Sự cần thiết của đồng hành thiêng liêng, trong đời sống thánh hiến


“Thái độ quảng đại và tích cực của linh mục
khi thực hành việc linh hướng là một cơ hội quan trọng
để khám phá và nâng đỡ các ơn gọi linh mục
và các hình thức khác của đời sống tu trì
(số 54).
Phêrô Nguyễn Trường Sơn, Tu hội Chúa Giêsu
Giuse Nguyễn Quốc Trinh, Tu hội Chúa Giêsu


Dẫn nhập
Việc đồng hành thiêng liêng giữ một vị trí quan trọng trong cuộc sống của người Kitô hữu, đặc biệt là với những ai sống đời thánh hiến. Thực vậy:
Việc tư vấn tâm linh đã được thi hành từ buổi ban đầu của Giáo hội cho tới ngày hôm nay. Cũng có người gọi đây là linh hướng hay đồng hành thiêng liêng. Đó là một việc thực hành xa xưa, đã được thử thách qua thời gian, đem lại biết bao hoa trái trong đường nên thánh và trong sự dấn thân theo Tin mừng.[1]
Điều này đã được Bộ Giáo Sĩ khẳng định trong tập tài liệu kỷ niệm năm linh mục với tựa đề là “Linh mục thừa tác viên của lòng Chúa thương xót: Những yếu tố để giúp các cha giải tội và linh hướng.”
Các Giáo phụ, Huấn quyền của Hội thánh, nhiều tác giả sách thiêng liêng và các quy tắc hướng dẫn đời sống Giáo hội đều nói tới nhu cầu linh hướng, đặc biệt đối với những người đang trong thời kỳ thụ huấn. Sẽ có một số thời điểm trong cuộc đời con người đòi chúng ta phải phân định cách đặc biệt và phải có sự đồng hành huynh đệ của ai đó. Điều này phát xuất từ chính lôgíc của đời sống Kitô hữu. “Cần khám phá lại truyền thống to lớn của việc hướng dẫn thiêng liêng cá nhân, một việc làm luôn đem lại những hoa trái đáng kể và quý giá cho đời sống Giáo hội.”[2]
Như vậy, đồng hành thiêng liêng (hay linh hướng) đóng một vai trò quan trọng và cần thiết để tiến bước trên đường trọn lành. Đề tài này cho thấy sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng dựa vào những kinh nghiệm thực tế nơi các thánh nhân là những người đã đạt đến mức trọn lành trên đường thiêng liêng, rồi lắng nghe những nhận định của các nhà chuyên môn trong lãnh vực đồng hành thiêng liêng, từ đó chúng ta sẽ nhìn đến những đúc kết từ huấn quyền về chủ đề này.
1.     Các thánh nhân nói về việc đồng hành thiêng liêng
Kinh nghiệm của các thánh luôn là một điều quý giá cho những ai đang tiến bước trên hành trình thiêng liêng. Người ta có thể nhận thấy sự đồng hành thiêng liêng đã xuất hiện ngay từ thuở ban đầu của Hội thánh.
Ban đầu, việc làm này chỉ thấy nơi các đan viện Đông phương và Tây phương. Kể từ thời Trung Cổ, đó là một phần nội dung của các trường tu đức. Như có thể thấy phản ảnh trong các bút tích của thánh Têrêsa Avila, Gioan Thánh Giá, Ignatiô Loyola, Phanxicô Salêsiô, Anphonsô Ligouri, đức hồng y Pierre de Bérulle, việc làm này đã được thực hành rộng rãi nhiều hơn trong đời sống kitô hữu vào những thế kỷ 16 và 17.
Đầu tiên, ta có thể kể đến lời khuyến cáo của thánh Phanxicô Salêsiô: “Nếu con muốn yên trí trên con đường thánh đức, con hãy tìm người tử tế chỉ bảo, dẫn dắt con. Đây là một lời căn dặn hết sức quan trọng.”[3]
Lời khuyên của thánh Phanxicô Salêsiô cũng còn được nhìn thấy trong những dòng nhật ký của thánh nữ Faustina Helena Kowalska. Chị viết rằng, chị tha thiết cầu xin Chúa thương ban cho chị một ơn trọng đại. Đó là có được một vị linh hướng. Nhưng nguyện ước của chị chỉ được nhậm lời sau ngày vĩnh thệ, khi chị được chuyển đến Vilnius, đó là cha Sopocko. Chúa đã cho chị được nhìn thấy Ngài trong một thị kiến trước khi chị đến Vilnius. Chị ước ao có được một cha linh hướng ngay từ lúc đầu, có lẽ tôi đã không phí phạm rất nhiều ơn Chúa đến như vậy. Theo chị, cha giải tội có thể giúp đỡ cho linh hồn rất nhiều, nhưng ngài cũng có thể gây ra rất nhiều tai hại cho nó. Các cha giải tội cẩn trọng phải lưu ý đến hoạt động của ơn Chúa trong linh hồn các hối nhân biết bao! Ðó thực là một vấn đề hết sức quan trọng. Linh hồn phải nài xin Chúa ban cho một vị linh hướng, nhưng không phải chỉ cầu nguyện suông, mà còn phải gắng hết sức để tìm cho được một vị hướng dẫn chuyên môn trong những vấn đề này, như một viên chỉ huy phải biết rõ những con đường để dẫn quân ra trận. Một linh hồn kết hợp với Chúa phải được trang bị sẵn sàng cho những trận chiến lớn và hết sức gian truân. Sau những cuộc thanh luyện đầy nước mắt, Chúa sẽ ngự trong linh hồn một cách đặc biệt, nhưng linh hồn không phải lúc nào cũng hợp tác với ơn Chúa. Trong vấn đề này, linh hồn tuyệt đối cần phải có một vị linh hướng.
Thánh nữ Têrêsa Avila, tiến sĩ Hội Thánh cũng đưa ra lời khuyên trong “Đường hoàn thiện” như sau:
Đừng ngần ngại bàn hỏi về những ân huệ và vui sướng với những người có thể soi sáng cho chị em, đừng giấu giếm chi, hãy thận trọng trong việc ấy; lúc khởi đầu và kết thúc cầu nguyện, dầu được chiêm niệm cao siêu đến đâu chăng nữa, luôn luôn hãy nhận biết mình là ai.[4]
Chúng ta cũng có thể nhận ra sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng nơi chân phước Têrêsa Calcutta. Mẹ đã không trình bày một khẳng định cụ thể, nhưng là một hành động liên lỉ và kiên trì cùng vị linh hướng để tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và vâng theo ý Người. Người ta có thể đọc thấy rất nhiều những chia sẻ của Mẹ với vị linh hướng, đồng thời là lòng biết ơn của Mẹ với các ngài.
Như vậy, hầu như tất cả các vị thánh đều có thể cho chúng ta thấy sự cần thiết của việc đồng hành trên hành trình tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và tiến bước trên đường trọn lành.
2. Huấn quyền
nói về sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng
2.1. Sắc lệnh Đào tạo linh mục của Công đồng Vat. II
Công đồng Vat. II trong Sắc lệnh Đào Tạo Linh Mục, số 3, chỉ rõ việc linh hướng là cần thiết như thế nào trong quá trình đào tạo linh mục ngay từ giai đoạn tiểu chủng viện: “Các chủng sinh phải được chuẩn bị bước theo Chúa Kitô Cứu Chuộc với tinh thần quảng đại và tâm hồn trong trắng, nhờ một nền giáo dục tôn giáo đặc biệt, nhất là sự linh hướng thích hợp”.[5] Tiếp tục trong chương trình đào tạo ở đại chủng viện, Sắc lệnh, số 8 ấn định:
Việc huấn luyện tu đức phải liên kết chặt chẽ với việc trau dồi học vấn và huấn luyện mục vụ, nhất là phải được thực hiện nhờ sự trợ giúp của cha Linh Hướng sao cho các chủng sinh tập biết luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần.[6]
Chúng ta có thể thấy rằng việc đồng hành thiêng liêng được chú trọng trong suốt quá trình đào tạo từ tiểu chủng viện đến đại chủng viện, vì đó là điều thiết yếu cho đời sống thiêng liêng của chủng sinh: kết hiệp với Chúa Ba Ngôi. Như vậy, đồng hành thiêng liêng không những là biện phân để nhận ra và thi hành ý Chúa mà còn để sống kết hiệp thân tình với Chúa Ba Ngôi. Đây là điều cốt lõi của cuộc đời thánh hiến của mỗi chủng sinh, vì trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi mà họ hiện hữu, sống động và chu toàn bổn phận sống đời thánh hiến của mình. Đồng hành thiêng liêng là kim chỉ nam cho cuộc đời thánh hiến của họ trong quá trình đào tạo và cả khi đảm nhận công việc mục vụ sau này. Họ sẽ không bị lệch hướng và nhờ đời sống nội tâm kết hiệp mật thiết với Chúa, họ sẽ nhận được ơn chúa để thi hành sứ vụ và tiến tới trên con đường đức ái hoàn hảo của mình.
2.2. Sắc lệnh về Canh tân thích nghi đời sống dòng tu
 Đối với các Hội Dòng, Sắc lệnh về Canh Tân Thích Nghi đời sống Dòng Tu, số 18 cũng nêu lên cho chúng ta thấy sự cần thiết của viêc đồng hành thiêng liêng:
Việc canh tân thích nghi các hội dòng lệ thuộc rất nhiều vào việc huấn luyện tu sĩ. Vì thế, không được cho các tu sĩ không phải là giáo sĩ và các nữ tu ra làm việc tông đồ ngay khi vừa mãn nhà tập, nhưng phải tiếp tục huấn luyện họ cách thích đáng về mặt tu trì, tông đồ, giáo lý và kỹ thuật trong những nhà có đủ điều kiện. Các Bề Trên cũng có nhiệm vụ chọn lựa kỹ lưỡng và chuẩn bị cẩn thận những vị Giám đốc, Linh hướng và Giáo sư.[7]
Việc huấn luyện các tu sĩ để làm việc tông đồ được Sắc Lệnh qui định nghiêm ngặt song song với việc linh hướng. Để có thể dấn thân làm việc tông đồ, các tu sĩ không những được đào luyên về chuyên môn liên quan đến sứ vụ này, nhưng đời sống thiêng liêng cũng được chú trọng. Việc tiên liệu này cho ta thấy ngay trong bối cảnh cần canh tân và thích nghi đời sống dòng tu thì việc linh hướng vẫn là nền tảng không thể bị cắt xén. Chính là nhờ Chúa Thánh Thần hoạt động nơi mỗi cá nhân tu sĩ ngay từ lúc bắt đầu dấn thân sống đời thánh hiến mà người tu sĩ có thể nhận ra và thực thi ý Chúa nhờ sự trợ giúp của cha linh hướng và đây là một tiến trình liên tục. Cùng với ba lời khấn, việc đồng hành thiêng liêng là yếu tố không thể thiếu để trở nên trọn lành theo gương Thầy Chí Thánh.
Đối với các chủng sinh
Bộ Giáo luật 1983, số 239, triệt 2 qui định rõ là: “Trong mỗi chủng viện ít nhất phải có một vị linh hướng, tuy nhiên các chủng sinh vẫn có quyền đến với các tư tế khác được Giám mục chỉ định vào nhiệm vụ này”. Số 246, triệt 4 còn nhấn mạnh thêm: “Các chủng sinh phải có thói quen thường xuyên lãnh nhận bí tích Sám Hối và khuyên mỗi người phải có một vị điều hành do họ tự do lựa chọn cho đời sống thiêng liêng của mình”. Như thế, Giáo luật mặc nhiên công nhận sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng của các chủng sinh, đồng thời dành cho họ sự tự do trong việc chọn lựa người đồng hành thiêng liêng do Giám mục chỉ định. Sự riêng tư nầy phải được tôn trọng cách tuyệt đối! Ngay cả những quyết định quan trọng của các vị hữu trách trong chủng viện, khiến họ phải tham khảo ý kiến các vị khác liên quan đến ơn gọi của các chủng sinh “cũng không bao giờ được hỏi ý kiến cha linh hướng”.[8]

           Đối với các Dòng tu,
           Tu Hội thánh hiến và các Tu đoàn Tông đồ
Đối với các Dòng tu, Tu Hội thánh hiến, Tu đoàn Tông đồ, Giáo luật số 630, triệt 1 còn buộc “các Bề trên phải nhìn nhận sự tự do chính đáng của các thành viên trong những gì liên quan đến bí tích sám hối và việc linh hướng[9]Giáo luật số 630, triệt 5 còn viết thêm: “Họ có thể tự do và tự ý cởi mở tâm hồn với các ngài. Tuy nhiên, các Bề trên không được xúi giục họ bày tỏ lương tâm bằng bất cứ cách nào”.[10]
 Đối với các Tu hội đời
Liên quan đến Tu hội đời, Giáo Luật số 719 triệt 4 lại một lần nữa nêu bật sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng và sự tự do trong việc linh hướng khi viết: “Họ phải được tự do trong việc linh hướng cần thiết, và nếu muốn, họ phải xin những lời khuyên bảo trong lĩnh vực này, kể cả nơi các vị điều hành của họ”.[11]
Chúng ta có thể thấy rằng, trong các hình thức sống đời thánh hiến, bộ Giáo luật đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho việc đồng hành thiêng liêng của mỗi người chúng ta, đặc biệt là vấn đề tự do lương tâm. Trong Chúa Kitô, chúng ta là con cái tự do nhưng tìm kiếm, biện phân và thực thi thánh ý Người là một bổn phận mang tính cá nhân với chính Chúa qua trung gian vị đồng hành. Sự riêng tư và tự do chọn lựa vị đồng hành thiêng liêng của mỗi cá nhân được Giáo luật quy định khắt khe như vậy cho chúng ta thấy tính nghiêm trọng của việc linh hướng. Đây là việc hệ trọng trong cuộc đời thánh hiến mà mỗi người chúng ta phải chú tâm thi hành không được xao nhãng hay chỉ theo hình thức hời hợt bên ngoài.
2.4. Tông huấn Pastores Dabo Vobis
Tông huấn Pastores dabo vobis, số 81, của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngày 25/3/1993 nêu rõ:
Thực hành việc linh hướng cũng đóng góp rất nhiều cho việc đào tạo trường kỳ của các linh mục. Đây là một phương thế cổ điển vẫn luôn giữ mãi được giá trị, chẳng những nhằm tạo nền tảng vững chắc cho việc đào tạo thiêng liêng, nhưng còn giúp cố võ và nâng đỡ cho sự trung thành và lòng quảng đại bền bỉ trong việc thi hành thừa tác vụ linh mục. Như Đức Phaolô VI đã viết trước khi lên Giáo hoàng : “Việc linh hướng giữ một nhiệm vụ rất cao đẹp và có thể nói thiết yếu đối với nền giáo dục luân lý và thiêng liêng dành cho giới trẻ, những con người mong ước tìm hiểu và theo đuổi ơn gọi của mình một cách hết mực chân tình, không phân biệt ơn gọi loại nào. Việc linh hướng giữ mãi tầm quan trọng ích lợi cho mọi lứa tuổi và mọi cuộc đời, mỗi lúc chúng ta đến với những soi dẫn và lòng bác ái của một vị cố vấn đạo đức và khôn ngoan, để rồi cầu xin sự kiểm nghiệm đường ngay lối thẳng của chúng ta, cũng như sự sưởi ấm chúng ta trong việc quảng đại chu toàn những bổn phận. Đây là một phương thế sư phạm rất tế nhị nhưng mang một giá trị rất cao cả. Đây là một nghệ thuật sư phạm và tâm lý đòi người hành xử phải có tinh thần trách nhiệm cao độ; đây là một việc tập luyện thiêng liêng đòi người lãnh nhận phải nghiêm trọng và tin cậy”.[12]
Có thể nói Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến sự cần thiết trong đồng hành thiêng liêng cho tất cả mỗi người chúng ta. Tiến trình này không chỉ kéo dài trong một giai đoạn nào đó trong cuộc đời nhưng là suốt cả cuộc đời, qua đó chính Chúa Thánh Thần hoạt động nơi vị đồng hành và nơi chúng ta. Nhờ đồng hành thiêng liêng, chúng ta kịp thời uốn nắn hoặc điều chỉnh lại những gì chưa khớp với thánh ý Chúa qua sự hướng dẫn của vị đồng hành. Với những ai thật lòng tìm Chúa thì đây là một cơ hội để tự kiểm điểm bản thân và tạo nên một động lực mới trên con đường hoàn thiện theo gương Chúa Giêsu. Tóm lại, đồng hành thiêng liêng là một trong những yếu tố cơ bản giúp chúng ta nên trọn lành.
2.5. Tông huấn Vita Consecrata
Tông huấn Ðời Sống Thánh Hiến, chương IV: được tinh thần thánh hiến hướng dẫn, số 39, Đức thánh cha Gioan Phaolô II tiếp tục nhận định :
Càng sống mật thiết với Thiên Chúa, những người tận hiến càng sẵn sàng trợ giúp anh chị em mình nhờ có những sáng kiến tốt trên bình diện thiêng liêng, như những trường dạy cầu nguyện, những khoá linh thao hoặc những cuộc tĩnh tâm, những ngày cô tịch, lắng nghe và linh hướng. Nhờ thế họ giúp cho anh chị em mình tiến tới trên con đường cầu nguyện, có khả năng nhận ra ý Chúa đối với mình, và can đảm, đôi khi anh dũng, dấn thân vào sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi. Quả vậy, những người tận hiến được gắn chặt vào đời sống năng động của Giáo hội, một Giáo hội khao khát Thiên Chúa tuyệt đối và được mời gọi nên thánh. Chính họ đang làm chứng về sự thánh thiện ấy. Sự kiện tất cả mọi người đều được kêu mời trở thành những vị thánh, lại càng thôi thúc hơn nữa những con người đã chọn sống sứ mạng nhắc nhớ lời mời ấy cho anh chị em mình.[13]
Như vậy, nhờ những hoa trái tốt lành thu lượm được từ đồng hành thiêng liêng, những người sống đời thánh hiến trở nên những phần tử ưu tú của Giáo hội. Từ đó, họ sẵn sàng thực thi thánh ý Chúa trong những công việc khó khăn đòi hỏi một niềm tin sâu xa, một sự hy sinh của bản thân vì nước trời. Họ là chứng nhân trung thành cho sự thánh thiện của Giáo hội qua việc hoàn thiện chính mình, đồng thời họ còn có thêm nhiệm vụ đồng hành thiêng liêng cho anh chị em trong Dòng tu, Tu hội của mình và cho cả giáo dân nữa nếu họ được tin tưởng và yêu cầu!
2.6. Những giáo huấn khác
Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI, trong buổi tiếp kiến các sinh viên của Phân khoa thần học Teresianum tại Rôma ngày 19/05/2011, nhân kỷ niệm 75 năm thành lập, đã đề cập đến vai trò quan trọng của việc đồng hành thiêng liêng. Đối với ngài,
Giáo hội tiếp tục khuyến cáo thực hành này đối với những ai ao ước trực tiếp bước theo Chúa nhưng còn đối với các Kitô hữu muốn sống cách có trách nhiệm phép rửa của mình… Người nào đã đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa bước theo sát Người, thì đặc biệt cần đến một sự trợ giúp chắc chắn trong đạo lý và chuyên viên trong các mầu nhiệm thần linh. Để tránh những thái độ chủ quan dễ dãi, nên sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình bước theo Đức Giêsu.[14]
Mới đây (2011), Thánh Bộ Giáo Sĩ đã ra một tài liệu hướng dẫn các cha giải tội và linh hướng mang tên “Linh mục thừa tác viên của lòng Chúa thương xót” cũng đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đồng hành thiêng liêng:
Linh hướng là một sự giúp đỡ các tín hữu trên con đường nên thánh – một sự giúp đỡ luôn dành sẵn cho hết mọi người, bất kể họ thuộc về bậc sống nào. Trong hoàn cảnh hiện nay, nếu về phía tín hữu càng ngày người ta càng có nhu cầu được linh hướng, thì cũng vậy càng ngày càng có nhu cầu phải chuẩn bị các linh mục tốt hơn để làm công tác linh hướng... Nơi nào có sẵn việc linh hướng, nơi ấy có sự đổi mới cá nhân và cộng đoàn, có các ơn gọi, có tinh thần truyền giáo và lạc quan hy vọng (số 66).
Trong thực tế, linh hướng là một khía cạnh không thể tách rời của tác vụ rao giảng và hoà giải. Linh mục được gọi là để hướng dẫn các linh hồn đi theo con đường đồng hóa với Chúa Kitô và điều này cũng bao gồm các con đường của sự chiêm niệm (số 67).
Linh hướng không chỉ đơn giản là một tư vấn về giáo lý. Đúng hơn, nó liên quan đến mối quan hệ của chúng ta và sự đồng hình cách thân mật với Đức Kitô. Điều này tương quan tới Chúa Ba Ngôi:
Việc đào tạo tinh thần cần được kết nối chặt chẽ với giáo lý và mục vụ, và đặc biệt sự giúp đỡ của vị linh hướng, cần được truyền đạt để các chủng sinh có thể học cách sống trong sự thân mật và không ngừng kết hợp với Chúa Cha, qua Chúa Con của Người là Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. [15]
Có thể nói, sự quan tâm đến đời sống tâm linh của các tín hữu, hướng dẫn họ trên con đường chiêm niệm và hoàn thiện, giúp họ nhận ra ơn gọi của họ, là một ưu tiên mục vụ thực sự: “Từ quan điểm này, công việc mục vụ thúc đẩy ơn gọi tới chức linh mục cũng có thể biểu hiện và khích lệ, chắc chắn tới việc linh hướng.[16]
Còn trong văn kiện của Hội nghị Seoul về đào tạo linh mục diễn ra từ 24-31/10/1999 nói rằng: “Linh mục thiên niên kỷ mới”, đã nêu lên bổn phận đồng hành của vị linh hướng và tầm quan trọng của việc linh hướng.
Ở Á Châu, các nhà huấn luyện xem việc linh hướng như một hình thức đồng hành. Hành trình linh hướng là những bước đi dẫn vào nội tâm, trong đó vị linh hướng làm công việc của một người hướng đạo, một bạn đường, và một người cùng biện phân với đương sự.
Có rất nhiều trường phái tu đức trong Giáo hội. Dù không một trường phái nào giống với một trường phái nào, thì đa số, nếu không muốn nói là tất cả, đều đề cao vai trò của một mẫu gương. Tuy nhiên, khuôn mẫu của mọi mẫu gương chính là Đức Kitô, Đấng mà người thụ hướng cố gắng để trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Các vị linh hướng phải bảo đảm chia sẻ khuôn mẫu này cho người mà mình hướng dẫn và thúc đẩy đương sự trở nên ngày càng quảng đại và sẵn sàng hơn để đón nhận khuôn mẫu này. Vị linh hướng giúp đỡ người thụ hướng trong việc xác định hoạt động của Thánh Thần trong đời sống của đương sự. Mục tiêu chính của sự giúp đỡ này là cuối cùng làm cho người thụ hướng đạt đến chính tầm vóc của Đức Kitô.
Việc linh hướng cũng giúp cho các chủng sinh nhận ra những gì có thể thay đổi được, và những gì không thể thay đổi được trong cuộc hành trình tâm linh. Trong số những yếu tố có thể thay đổi được, có thể kể đến đoàn sủng của các vị sáng lập ra các trường phái tu đức. Còn trong số những yếu tố không thể thay đổi được, có thể kể đến Lời Chúa, và sự khẩn thiết cũng như tầm quan trọng tột bậc của việc huấn luyện tu đức.
Con người Đức Giêsu là đối tượng mà mọi nỗ lực trong đời sống tu đức đều qui hướng về. Người thụ hướng phải khuôn định các hành động của mình theo mẫu mực của Đức Giêsu, Đấng chữa trị, dạy dỗ, phục vụ và thánh hóa. Thực vậy, việc linh hướng phải được tiếp tục ngay cả sau khi người thụ hướng đã lãnh nhận tác vụ linh mục – như Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 81 nêu rõ:
Việc linh hướng cũng góp phần rất quan trọng trong quá trình thường huấn của các linh mục. Đây là một phương thế đắc lực và không bao giờ mất đi giá trị của nó. Nó là rường cột của việc huấn luyện tu đức. Nó củng cố và gìn giữ lòng trung thành và quảng đại trong việc thi hành các bổn phận của người linh mục.
Vấn đề linh hướng còn được nhắc đến trong “Kim chỉ nam cho Thừa tác vụ và Đời sống linh mục.Song song với Bí tích Hoà Giải, linh mục không quên thực thi thừa tác vụ linh hướng. Việc tái khám phá và truyền bá thực hành này, cũng có thể xảy ra ở bên ngoài việc ban hành Bí tích Hoà Giải, là một thiện ích lớn lao cho Giáo hội trong thời đại này.[17] Chỉ nam cũng nhấn mạnh thêm: “Thái độ quảng đại và tích cực của linh mục khi thực hành việc linh hướng là một cơ hội quan trọng để khám phá và nâng đỡ các ơn gọi linh mục và các hình thức khác của đời sống tu trì”(số 54).
3.     Các nhà chuyên môn
     nói về sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng
Sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng đã được nhiều nhà chuyên môn xác nhận. Nếu các thánh chỉ nói đến tầm quan trọng của việc đồng hành như một kinh nghiệm cá nhân, thì linh mục Godinez khẳng định rõ ràng hơn về vai trò của vị linh hướng như sau: Trong mười ngàn người mà Thiên Chúa gọi đến đó (sự trọn lành), chỉ vừa vặn mười người là đáp ứng, và trong một trăm mà Chúa kêu mời chiêm niệm, hết chín mươi chín vắng mặt. Chính do điều đó mà tôi nói: nhiều người được gọi mà ít người được chọn. Thay vì phóng đại những nỗi khó khăn trong công việc đó và đổ lỗi cho sự yếu hèn của loài người, phải nhìn nhận rằng một trong những nguyên nhân chính là thiếu những vị linh hướng. Khốn cho những cộng đoàn thiếu những người thầy này, hay đã có sẵn mà không biết nhận ra họ hay đánh giá họ đúng mức! Sau ơn Chúa, họ là những viên hoa tiêu dìu dắt các tâm hồn trên biển lạ của đời sống thiêng liêng. Và nếu không thể học thật chu đáo một khoa học nào, một nghệ thuật nào, dầu đơn giản đến đâu, mà không có thầy dạy, thì càng ít có thể học được đạo lý cao siêu về sự trọn lành theo Tin mừng. Bởi vì trong đạo lý này có những mầu nhiệm thật thâm sâu, những thị kiến và những mạc khải rất mơ hồ, những cuộc ngất trí và xuất thần có thể bắt nguồn từ Thiên Chúa hoặc từ ma quỷ, bởi vì trong đạo lý này các luân đức có thể trở thành thói xấu, vì đi lệch khỏi bậc trung dung, Do thái quá hoặc bất cập; thuốc bổ do tâm nguyện có thể biến thành thuốc độc diệt vong; những thị kiến có thể là những ảo ảnh; một tâm hồn có thể nỗ lực nhiều mà thu hoạch chẳng bao nhiêu.
Do đó, việc một tâm hồn, không nhờ phép lạ hoặc không nhờ thầy dạy, lại có thể trong nhiều năm dài vượt qua được những gì cao nhất và khó nhất trong đời sống thiêng liêng, mà không liều mình hư mất, thì tôi cho là hầu như không thể thực hiện được. Mà Thiên Chúa không thích làm những phép lạ không cần thiết, thì Người cũng muốn không kém (rằng) những ai chuyên tâm sống cuộc đời thiêng liêng có một cha linh hướng... để họ hoàn toàn phó thác chính mình cũng như mọi hành động, ý muốn và vui thích của họ trong tay vị ấy. Trong Giáo hội khải hoàn, các thiên thần trao đổi cho nhau các chân lý mà các Người chiêm ngưỡng; vì thế thánh ý của Thiên Chúa là trong Giáo hội chiến đấu, con người học hỏi với nhau, không nhờ đến nhiệm vụ kỳ diệu của các thiên thần.[18]
Còn linh mục Faber thì viết:
Khi chúng ta đưa mắt nhìn qua số rất đông bao tâm hồn đạo đức, điều gì làm cho chúng ta hối tiếc mạnh mẽ nhất? Đó là nhận thấy ơn Chúa bị hoang phí, thấy những nguyên tắc trọng đại lần lượt biến mất và chứng kiến những dự định cao quí nhất chóng bị tan vỡ. Mà phần lớn những cái không hay đó đều do sự thiếu linh hướng. Ta có thể nói nhiều hơn để cho thấy tính cách quan trọng của linh hướng như thế chăng? Tất cả những vị thánh đều đồng quan điểm về các điều đó: phải có một vị linh hướng, hoàn toàn cởi mở với ngài, sau cùng vâng lời ngài, không bối rối và không gượng ép. Một khi đã có được điểm này, ta đã thắng được nửa phần trong trận chiến của đời sống thiêng liêng.[19]
Kinh sĩ Beaudenon còn nêu lên ba lợi ích của việc đồng hành thiêng liêng:
1.   Trong khi trình bày một tình trạng, người ta làm sáng tỏ tình trạng ấy. Sự hiện diện của người nghe kích thích chúng ta, và sự cần thiết làm cho người ta hiểu mình giúp diễn đạt những ý nghĩ của chúng ta.
2.   Chúng ta ở quá gần mình để thấy rõ chính mình; một người khác ở cách khoảng cần thiết. Biết bao ảo tưởng vụn vặt đánh lừa chúng ta khi mà nơi người khác có lẽ chúng sẽ không đánh lừa nổi chúng ta đâu! Có nhiều người rất khôn khéo khi đưa ra lời khuyên nhưng lại do dự trước một quyết định cho chính mình. Nhiều người khác phạm cái lỗi này, là không đắn đo cho đủ.
3.   Linh hướng đem lại niềm tin tưởng và can đảm, cho đến những quyết định thông thường nhất, người nào thận trọng cũng mang một lo ngại xa xôi mình có thể sai lầm. Lời nói của vị linh hướng sẽ đánh tan hết mối lo ngại đó. Được giải thoát như vậy, người ta sẽ hành động một cách hăng say khác hẳn.[20]
Trong việc đồng hành thiêng liêng, Dom Marmion nói như sau:
Chính theo mệnh lệnh Chúa quan phòng, khả tôn khả ái mà chúng ta được hướng dẫn không phải bằng những cuộc thị kiến hay bởi các thiên thần, nhưng bởi những con người mà Chúa khấng ban cho chúng ta trong việc đó, và Chúa muốn nói với chúng ta qua miệng lưỡi của những vị ấy.[21]
Từ những điều trình bày ở trên, chúng ta có thể nhận ra sự cần thiết của việc đồng hành thiêng liêng. Các vị thánh của Giáo hội, các nhà chuyên môn trong việc hướng dẫn tâm linh và các giáo huấn của Giáo hội đều hướng chúng ta đến việc đồng hành như một cách thế để nhận ra và chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Tuy nhiên, để việc đồng hành đạt kết quả như mong ước cũng còn đòi hỏi nhiều yếu tố từ cả hai phía: vị linh hướng và người thụ hướng.
Một vấn nạn lớn được đặt ra là có khi (thậm chí là nhiều khi) không thể tìm được vị linh hướng (hay linh hướng) thì sao? Nói linh hướng là cần thiết nhưng không mang ý nghĩa tuyệt đối. Thánh Alphonsô Ligouri cho rằng: “Làm sao vô số người sống cô quạnh trong hang hóc và sa mạc đã nên thánh; họ không có vị dẫn đạo nào khác hơn chim chóc và cây cối! Khi không có vị linh hướng này... thì bấy giờ Thiên Chúa làm hết mọi sự. Người không hề từ chối với ai hết lòng tìm kiếm Người.”[22]. Thánh Vinh sơn Phaolô cũng dạy như vậy: ở đâu thiếu người, ở đó Chúa sẽ giúp đỡ cho. Chị nữ tu Jeanne Lêpeintre vì thiếu cha linh hướng một thời gian, thánh nhân đã viết:
Nếu Thiên Chúa không cho phép con có một cha linh hướng để con có thể cầu cứu mỗi khi cần thiết, con có nghĩ rằng điều đó làm cho con thiệt mất lợi ích do sự hướng dẫn của cha ấy không? Không thiệt mất chút nào hết. Trái lại, chính Chúa thay vào chỗ cha ấy và với lòng nhân từ Người dẫn dắt con. Rất có thể Người đã làm việc ấy cho đến bây giờ: con chớ nghi ngờ Người không làm việc ấy hay Người không có bổ túc cách nào khác.
Và đó không phải là trường hợp đặc biệt. Thánh nhân viết tiếp:
Cha luôn luôn nhận thấy sự săn sóc đặc biệt này của Chúa Quan Phòng cho số lớn người đạo đức mà người đời cất đi những sự trợ giúp như thế, và cha có thể kể lại cho con một số lớn mẫu gương đẹp đẽ và nhiều việc đáng phục về điểm này.[23]
Cha De Foucauld trong sa mạc Sahara đã trải qua một năm trường mà không gặp được cha giải tội nào.
Việc đồng hành thiêng liêng (hay linh hướng) cũng đòi hỏi người thụ hướng phải sáng suốt và lựa chọn. Đó là điều ngay lành và cần thiết. Thánh nữ Faustina Helena Kowalska trong nhật ký có viết:
Trong một lần cáo mình, tôi cảm thấy vị linh mục xem ra bất an, nên không trình bày hết tâm hồn với ngài, nhưng chỉ xưng tội mà thôi. Một vị linh mục không bình an với bản thân thì không thể rọi chiếu bình an vào một linh hồn khác được. Ôi các linh mục, các ngài là những ngọn đèn soi chiếu linh hồn người ta, chớ gì ánh sáng của các ngài đừng bao giờ bị lu mờ (số 75).
Hay ở chỗ khác, chị viết:
Ôi, có lẽ đã có nhiều linh hồn thánh thiện hơn nếu như đã có nhiều cha giải tội kinh nghiệm và thánh thiện hơn. Không ít linh hồn hết lòng nỗ lực khát khao nên thánh, nhưng vì không thể tự mình đứng vững trong những thời gian thử thách nên đã từ bỏ con đường trọn lành (số 940).
Kết luận
Tóm lại, sống trọn căn tính đời tu bằng ba lời khuyên Phúc Âm và theo Tu luật, Tu hiến của mỗi Dòng, mỗi Tu hội, Tu đoàn là điều mỗi người chúng ta phải thực hiện mỗi ngày, nhưng việc đồng hành thiêng liêng chúng ta cũng không được bỏ qua. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, vị đồng hành và người được hướng dẫn cùng tìm kiếm ý Chúa. Dĩ nhiên, Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong Hội thánh và như thế, mỗi người chúng ta phải theo huấn giáo của Hội thánh, nhưng tương quan giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa hoàn toàn riêng tư vì “gió muốn thổi đi đâu thì thổi…”; Chúa Thánh Thần cũng hoạt động nơi mỗi người chúng ta cũng như vậy. Còn mỗi người chúng ta có nhận ra tác động của Ngài, có phân định được đâu là gợi ý đến từ Thiên Chúa, đâu là gợi ý đến từ ma quỷ hoặc ý riêng của mình hay không là nhờ sự trợ giúp của vị đồng hành thiêng liêng và sự nhận định riêng của mỗi người. Sau khi đã trình bày những vấn đề của tâm hồn mình, đưa ra những nhận định của mình, chúng ta hãy lắng nghe vị đồng hành hướng dẫn mình cụ thể thông qua những cuộc trao đổi và cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra ý Chúa trong từng thời điểm của cuộc đời mỗi người chúng ta.


[1] Vaticanô II, Sắc Lệnh về Đào Tạo Linh Mục, số 64.
[2] Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, số 40.
[3] S. Francois de sales, Introduction à la vie dévote, Hoàng Minh Tuấn dịch (Sài gòn, 1965), tr. 24.
[4] Têrêsa Avila, Đường hoàn thiện, tr. 209.
[5] OT, số 3.
[6] OT, số 8.
[7] PC, số 18 .  
[8] Giáo Luật, số 246, triệt 2.
[9] Sđd., số 630, triệt 1.
[10] Sđd., số 630, triệt 5.
[11] Sđd., số 719, triệt 4.
[12] Gioan Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, số 81.
[13] Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrata, số 39.
[15] Linh mục thừa tác viên của lòng Chúa thương xót, số 69.
[16] Ibid., số 71.
[17] X. Gioan Phaolô II, Tông Thư Reconciliatio et Poenitentia, số 32.
[18] Michel Godinez, la Théologie Mystique, liv. 7, c. 1, p. 721.
[19] Faber, Cit, p. 331.
[20] Beaudenon, Pratique Progressive de la Confession et de la Direction, t. II, 2è partie, ch. 2, p. 6.
[21] Thibaut, Vie de Dom, Marmion (Paris, 1922), p. 260.
[22] Anphonsô  Ligouri, Correspondance, t.l.p.28.
[23] Coste & Vincent de Paul, Correspondance, Entretiens et Documents (Paris, 1922), Corresp. III, 614, 615, n. 1192.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn