Đồng hành thiêng liêng cá nhân,
vừa thuộc về trật tự đặc sủng vừa phải rèn luyện,
là một phần của việc đồng hành trong Giáo hội.
Thật vậy, tại những thời điểm nhất định trong cuộc đời chúng ta, khi những quyết định quan trọng được đề ra,
khi chúng ta trải qua những thời kỳ “đen tối”
hoặc khi chúng ta cảm thấy những đòi hỏi mới,
thì việc đồng hành rất hữu ích, thậm chí không thể thiếu.
vừa thuộc về trật tự đặc sủng vừa phải rèn luyện,
là một phần của việc đồng hành trong Giáo hội.
Thật vậy, tại những thời điểm nhất định trong cuộc đời chúng ta, khi những quyết định quan trọng được đề ra,
khi chúng ta trải qua những thời kỳ “đen tối”
hoặc khi chúng ta cảm thấy những đòi hỏi mới,
thì việc đồng hành rất hữu ích, thậm chí không thể thiếu.
Ts. Trần Công Thượng, OP.
Đồng hành trong cuộc sống
Trong cuộc sống, dù ít hay nhiều, việc đồng hành vẫn được thực hiện giữa hai
người. Đó là một thái độ liên đới giữa người với người. Một bên trình bày, một
bên chăm chú lắng nghe, hỗ trợ, tư vấn kín đáo. Do đó, hai người cam kết với
nhau: một người bày tỏ, người kia lắng nghe; một người mong đợi được nâng đỡ,
người kia chấp nhận trao tặng. Điều này được thực hiện trong một môi trường tin
tưởng và tôn trọng lẫn nhau.
Từ cấp độ đầu tiên
này, chúng ta nhận ra những dấu hiệu sẽ trở nên thiết yếu cho bất kỳ hình thức
đồng hành nào. Đồng hành bắt đầu khi có những cuộc gặp gỡ, để thiết lập mối
liên hệ giữa hai người. Tiếp theo là lắng nghe. Để biết cách hiện diện, để cảm
nhận những điều nên nói và những điều không nên, hãy đặt những câu hỏi “hữu
ích” và can thiệp để thúc đẩy tự do. Cuối cùng, cần giữ khoảng cách “tình cảm”
với những gì được nói và thúc đẩy chất lượng của sự hiện diện.
Đồng hành được đức tin chiếu sáng
Ở cấp độ thứ hai, mối
liên hệ đồng hành được thiết lập trong đức tin, cách rõ ràng, trong niềm tin
tưởng vào ân sủng và hành động của Thiên Chúa. Vì thế, cần xác tín rằng: Chính
Thần Khí Thiên Chúa hoàn thành công việc của Người thông qua hoạt động của con
người. Người đồng hành không phải là người thay thế vai trò của Thánh Linh,
nhưng luôn tùy thuộc vào Thánh Linh là Đấng duy nhất có thể tạo ra hoa trái của
tự do và biến đổi. Trong cuộc gặp gỡ, chúng ta nói rõ ràng về việc cầu nguyện,
về phương tiện giúp thăng tiến cầu nguyện, về thái độ nội tâm khi cầu nguyện
(tôn thờ, dâng mình, tạ ơn, vv). Chúng ta chú tâm vào những điểm nào đó của Lời
Chúa, giúp hiện thực hóa Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Nhưng, bên cạnh việc
cầu nguyện, “sự phân định” được phát triển ngày càng phong phú: Đó là phân biệt
giữa các chuyển động nội tâm đến từ Thiên Chúa và những gì đối lập, giữa những
gì là thiêng liêng với những gì phá hủy đời sống thiêng liêng. Nhưng tóm lại,
đó là gì? Thưa, đó là giúp một người bước vào con đường thăng tiến tâm linh, để
họ làm sinh sôi nảy nở hồng ân Chúa ban, và gia tăng tình con thảo mà họ có từ
khi lãnh bí tích Rửa tội.
Đồng hành theo truyền thống khác nhau
Ở cấp độ thứ ba,
chúng ta có thể phân biệt trong Giáo hội vài cách thực hành đồng hành thiêng
liêng: Kể từ hình thức chia sẻ đời sống giữa một “cụ già lão luyện” nhiều kinh
nghiệm và một “người trẻ mới tập tu” bắt đầu tìm cách thăng tiến, cho đến các
hình thức khác nhau của đời sống đan viện, nơi ứng viên được mời chia sẻ cuộc
sống hàng ngày của một cộng đoàn, và trong ánh sáng này tìm thấy con đường
riêng của mình. Thánh Inhaxio đề ra cho việc đồng hành thiêng liêng một mục
tiêu rất rõ ràng: để giúp con người tự do phát triển trong đức tin và tình yêu
hoặc để giúp một người “tự quyết định mà không cảm thấy quyến luyến.”
Thuật ngữ “đồng hành” đến từ đâu?
Đồng hành với một
người nào đó, như từ nguyên chỉ ra, là đi với người ấy, trên cùng một con đường
và đi cùng nhau đến một nơi khác, một nơi mới lạ...
- Nguồn gốc nhân loại
học và văn hóa
Từ nhiều năm nay,
khoa học nhân văn đã nhắc nhở chúng ta những gì mà cha mẹ dần dần khám phá được
trong việc học biết tự do của con cái họ. Đứa trẻ muốn bước vào tuổi trưởng
thành, nó phải rời bỏ mối liên hệ “mật thiết” với bà mẹ để đi vào cuộc “di cư”,
bắt đầu từ tiếng khóc đầu đời và sẽ dẫn dắt nó đi xa hơn nữa. Và ở đó, người
cha can thiệp bằng cách đưa ra luật lệ, luật lệ nhắc nhở và giúp nó tiến lên,
bởi vì luật lệ khuyến khích nó mạnh dạn đi vào thế giới, trong cuộc phiêu lưu.
Trong văn hóa Hy Lạp, chúng ta có một hình tượng biểu tượng, đó là hình tượng
nhà sư phạm. Nhà sư phạm là người đi trên đường, dẫn đứa trẻ đến trường, chuyển
từ môi trường riêng tư của gia đình đến môi trường văn hóa và xã hội.
- Từ Công đồng
Vatican II
Công đồng Vatican II, với các Hiến chế,
cách nào đó, đã tiếp bước Chúa Phục Sinh, Đấng đã đến đồng hành với các môn đệ
để lắng nghe họ trước, sau đó dùng Kinh Thánh giải thích cho họ những gì đã xảy
ra, và để họ nhận ra Người. Thật vậy, công đồng Vatican II mời chúng ta lắng
nghe Lời Chúa (Dei Verbum), để tìm
thấy chính mình trong Giáo hội (Lumen
Gentium), trong nhiều chức năng và thừa tác vụ trên đường hướng tới Giêrusalem mới, liên đới với niềm
vui và hy vọng của con người (Gaudium et
Spes).
Chính trong bối cảnh này, chúng ta đã thấy
xuất hiện hai thành tựu quyết định cho sự đổi mới của một thực hành, đồng hành
với bệnh nhân vào lúc sắp lâm chung, và tĩnh tâm được hướng dẫn riêng.
- Đồng hành với bệnh
nhân lúc lâm chung
Thành ngữ này được
sinh ra trong các phái Tin Lành, liên quan tới việc lắng nghe và và đồng hành
với người bệnh vào cuối đời. Khi sắp từ giã cõi đời, đối với nhiều người, từ
“đồng hành” cho thấy một thái độ nào đó, bao gồm việc trợ giúp kín đáo, với
những lời cần giải mã, thường nói ra cách nghịch lý.
- Các cuộc tĩnh tâm
được đồng hành riêng
Trong lĩnh vực “trợ
giúp thiêng liêng” để tìm kiếm Thiên Chúa khi dự liệu cuộc sống của một người,
việc tĩnh tâm được hướng dẫn riêng cũng đóng một vai trò quyết định. Các khóa
tĩnh tâm có bài giảng dần dần bị xóa bỏ thay thế bằng các khóa tĩnh tâm riêng
với người đồng hành, nhờ đó, trở về với cách thực hành ban đầu. Đồng thời,
trong sự trợ giúp thiêng liêng ngoài các cuộc tĩnh tâm, thuật ngữ “đồng hành”
đã dần dần xuất hiện. Cha Joseph Doré, thuộc hội Xuân Bích, trong một hội nghị
có chủ đề “Những hiểu biết về linh hướng Công giáo”, sau khi nhắc lại những
giai đoạn lịch sử lớn về linh hướng, đã nhấn mạnh rằng, vào thế kỷ XVI, linh
hướng được tổ chức, chủ yếu nơi các tôn giáo. Và vào thế kỷ 17, linh hướng phổ
biến nơi các giáo dân. Trong phần thứ hai, khi suy tư về bản chất của linh
hướng, ngài đề cập đến các “cuộc tĩnh tâm” như là “mô hình” linh hướng. Thực
tế, khi nói về các điểm chính của phương pháp sư phạm nơi các “cuộc tĩnh tâm”,
chúng ta có thể nói tóm tắt: Tĩnh tâm là một kiểu gặp gỡ, nơi con người “được
tác động”, rồi phân định, và trao đổi lời, nhưng còn vọng lại một Lời khác, Lời
sáng tạo: Lời Thiên Chúa.
Người đồng hành là
người đi cùng và giúp một người khám phá ra con đường của chính họ trong Chúa
Thánh Thần. Chúng ta phải thêm rằng sự trợ giúp thiêng liêng này vừa thuộc về
đặc sủng vừa cần học biết.
- Sự tiến triển từ
thánh Phanxicô de Sales
Thế kỷ XVII chứng
kiến một sự đổi mới đáng kinh ngạc của đời sống tâm linh. Thánh Phanxicô de
Sales nói về sự cần thiết của một người dẫn dắt để “bước vào và tiến bộ trong
lòng yêu mến”. Ngài viết trong Chương IV lời dẫn nhập này: “Cậu thanh niên
Tobia được lệnh đi Ragès. Cậu nói: Con không biết đường đi. Cha cậu trả lời
‘Hãy đi đi và tìm một người nào đó dẫn dắt con’. Tôi cũng nói với chị như vậy,
chị Philothea thân mến: Chị muốn biết cách tiến tới lòng thành kính mến yêu?
Hãy tìm kiếm một người có thể hướng dẫn và dẫn dắt chị [...] Nhưng ai sẽ tìm
thấy người bạn này? Đức Khôn Ngoan trả lời: Những người kính sợ Thiên Chúa;
nghĩa là những người khiêm tốn, mong muốn mạnh mẽ trên hành trình tâm linh.
[...] Và ngài thêm: “Chị Têrêsa Avila nói rằng, để làm điều đó, bạn chọn một
người giữa hàng ngàn người, và tôi nói,
giữa vạn người, bởi vì thật khó để nói ai có khả năng thực hành chức vụ
này. Người đó phải đầy lòng bác ái, hiểu biết, thận trọng. Nếu thiếu một trong
ba phẩm chất ấy, sẽ có nguy hiểm xảy đến.” Tóm lại, thánh Phanxicô de Sales cho
chúng ta biết những điều thiết yếu. Một vài năm trước đó, thánh Têrêsa Avila
nói với chị em mình tham khảo những người có đời sống tâm linh, những người
hiểu biết hoặc các học giả, và chính chị đã đánh giá rất cao những ơn phân định
tâm linh nơi những người tư vấn tâm linh. Nhưng “ai là người xin được trợ giúp
thiêng liêng?” Ngày nay chúng ta sẽ nói: Rõ ràng, đó là người có phán đoán tốt
và khá vững về tâm lý, người nghe nhiều hơn nói, và đặc biệt là người có “cảm
thức tâm linh” đúng đắn, khôn ngoan, được soi sáng nhờ suy tư về nhiều con
đường mở ra trước đức tin. Ít là, người này được đào tạo để gặp gỡ và nắm được các yếu tố
“thần học tâm linh”. Cuối cùng, sẽ là khôn ngoan để đảm bảo rằng người này được
xem là phù hợp với người đã hoặc sẽ nhận trách nhiệm đồng hành.
Trong thế kỷ ánh
sáng, chúng ta biết có “nhà hướng dẫn lương tâm”. Chúng ta thấy hạn từ này
không thích hợp, nó có thể là dấu hiệu của một sự khiếm khuyết gây ra bởi người
được hướng dẫn và người hướng dẫn. Emmanuel Kant hài hước nhắc lại: “Thật dễ
dàng cho một đứa trẻ; nếu tôi có một cuốn sách thay cho lý trí, một người hướng
dẫn thay thế lương tâm, một bác sĩ quyết định chế độ ăn uống, thì tôi không
phải khổ công. Tôi chẳng cần suy nghĩ, miễn là tôi có thể trả tiền”. Cha Surin,
tác giả của cuốn Hướng dẫn tâm linh,
nói rằng điều này cũng có thể xuất phát từ người hướng dẫn. “Bạn gọi những người
hướng dẫn có tâm hồn hẹp hòi và gò bó là gì? Họ là những người xa rời
linh hồn, và đặt linh hồn trong một sự tự do thánh thiện, luôn có xu hướng thu
hẹp, bớt xén và hạn chế: vì họ không có tâm hồn vĩ đại và lành thánh, hoặc bởi
vì họ muốn dẫn mọi người đến một mức độ xác định về sự hy sinh và từ bỏ nào
đó.”
Điều chúng ta phải nhớ ở đây là tầm quan trọng
của lương tâm, mà vị trí bất khả xâm phạm được nhấn mạnh bởi làn gió mới của
Công đồng Vatican II. Thật vậy, Giáo hội đang phục vụ lương tâm và Lời Chúa.
William de Saint-Thierry, thời Trung Cổ, trong tác phẩm Thư vàng của mình, đã nói về ba “nhân vật chính” : Thiên Chúa,
lương tâm và cố vấn tâm linh.
Cuối cùng vào giữa thế kỷ XX, xuất hiện một
cuốn sách với tiêu đề biểu tượng: Linh
hướng hay đối thoại tâm linh của cha Jean Laplace. Sách này được xuất bản
khi Đức Phaolô VI viết Tông huấn Ecclésiam
suam. Một Giáo hội đối thoại với những anh em ly khai, với các tín đồ thuộc
các tôn giáo lớn và với mọi người thiện chí.
Một người đồng hành
thiêng liêng, cách nào đó, là người hướng dẫn hoặc dẫn dắt, như thánh Phanxicô
de Sales đã chỉ ra. Và hơn nữa, vào thời điểm khi các điểm nhấn mờ đi, việc tìm
kiếm các nhân chứng có thể khích lệ mình trở nên khẩn thiết hơn. Véronique Margron
sẽ nói về những người trưởng thành trong đức tin. Đó cũng là người phải lắng
nghe và xây dựng tự do. Thật vậy, vấn đề không phải là điều khiển lương tâm, mà
là đánh thức, chữa lành, giáo dục lương tâm, bởi vì con người là một sinh vật
chưa thành toàn. Tự do luôn có nguy cơ bị tấn công. Cuối cùng, với lối diễn đạt
“đối thoại tâm linh”, chúng ta được nhắc nhở về một chức năng thiết yếu khác
của việc đồng hành thiêng liêng: Đó là để người khác được sinh ra từ lời là
bước đầu tiên; và được sinh từ Lời Chúa là một bước khác.
Tóm lại, trong thời
đại quan trọng, thời đại sau Công đồng Vatican II, chúng ta thấy khoa học nhân
văn can thiệp vào cách tiếp cận nhân học của “mối liên hệ trợ giúp”. Và thực
tế, sự trợ giúp thiêng liêng đã được hưởng lợi từ đó. Bằng cách tập trung lắng
nghe người khác và các vấn đề tình cảm của họ, tâm lý học hiện đại làm rõ vai
trò và sự tương tác giữa con người. Nó giúp người ta hiểu biết hơn những gì
được sống và làm cho sự phân định tinh tế hơn. Nó cũng giúp định danh sát hơn
những gì xảy ra trong mối liên hệ này. Đồng thời, chúng ta được khơi lên những
tái khám phá khác của các bậc thầy tâm linh trong truyền thống tâm linh khác
nhau. Thầy tâm linh vừa là người được trao gửi gia sản và là người bảo đảm tính
liên tục về mặt tâm linh. Chỉ khi ngài biết tôn trọng tự do nội tâm của học
trò, ngài mới có thể thực sự trở thành người khởi xướng cho một đời sống khác.
Trong bối cảnh của chúng ta, hãy giữ lại điều gì là thiết
yếu?
- Trước hết, hãy trở lại với vấn đề nền tảng:
lắng nghe Thánh Linh
Để lắng nghe Thánh
Linh, đầu tiên là nhận ra Người trong những chuyển động nội tâm, nơi Thánh Linh
gặp gỡ mong ước của con người.
Emmanuel Mounier,
trong một lá thư, đã có thể nói với một người bạn: “Hiếm khi tôi có cảm giác
sống động như thế trong đời, là cảm giác gần như chắc chắn về mặt tâm linh trên
định hướng chính yếu của cuộc đời tôi: Lần đầu tiên trong một cuộc tĩnh tâm,
khi tôi cảm nhận được trật tự nội tâm khi ngừng uống thuốc và ngừng nghiên cứu
triết học. Lần thứ hai trong cuộc hôn nhân của chúng tôi ... và lần thứ ba cho
Thánh Linh và nhà của Người. Và chỉ với niềm tin thiêng liêng mạnh mẽ này mà
tôi nhận ra quyền can thiệp vào bạn ... Tôi không tin rằng ơn gọi là một kế
hoạch hoàn toàn được vạch sẵn trong trí Thiên Chúa [...] Người muốn sáng tạo
với chúng ta”.
Lắng nghe công trình
của Thánh Linh cũng là đọc các dấu chỉ thời đại, nơi gặp gỡ giữa Thánh Linh với
các dòng chảy văn hóa và tinh thần của thời đại chúng ta, cũng chính ở đây,
Thánh Linh nói với tâm trí chúng ta.
- Đồng hành từ những
bước khởi đầu
Ở đây, vào một thời
đại khác, thánh Augustinô đã mở đường cho chúng ta. Đó là về việc rao giảng Tin
mừng khát khao hạnh phúc, giảng dạy như các chứng nhân và để cho Đấng Tạo Hóa
hành động với thụ tạo của Người. Thật vậy, chúng ta biết cuốn Tự thuật, được viết muộn, khi ngài đã là
giám mục, chịu ảnh hưởng quyết định từ cuốn sách của Cicero về hạnh phúc. Việc đọc này khiến ngài
đi từ cần đến muốn. Rồi tiếp đó là những câu hỏi lớn, giống như mầu nhiệm sự dữ,
đã theo đuổi ngài. Ngài phải được khai tâm theo một cách khác để hiểu và tiếp
nhận Sách Thánh, cuối cùng là gặp gỡ các chứng nhân ngày càng đa dạng. Điều này
dẫn ngài bước vào cuộc chiến cuối cùng, đó là cuộc chiến về ân sủng và tự do
trong một khu vườn nhỏ ở Milan .
Lắng nghe công trình của Thánh Linh là bắt đầu từ điểm mà người khác đã bắt
đầu, khi tôn trọng thời gian cần để tin với các trung gian cần thiết: đọc Kinh
Thánh, đọc lại cuộc đời mình như cuộc đời nhận được từ Thiên Chúa và cuối cùng
tìm thấy cánh cửa nội tâm.
- Chú ý đến nguồn gốc nhân loại,
thần học và Giáo hội
Mọi người đều được
gửi gắm một lời hứa. Để lắng nghe lời hứa này, cần phải để cho những gì người
ta nghe vang rền trong thinh lặng. Chính trong không gian ấy, đức tin Kitô giáo
sẽ có thể được thể hiện, tỏ bày, cấu trúc. Để đón nhận câu chuyện của một
người, thì việc biết đọc lại và định danh là điều không thể thiếu. Khi không
khởi đi từ quá khứ, chúng ta sẽ khó đảm nhận hiện tại và nhìn về tương lai.
Công việc lâu dài này thường dẫn đến dung hòa. Dung hòa không phải là “làm như”
quá khứ không còn đó hoặc đã khác rồi. Dung hòa cũng sẽ vượt qua bởi sự từ bỏ
đi đến giấc mơ hão huyền về một hình ảnh tự thành công. Công việc chưa bao giờ
hoàn thành.
Nhận ra mối liên hệ của chúng ta với Thiên
Chúa là khởi đầu của đời sống tâm linh. Cần nuôi dưỡng mối liên hệ ấy như một
nguồn tự do và hạnh phúc. Khám phá này, mặc dù nó có thể xuất hiện cách đơn
giản, cũng là hoa trái của một việc tìm tòi lâu dài. Mối liên hệ bắt nguồn từ
bí mật của việc cầu nguyện và lắng nghe Lời. Cuối cùng, nó diễn ra nhờ nhân
tính của Đấng đến từ Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Thầy là đường, là sự thật và là
sự sống.” Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và từ Chúa Cha đến với chúng ta.
Việc đón nhận nhau vô
điều kiện của mỗi người càng cấp bách hơn nữa khi chúng ta thường xuyên lui tới
nhiều nơi, trong các mạng lưới không ngừng tiến triển, trong một xã hội được
đánh dấu bởi tính đa nguyên. Sứ vụ đầu tiên của Giáo hội là trở thành “một nơi
để tái sinh” theo hướng kép: hiệp thông huynh đệ và hiệp thông với Thiên Chúa.
Đón nhận nhau vô điều kiện như thế không thể tránh được cô đơn nào đó và đôi
khi không vượt qua “sự tan vỡ của trái tim”. Hiến mình cho sự dịu dàng và lòng
thương xót của Chúa Cha, nơi tôi dễ bị tổn thương nhất, sẽ giúp tôi yêu mến anh
em, không phải vì anh đáng mến, mà bởi vì anh được Thiên Chúa yêu mến. Đó là
khám phá của Simon Phêrô. Cuộc gặp gỡ của ông với Chúa Giêsu tại bờ hồ dẫn ông
đi theo Người. Và khi đi qua bàn làm việc của một người thu thuế, cùng một
Giêsu ấy đã gọi Lêvi. Thực tế, giống như chúng ta, ông đã có thể khám phá ra
rằng ông được gọi không phải vì ông đáng mến, nhưng là ông được Thiên Chúa yêu
mến.
- Nối kết đồng hành
cá nhân và đồng hành nhóm
Đồng hành thiêng
liêng cá nhân, vừa thuộc về trật tự đặc sủng vừa phải rèn luyện, là một phần
của việc đồng hành trong Giáo hội. Thật vậy, tại những thời điểm nhất định
trong cuộc đời chúng ta, khi những quyết định quan trọng được đề ra, khi chúng
ta trải qua những thời kỳ “đen tối” hoặc
khi chúng ta cảm thấy những đòi hỏi mới, thì việc đồng hành rất hữu ích, thậm
chí không thể thiếu. Một số bước không thể một mình vượt qua. Cần có sự sáng
suốt tâm linh, mà điều này chỉ có thể đạt được trong đồng hành cá nhân. Nhưng
khởi đầu, đó là ước muốn tiến lên, không dậm chân tại chỗ, nhưng sống phong phú
hơn theo Tin mừng, ước muốn kèm theo quyết tâm mạnh mẽ từ bên trong.
Ngày nay, chúng ta
còn có một hình thức đồng hành khác bổ sung, đó là đồng hành cộng đoàn. Cả hai
cách thức làm phong phú lẫn theo những giai đoạn khác nhau, nhưng luôn luôn
phục vụ cá nhân và cộng đoàn. Chính nhờ việc chăm chú đọc Tin Mừng mà nhiều
người mong muốn tiến xa hơn để có thể vượt qua nhằm tìm kiếm một nơi lắng nghe
mang tính cá nhân. Hoặc ngược lại, trước tiên, người ta được Chúa mời gọi cầu
nguyện cá nhân cách thân mật hơn, sau đó sẽ được dẫn đến việc tìm kiếm một nơi
chia sẻ và tham gia trong các nhóm và trong xã hội.
Những quan điểm này luôn khắc sâu trong bối cảnh văn
hóa, xã hội và tôn giáo. Ví dụ, trong giai đoạn gần đây, dường như Guy Coq đã
nhấn mạnh rằng có một ký ức ảm đạm về Giáo hội, chắt lọc điều tiêu cực và che
giấu điều tích cực. Ký ức ấy làm mờ đi nhận thức về những gì Giáo hội thực sự
là. Tình huống này mời gọi chúng ta chăm chú ý nhận biết điều gì là tốt trong
Giáo hội và nhân loại, như cách thánh Phaolô chỉ ra trong thư của ngài. Các lá
thư này đã chuyển đến độc giả sự tốt lành của Thiên Chúa. Lời tạ ơn dâng lên
Chúa Cha ở đầu các bức thư được kèm theo lời chào nồng ấm dành cho các anh em.
Chính tình con thảo làm cho chúng ta thực sự trở thành anh em của nhau. Cảnh
quan càng thay đổi, càng nhiều thứ xuất hiện, chúng ta càng cần phải tìm các
cột mốc để đánh dấu đường đi. Vì thế, chúng ta phải không ngừng kết hợp hai
luồng sáng, luồng sáng phân tích từ dương thế và luồng sáng đến từ trời cao, qua
Tin Mừng, qua Truyền thống và các dấu chỉ thời đại. Tất cả chúng ta đều chịu
trách nhiệm về thân thể Giáo hội, với những trách nhiệm khác nhau.
Đăng nhận xét