt động truyền giáo. Nếu nhà truyền giáo không thật sự là một nhà chiêm niệm, họ sẽ sớm mất nhiệt tình, thiếu nghị lực và lòng say mê và không còn chắc chắn về điều mình thông truyền. Một khi chúng ta không được thuyết phục, không có nhiệt tình, không đáng tin cậy, không được yêu, thì làm sao chúng ta làm chứng về niềm vui Tin Mừng cho người khác được.
Nếu chúng ta muốn lớn lên trong đời sống tinh thần, chúng ta không thể ngưng là những nhà truyền giáo. Dấn thân truyền giáo mở ra cho chúng ta những chân trời tâm linh, giúp chúng ta nhận ra hoạt động của Chúa Thánh Thần, đưa chúng ta ra khỏi những mô thức tâm linh hạn hẹp… (EG, 266).
Những lời nhắc nhở của Tông huấn như một lời tạm kết. Dù có những thách đố nghiêm trọng về xã hội, văn hóa và đức tin trong bối cảnh hiện nay, Giáo Hội vẫn luôn xác định “nhiệm vụ truyền giáo là nhiệm vụ đầu tiên của Giáo Hội và phải đứng hàng đầu” và vai trò truyền giáo là trách nhiệm của mọi thành phần trong Giáo Hội. Mục tử phải là người tiên phong trong việc truyền thông lòng thương xót của Thiên Chúa cho những ai chưa nhận biết Tin Mừng. Người giáo dân được mời gọi dấn thân truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng. Nhà truyền giáo được thúc đẩy loan báo niềm vui và hy vọng như một chứng từ đức tin cho thế giới, xã hội và con người hôm nay. Nhưng cuối cùng, mọi hoạt động mục vụ truyền giáo của chúng ta phải quy chiếu về Đức Giêsu như nguồn mạch và gương mẫu và biểu lộ một niềm tin mãnh liệt vào hoạt động của Chúa Thánh Thần. 



[1] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium, số 15.  

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn