Tản văn - Maria
Gioan Lasan Ngô Văn Vỹ
Mẹ… mẹ… mẹ ơi! Mẹ đâu
rồi! Tiếng khóc thảng thốt của một em bé đã phá tan bầu không khí yên tĩnh của
chuyến xe đêm, khi các hành khách đang ngon giấc sau một ngày tất bật. Một vài
người nằm gần đó dỗ bé: “Nín đi con! Mẹ
con đang ở đằng kia mà!”. Thì ra, mẹ của bé đi lên phía bác tài để lấy nước
uống và khăn lau cho bé. Bé vẫn khóc nức nở: Mẹ… mẹ… mẹ ơi! Mẹ đâu rồi!
Chỉ là tiếng khóc của một trẻ
thơ thôi mà sao hôm nay tôi bỗng thấy bồi hồi, thổn thức, lòng trào dâng những
ký ức về mẹ. Mẹ… mẹ… là tiếng gọi ngọt ngào khi con người biết nói. Mẹ… mẹ… là
tiếng kêu tha thiết cuối cùng trước lúc con người “ra đi”. Bởi lẽ suốt cuộc đời
mẹ luôn hy sinh vì con cái. Thử hỏi trên cuộc đời này còn có mối tình nào
thiêng liêng, vĩ đại hơn tình mẹ? Bởi thế, nhân loại đã sáng tác ra vô vàn ca
dao, tục ngữ, những áng thi, văn, nhạc, hoạ…bất hủ ca ngợi tình mẹ:
“Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
Hay:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con thi trường học, mẹ thi trường đời”.
Thế nhưng làm sao có thể diễn
tả được tình mẹ bao la? “Mối tình ấy
chẳng thể diễn tả hết bằng lời và cũng chẳng đủ ngay cả bằng hành động. Nó chỉ
có thể được thốt lên bằng sự thổn thức của con tim.”[1]
Tôi là người hạnh phúc nhất đời
vì được luôn sống trong tình yêu thương của mẹ. Tôi rất hãnh diện và cảm phục
mẹ, bởi mẹ là người phụ nữ tuyệt vời. Mẹ rất mực yêu chồng, thương con. Mẹ
chung thuỷ, dịu hiền, khéo léo giữ cho gia đình tôi luôn đầm ấm, yên vui. Suốt
cuộc đời, mẹ tần tảo hy sinh sức khoẻ, thời giờ và cả nhan sắc nữa để nuôi dạy
tám anh chị em chúng tôi khôn lớn lên người. Có lẽ hiểu được tình thương vô
ngần với biết bao nhiêu nỗi nhọc nhằn mồ hôi nước mắt của mẹ, mà các anh chị
tôi đều rất ngoan thảo, chuyên cần học tập và đã có cuộc sống ổn định. Từ khi
các anh chị ra ở riêng thì dường như bao yêu thương mẹ dồn cả cho tôi: Thằng út
của mẹ!
Nhưng than ôi! Mẹ càng yêu
thương tôi bao nhiêu thì tôi lại càng tỏ ra ương bướng, ngạo ngược bấy nhiêu.
Cuộc sống ăn chơi trác tán của tôi đã làm cho mẹ phải chịu nhiều ưu phiền, nhục
nhã. Từ khi bước chân vào trường đại học, xa mẹ, tôi cũng xa dần tình mẹ. Tôi a
dua với đám bạn bè chơi bời lêu lổng, xao lãng việc học hành. Mẹ rất lo lắng,
dù ở xa nhưng chẳng ngày nào mẹ không điện thoại hỏi tôi về cái ăn cái mặc,
chuyện học hành thi cử… mẹ khuyên nhủ, động viên và nhắc nhở tôi về cách sống ở
đời, về đời sống Đạo: tham dự thánh lễ, cầu nguyện hằng ngày... Tôi nghe cho
qua. Nhiều lần tôi nói với mẹ:
-
“Mẹ an tâm đi. Con ổn!”
Tôi đã tự dối lòng mình và nói
dối mẹ. Kỳ thực, chỉ trong một thời gian ngắn thân xác tôi đã ra tiều tuỵ sau
những lần nhậu nhẹt, chơi bời thâu đêm. Lực học của tôi đã sa sút thảm hại. Tôi
không thể hoàn thành được các tín chỉ của trường. Các giới răn trong Đạo “mến
Chúa yêu người” tôi coi thường tất cả... Tôi không còn làm chủ được cuộc sống
của mình nữa. Nhưng tôi không dám trỗi dậy làm lại cuộc đời. Tôi sống vất vưởng
như bèo dạt mây trôi giữa dòng đời.
Chuông điện thoại reo. Giọng
của mẹ:
- Út… Út con có…
Tôi miễn cưỡng nghe mẹ nói, vì
biết trước rằng lần nào mẹ cũng chỉ lặp đi lặp lại bấy nhiêu câu: hỏi thăm,
động viên, nhắn nhủ mọi lẽ Đạo đời, đôi khi còn trách móc nữa...
- Út à, mẹ nghe người ta nói
con không được khoẻ và lại còn bỏ bê việc học hành có phải không con?
Như bị sát muối vào vết thương,
tôi giận điên lên, quát lớn:
- Mẹ. Mẹ im đi. Mẹ ở quê thì
biết cái gì chứ. Mẹ để con yên. Con lớn rồi. Mẹ khỏi lo.
Tôi hậm hực cúp máy đang khi mẹ gọi với lại:
- Út… Út… Con…
Chẳng phải vì tôi ghét mẹ đâu,
hay mẹ đã làm điều gì sai trái. Thú thực, trong lòng tôi cũng có chút hối tiếc
khi đã nói năng vô lễ với mẹ. Vì mẹ luôn yêu thương tôi. Tôi biết rõ điều đó
chứ. Mẹ luôn quan tâm lo lắng chăm sóc cho tôi. Tôi cảm nhận rõ lắm chứ. Mẹ làm
lụng vất vả, “thắt lưng buộc bụng”, chắt chiu từng đồng hàng tháng vẫn gửi lên
cho tôi ăn học với mong ước duy nhất tôi sẽ có một tương lai tươi sáng. Thế mà,
có bao giờ tôi biết mở miệng cám ơn mẹ. Tôi chưa hề một lần đền đáp công ơn
sinh thành dưỡng dục của mẹ. Đã vậy, bây giờ tôi lại tỏ thái độ “đoạn tuyệt”
với mẹ. Phải chăng vì tôi đã quá tự cao, tự ái, mù quáng đua đòi, tưởng mình đã
biết mọi sự, “đã lớn”, nên chẳng cần mẹ? Đã hai tuần nay, tôi sống trong sự yên
ổn giả tạo. Bởi vì mẹ không còn gọi điện thoại nhắc nhở gì nữa… có lẽ mẹ đã để
tôi yên hay mẹ tôn trọng sự tự do của tôi?
Reng… reng…. điện thoại reo. Mẹ
lại gọi. Tôi lưỡng lự:
- Con nghe…
Nhưng lần này không phải giọng
nói quen thuộc của mẹ, mà là giọng chị tôi hốt hoảng:
- Út. Mẹ ốm nặng. Em về ngay
đi!
Tôi bàng hoàng chết lặng người.
Sao chỉ mới có hai tuần mà mẹ đã ốm nặng đến thế? Bỗng nhiên, những Lời của
Chúa truyền dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính
mẹ…” (Xuất Hành 20, 12) mà tôi đã thuộc nằm lòng từ nhỏ ùa về cắn rứt lương
tâm tôi. Những ký ức về mẹ như một cuộn phim tự động chiếu lại từng lời nói,
hành động của mẹ và tôi sao mà trái ngược nhau quá lẽ. Mẹ sống cho tôi. Còn tôi
chỉ biết sống cho riêng mình. Mẹ quan tâm săn sóc cho tôi. Còn tôi thì lại vô
ơn bất hiếu với mẹ.
Tôi vội bắt xe về quê chỉ mong
gặp được mẹ. Máy truyền hình trên xe văng vẳng giọng hát tha thiết truyền cảm
của ca sỹ Hiền Thục: “Bao ngày mẹ ngóng,
bao ngày mẹ trông, bao ngày mẹ mong con…” nước mắt tôi rưng rưng theo lời
hát. Trái tim tôi đau nhói, ruột gan se thắt lại, miệng lắp bắp liên hồi: “Mẹ…
Mẹ…” Tôi đi thẳng đến bệnh viện, chạy ào đến bên mẹ. Mẹ nằm bất động trên
giường bệnh, khuôn mặt hốc hác, tái xanh, mẹ không nói, đôi mắt khép hờ, hơi
thở nặng nề... Tôi òa khóc nghẹn ngào:
- Mẹ… Mẹ… Con sai rồi. Mẹ tha
lỗi cho con!
Mắt mẹ lệ nhòa tràn ướt cả tấm
ra trải giường trắng toát, mẹ kéo ghì tôi vào lòng, miệng muốn nói gì đó nhưng
không thành tiếng, người khẽ gật đầu, ánh mắt và khuôn mặt bừng lên một vẻ dịu
hiền, một niềm an vui khôn tả. Tôi ôm chặt lấy mẹ, nước mắt rơi lã chã thân
người:
- Con cám ơn mẹ! Con yêu mẹ
nhiều! Mẹ đừng bỏ con!
Tôi cảm nhận được niềm bình an
tuyệt diệu đang lan toả khắp cơ thể, khi “quay về” với mẹ. Tôi cứ ôm chặt lấy
mẹ như không để vuột mất, lòng thầm tạ ơn Chúa đã cho tôi còn cơ hội được gặp
mẹ, còn kịp nói lời xin lỗi và cám ơn mẹ, người đã cho tôi được hiện hữu và
luôn yêu thương tôi trên cuộc đời này.
Những ngày sau đó tôi ở lại bên
mẹ tận tâm phụng dưỡng mẹ như thể đền bù những tổn thương tôi đã gây ra cho
người. Mẹ thấu biết lòng chân thành của tôi, nên người rất thanh thản và bình
an, chỉ trong một thời gian ngắn bệnh tình của mẹ dần thuyên giảm và khỏi hẳn.
Tôi chào tạm biệt mẹ, trở lại môi trường đại học với một niềm vui dạt dào. Tôi
được biến đổi thành con người hoàn toàn mới trong cách nghĩ và cách sống tích
cực. Dù sống xa mẹ nhưng lòng tôi luôn hướng về mẹ. Tôi chủ động thường xuyên
điện thoại thăm mẹ, tâm sự những niềm vui nỗi buồn cùng mẹ và luôn nhận lại từ
mẹ những lời an ủi, những chỉ dẫn tuyệt vời. Những kỳ nghỉ lễ, tết… tôi hào
hứng được về quê gặp mẹ, tôi diễm phúc còn được nhìn thấy mẹ, gọi mẹ, chạy vào
lòng mẹ, nghe mẹ to nhỏ… cái cảm giác ấy thật hạnh phúc vô bờ.
Nhìn lại chặng đường sai lầm
nghiêm trọng đã trải qua, tôi kinh hoàn nhận ra mình là kẻ sống ảo, dại khờ,
ích kỷ chỉ biết ăn chơi hưởng thụ vật chất trước mắt mà không biết lo nghĩ đến
tương lai. Con người sống đâu chỉ nhờ vật chất, có những thứ thiêng liêng mà
vật chất chẳng thể mua được: Nếu mẹ mất rồi biết tìm ở đâu? Kinh nghiệm đau đớn
này giúp tôi khiêm tốn nhìn nhận những giới hạn nơi bản thân để nỗ lực học hỏi,
rèn luyện nên người tốt hơn. Mặt khác, giả như tôi biết khôn ngoan lắng nghe
lời mẹ “chọn bạn mà chơi” thì chắc hẳn đã không có những điều đáng tiếc xảy ra…
Tuy nhiên những sai lầm trong
quá khứ không trở nên vô ích, nó là bài học quý giá giúp cho tôi tỉnh ngộ để
cảm nhận tình mẹ ngọt ngào, sâu sắc biết bao, nó giúp tôi biết trân quý những
giá trị thiêng liêng trong cuộc đời này. Tôi nghiệm ra: “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ”. Mẹ là nguồn an ủi, nguồn
sức sống, là nơi nương náu, là chỗ dựa an toàn cho những đứa con dù lúc thành
công hay khi thất bại trên đường đời. Cho dù trên cuộc đời này không ai muốn
yêu thương ta, mọi người đều kinh tởm, xa tránh ta thì vẫn còn đó lòng mẹ bao
la, mẹ luôn dang rộng vòng tay sẵn sàng tha thứ yêu thương ta trọn đời, đúng
như nhà thơ Chế Lan Viên đã cảm nhận:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ.
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”.
Bạn và tôi, chúng ta đều được
cha mẹ sinh ra trong đời. Tôn giáo nào cũng dạy chúng ta “thờ cha kính mẹ”. Thế nên chúng ta hãy luôn là những đứa con hiếu
thảo với cha mẹ, để cha mẹ có thật nhiều niềm vui trong cuộc đời này sau khi đã
suốt một đời hy sinh cho ta, để sau này ta không có gì phải hối tiếc vì đã sống
bất hiếu với mẹ cha.
Đăng nhận xét