ĐGH Gioan Phaolô II với những vấn đề thời đại chúng ta

 

Nhiệm kỳ Giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II
có một sức mạnh ngoại lệ.
Đó là một cuộc vật lộn
chống lại tất cả những vấn nạn nền tảng
của thời đại chúng ta
và ngoài ra
ngài còn tặng chúng ta nguồn vốn tích cực để đi tới. [1]

Nguyễn Ninh, OP.

Đâu là những vấn đề nóng bỏng của thế giới trong những tháng cuối năm 2020? Đề tài dịch bệnh do covid 19 hẳn vẫn còn rất thời sự. Người ta không thể dự đoán được thời điểm sẽ ngăn chặn được dịch bệnh này, bởi sự biến thể phức tạp của chủng virus này. Mức độ nguy hiểm của nó ở nhiều nơi trên thế giới vẫn hết sức khủng khiếp.

Tuy nhiên, không vì vậy mà cuộc bầu cử tổng thống Mỹ giảm sức nóng. Các phương tiện truyền thông liên tục đưa tin về diễn biến cuộc bầu cử này. Cuộc bầu cử tổng thống của Mỹ năm nay, nói như Michael Warsaw, giám đốc của Mạng lưới Công giáo Toàn cầu EWTN, không hẳn chỉ đơn thuần để chọn ra một vị tổng thống, đằng sau đó bao hàm nhiều giá trị của nhân phẩm, triết học và tôn giáo. Một dẫn chứng cụ thể là ta thấy rõ hai lập trường đối lập của các đảng phái, phò sinh và ủng hộ phá thai trong cuộc bầu cử này. Xoay quanh vấn đề này, đã có khá nhiều cuộc nói chuyện của các vị chức trách trong Giáo hội, khẳng định lập trường của Giáo hội trong các vấn đề thuộc nhân phẩm và đức tin, qua đó kêu gọi người giáo dân hãy ý thức khi bỏ phiếu bầu một vị tổng thống.



Mở rộng ra, ta thấy nhiều vấn đề hiện nay trái nghịch với đức tin Công giáo, không chỉ diễn ra nơi đời sống giáo dân mà ngay cả trong hàng ngũ các vị chức trách trong Giáo hội. Báo điện tử Vietcatholic đưa tin một linh mục ở Ái Nhĩ Lan bị vạ tuyệt thông vì ủng hộ đồng tính luyến ái, phụ nữ được truyền chức linh mục. Một nữ tu cổ võ dân chủ, khi được hỏi nghĩ sao về chuyện người ta ủng hộ phá thai đã nói, không đến lượt tôi phải nói. Giáo hội Đức thì đem các giáo huấn của Giáo hội Công giáo ra bàn thảo, suy xét mà đức hồng y Rainer Maria Woelki cảnh báo có thể dẫn đến ly giáo v.v.

Tất cả những gốc rễ của các vấn đề đó, cả cuộc đời thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tiên báo và thao thức khắc khoải. Chính Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nói về những nỗ lực và đóng góp của thánh nhân như sau:Nhiệm kỳ Giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II có một sức mạnh ngoại lệ. Đó là một cuộc vật lộn chống lại tất cả những vấn nạn nền tảng của thời đại chúng ta và ngoài ra ngài còn tặng chúng ta nguồn vốn tích cực để đi tới.[2]

Những vấn đề trên đây của thời đại chúng ta hiện nay nguyên do vì đâu, hậu quả như thế nào và phải làm sao để giải quyết? Chúng ta cùng tìm hiểu quan điểm của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho những thách đố này.

1. Lý trí như một vườn địa đàng khác

Trước khi bắt đầu tìm hiểu về các vấn đề đang xảy ra trong xã hội và Giáo hội của chúng ta hôm nay dưới nhãn quan của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thiết tưởng chúng ta cần coi lại xu thế chung của thời đại trong việc tôn sùng lý trí như một chóp đỉnh của con người. Lý trí như một vườn địa đàng, trong đó con người là chủ và không có sự hiện diện của Thiên Chúa.

Quả vậy, lịch sử về một tiến trình đức tin của con người vào sự hiện hữu của Thiên Chúa chỉ thật sự gặp một cuộc biến đổi lớn chưa từng có trong những năm thế kỷ XVI, dẫn đến tình trạng thế tục hóa và chủ trương vô thần, phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa hiện nay. Biến cố đó bắt đầu từ thời cận đại nơi những hạt giống tư tưởng của triết gia Descartes được gieo vãi. Quả vậy, thời điểm từ triết gia Descartes trở về trước, niềm tin vào một Thiên Chúa toàn năng tuyệt đối, thống trị trên con người hầu như ngự trị trong đời sống người dân Tây phương. Tuy nhiên, Descartes đã đảo ngược vị trí đó, đưa con người lên trên Thiên Chúa, khi cho rằng, cái tôi lý trí con người là chủ thể nền tảng chắc chắn để biết chân lý. Thiên Chúa chỉ ở phía sau để bảo đảm cho lý trí con người không sai lầm. Thiên Chúa ở sau, cái tôi lên hàng đầu. Thiên Chúa mất ngôi chủ thể. Cái tôi là nền tảng chủ thể. [3]

Khi đề cao cái tôi và lý trí con người, Descartes đã đặt con người lên một vị trí cao hơn, quan trọng hơn, đồng thời hạn chế nại đến sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống con người. Điều này đã mở đường cho các trào lưu tục hóa và chủ trương vô thần, không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng khẳng định vị trí tuyệt đối của con người. Những người chủ trương tục hóa và vô thần cho rằng cần phải loại bỏ niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi đời sống con người, có như vậy thì con người mới tự do. Vả chăng, nếu có Thiên Chúa thì ngài cũng chỉ là vị Chúa lạnh lùng, xa cách, thờ ơ với con người, do đó con người phải rời bỏ Thiên Chúa để tự lập với lý trí và nhân cách của chính mình.[4]

Tiến trình tục hóa và chủ trương vô thần đề cao cái tôi lý trí và khẳng định vị thế vượt trội của con người trên Thiên Chúa. Tiến trình này có thể chia làm ba giai đoạn chính:

Thời kỳ Khai Sáng: Những con người trong thế kỷ XVII – XVIII dường như đã đưa lý trí lên một vị thế tuyệt đối, có quyền hạn trên cả đức tin. Lý trí là chân lý. Họ coi 1.000 năm trung cổ là đêm trường, là bức màn u mê. Khi dùng lý trí để xé toang bức màn đó, họ cho rằng mình đã được khai sáng, và nhờ lý trí, họ có thể giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống của con người. Bacon đã khẳng định: “Cứu cánh của cơ quan chúng tôi là Tri thức về các nguyên nhân và những chuyển động bí mật của mọi sự; và sự nới rộng biên giới lãnh vực của con người, để làm tất cả những gì có thể làm.”[5]

Thời Hiện đại: Nhưng rồi người ta cũng nghi ngờ và đặt lại vấn đề của thứ chân lý mà lý trí tuyệt đối nắm giữ. Quả vậy, có những lĩnh vực vượt ra ngoài khả năng của lý trí, chẳng hạn thế giới siêu việt, đức tin, sự hiện hữu của Thiên Chúa và lý trí không có quyền hạn để đụng vào những lĩnh vực đó. Như vậy, lý trí không còn giữ được vị trí tuyệt đối của nó nữa.[6] Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, được gọi là thời đại duy lý, người ta xét lại và thấy rằng, cái gì hợp lý, dựa trên suy luận theo phương pháp khoa học là chân lý.

Thời Hậu hiện đại: Bước sang thế kỷ XXI, cái lý tính, duy lý đó đã bị lung lay. Chẳng thể có cái gọi là hợp lý cho tất cả. Người ta gọi thời đại hôm nay là thời hậu sự thật. Chứng kiến sự đổ vỡ của những ý thức hệ từ trước tới nay, người ta chán nản việc tìm kiếm cái gọi là chân lý. Thôi thì bỏ cuộc, đừng tìm chân lý nữa. Đúng hơn, đừng coi trọng chân lý siêu hình mơ hồ nữa, cái quan trọng là cách diễn giải nó. Mọi vấn đề đều không quan trọng, chỉ ý kiến của tôi, cách nhìn nhận của tôi về vấn đề đó mới đáng lưu tâm và như vậy mỗi người nắm một thứ mà họ cho là chân lý của riêng mình. Như vậy, nền tảng chung từ trước tới nay đã bị bẻ vỡ vụn, và thay bằng một nền tảng riêng, hành động của con người tùy vào từng cá nhân riêng biệt. Tất cả chỉ mang tính tương đối.

Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II khi nhận xét về thời đại này đã không hẳn phủ nhận hoàn toàn mọi mặt của nó. Việc đề cao lý trí, phần nào đó đã  kéo sự chú ý đến con người, dành cho con người một sự tôn trọng. Nhưng ngài cho thấy nguy cơ là việc tìm kiếm Chân lý tối hậu dường như bị bê trễ. Khi đề cao con người thái quá, dường như lý trí quên mất chủ thể này phải hướng về một Chân lý trổi vượt hơn mình[7]. Mọi vấn đề của con người được giải đáp bằng một thứ chân lý phiến diện tạm bợ, bó buộc trong một mớ kiến thức, tùy theo hoàn cảnh, không dựa trên nền tảng Chân lý phổ quát về ý nghĩa hữu thể. Lý trí hoàn toàn tự do để hành động, không hề có một sự quy chiếu vào Chân lý phổ quát.

Con người phủ nhận khả năng của lý trí nhận biết Chân lý phổ quát.

Chỉ dựa vào lý trí, con người chấp nhận một thứ chân lý có vẻ phù hợp với lý trí con người và những gì vượt trên sự hiểu biết của lý trí thì cho là không thể biết được, hoặc không đáng bận tâm. Như vậy, đức tin không còn khả dụng nữa, thậm chí hoàn toàn bị loại trừ, tách bạch với lý trí. Quan điểm này dẫn con người đến chủ thuyết bất khả tri. Từ đó, chối bỏ có một chân lý phổ quát và khả năng nhận biết chân lý phổ quát của lý trí, được soi rọi bởi ánh sáng tự nhiên trong sự tin tưởng vào Chân lý phổ quát.

Thê thảm hơn, khi nhận ra sự bất lực của một lý trí đơn độc, đầy những giới hạn thì con người đã không còn biết bám vào đâu để tiếp tục tìm kiếm Chân lý, tìm kiếm ý nghĩa cuộc nhân sinh. Đứng trước nỗi trống trải, hoang mang tuyệt vọng đó con người buông mình vào chủ thuyết hư vô, lấy việc nghiên cứu như chính mục đích, không còn Chân lý nữa. Tìm kiếm lời giải đáp cho mọi vấn đề của con người bằng lý trí chỉ dẫn đưa con người đến một sự hoài nghi phổ quát, sự tuyệt vọng, nỗi trống trải, hư vô. [8]

Không nại đến một Chân lý phổ quát phát xuất từ Thiên Chúa nhưng dựa vào chính con người thì rồi cũng đổ bể. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II cho thấy, con người là hữu thể bất toàn, không tự túc nên mọi ảo tưởng tự lập tách biệt khỏi Thiên Chúa đều dẫn con người đến sự tự hủy hoại ghê gớm ý nghĩa nhân sinh. Ngài khuyến cáo: “Quả thật chính việc loại bỏ Thiên Chúa, là nguồn gốc tất cả mọi sự dữ hiện nay, từ việc phá hủy sự sống ngay lúc khởi đầu cho đến tất cả những bất công xã hội, qua việc mất ý thức về luân lý.”[9]

Cuộc cách mạng trí tuệ đã khiến con người ảo tưởng về sức mạnh của mình, đâm ra tôn thờ con người, đã đặt nền móng cho một cuộc giải trừ Thiên Chúa. Từ đó mà phát sinh ra nhiều sai lầm trong việc định nghĩa về chân lý và dẫn đến những sai lạc trong hành động nơi nhân loại. Một xã hội đề cao lý trí và chối bỏ Thiên Chúa đã gặp phải những hủy hoại khủng khiếp mà con người thấy rõ qua các chế độ độc tài trong thế kỷ XX. Xã hội hôm nay, một xã hội hỗn độn đặt trên nền tảng của ngẫu tượng, lôi kéo con người xa rời Thiên Chúa, dẫn đến vô vàn cái ác mà chúng ta bắt gặp đầy rẫy trong đời sống.

Một khi các giá trị nhân phẩm không còn được đặt trên nền tảng của một hữu thể đặt trong tương quan với Thiên Chúa là Chân lý phổ quát, thì ngay cả vị thế của nhân phẩm theo chủ trương nhân văn cũng đổ bể. Ngày nay nhân phẩm con người nhiều khi bị đánh đồng với giá trị các loại dụng cụ. Con người như món hàng. Chân lý về con người chỉ là những thuật toán sinh hóa phức tạp. Điều này càng dẫn đến nguy cơ của một cuộc hạ giá nhân phẩm trầm trọng nhất. Nếu thế kỷ XVIII con người hất cẳng Chúa và lấy chính mình làm trung tâm thì trong thế kỷ XXI, chính con người bị hất cẳng vì con người không còn là trung tâm nữa, mà là công nghệ, dữ liệu và các thuật toán sẽ kiểm soát, điều khiển cả con người. [10]

Nhưng đừng quên, con người có khả năng nhn biết Chân lý phổ quát.

Đối lại với các chủ thuyết trên, Đức Gioan Phaolô II khẳng định có một Chân lý phổ quát và Chân lý đó có thể được con người nhận biết nhờ sự kết hợp của đức tin và lý trí. Ngài mượn lời thánh Tôma Aquinô, chân lý là sự tương hợp giữa lý trí và thực tại. Chẳng hạn ta nghĩ trong đầu hôm nay là thứ hai và đúng hôm nay là thứ hai, thì đó là chân lý. Như vậy, có nhiều chân lý ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Chân lý trong kinh nghiệm đời sống thường ngày, trong các lĩnh vực khoa học, triết học, nhân văn, tôn giáo v.v. Nhưng bao trùm lên tất cả những chân lý đó là một Chân lý tuyệt đối, phát xuất từ Thiên Chúa, được mặc khải trọn vẹn nơi chính Đức Giêsu Kitô và được Giáo hội giảng dạy vì Giáo hội đã được Thiên Chúa trợ giúp và linh hứng.[11] Chân lý đó phải là điểm quy chiếu cho sự sống con người.

Ngài nhấn mạnh: “Phải đinh ninh là con người có khả năng nhận biết chân lý, thứ nhận biết đạt tới chân lý khách quan, vì chân lý là sự tương hợp giữa sự vật và trí tuệ.” [12] Trong đó, lý trí đóng một vai trò quan trọng để nhận biết chân lý. Tuy nhiên, lý trí trong việc tìm kiếm chân lý, luôn phải hướng về chân lý bằng ánh sáng tự nhiên của chính lý trí và bằng một tương quan chắc chắn với đức tin, với ân sủng.

2. Lý trí tự do vượt ra khỏi hàng rào của nó 

Sau khi đề cao lý trí, đưa lý trí lên một tầm cao không chỉ cắt đứt mọi liên hệ giữa lý trí với đức tin, con người còn cấp cho lý trí một thẩm quyền tự lập vượt trên Chân lý phổ quát. Cũng trong luồng tư tưởng đề cao tự do đó, với lý do nhân bản, bảo vệ đời sống Kitô hữu trước những thay đổi thời đại, thích ứng với nền văn hóa biệt loại, một số thần học gia chủ trương cho con người được tự do hơn trong những phán đoán về hành vi luân lý. Theo đó, họ phân biệt “một cấp trật đạo đức (unordre éthique) sẽ chỉ bắt nguồn từ con người và sẽ chỉ có giá trị trần thế với một cấp trật cứu độ (ordre du salut) mà chỉ một số ý hướng và thái độ bên trong đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân mới quan trọng mà thôi.”[13]

Từ đó, dẫn đến quan điểm xem chân lý phổ quát nơi Thiên Chúa là những luật chung, dừng lại ở một tầm mức nào đó, còn đi vào chi tiết các nền văn hóa, các cá nhân, các hoàn cảnh khác nhau thì dựa vào lý trí con người mà đưa ra quyết định cụ thể. Và vì vậy, thẩm quyền của Giáo hội chỉ dừng lại ở mức đưa ra lời khuyên, còn lựa chọn và quyết định cụ thể sẽ tùy lương tâm mỗi cá nhân.

Một hệ luận trực tiếp suy ra từ đó là việc tạo ra một hệ thống luân lý không phát xuất từ chân lý tối thượng là Thiên Chúa mà chỉ phát xuất từ con người, thuần túy nhân bản. Con người làm lơ đi trước Chân lý phổ quát, và hài lòng với những giải pháp tương đối của mình. Với tôn giáo, người ta quan niệm đạo nào cũng như nhau, đều dạy con người ăn ngay ở lành. Xa hơn, người ta thừa nhận sự đa chiều, thậm chí đối lập của của nhận thức. Theo đó, mọi nhận thức đều đúng, đều có giá trị, ít là với chủ thể nhận thức. Nghiêm trọng hơn, do bản tính bất toàn, yếu đuối, con người luôn có thể đưa ra những phán đoán và hành vi đối nghịch với Chân lý. Tính tương đối trong các lựa chọn dẫn con người đến thái độ xem một số cái đối nghịch với Chân lý là có thể chấp nhận được.

Có thể với các Kitô hữu, khi tìm cách thực hiện điều mà họ gọi là lựa chọn tương đối, thì họ không công khai chống lại các luật lệ phát xuất từ Thiên Chúa, như một chủ trương của chủ nghĩa vô thần, nhưng có nguy cơ họ không ưu tiên chọn lựa tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối của Thiên Chúa.[14]

Phải hiểu tự do như thế nào?

Với quan điểm về tự do của lý trí nơi các thần học gia trên đây, Đức Gioan Phaolô II đã dứt khoát phản bác, ngài cho thấy lối lập luận đó sẽ dẫn tới sự phủ nhận những chân lý luân lý được Thiên Chúa mặc khải và “một quan niệm như thế về tính chất tự lập sẽ tức khắc dẫn đến chỗ phủ nhận thẩm quyền đặc biệt của Giáo hội và bất khả dung hợp với học thuyết Công giáo.”[15]

Ngay phần bàn về tương quan giữa tự do và luật luân lý, ngài đã nêu lên câu chuyện trong Cựu Ước. Thiên Chúa cấm Ađam và Eva ăn trái của cây biết lành biết dữ. Con người có tự do ăn trái cây trong vườn, nhưng không phải là vô hạn, vì không được ăn trái cây biết lành biết dữ (St 2,16-17). Điều đó cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền quyết định sự thiện và sự dữ. Ngài nêu lên một nguyên tắc căn bản: “quyền quyết định điều thiện điều dữ không thuộc về con người nhưng thuộc về Thiên Chúa mà thôi.[16] Con người chỉ dự phần vào đó bằng sự hiểu biết của lý trí và ơn sủng mặc khải, để nhờ đó nhận ra những đòi buộc và mời gọi của Khôn Ngoan vĩnh cửu. [17]

Nói như vậy, không có nghĩa là thánh Giáo hoàng phủ nhận sự tự do của lý trí. Trái lại, ngài cho thấy Thiên Chúa đã ban cho con người tự do và tự do đó đã được Thiên Chúa coi trọng. “Thiên Chúa đã muốn để cho con người tự bàn bạc với chính mình” (Hc 15, 14). Nhưng tự bàn bạc với chính mình không có nghĩa là tự lập với Thiên Chúa mà là dùng lý trí của chính mính, lý trí vốn được ánh sáng tư nhiên soi chiếu, lý trí vốn bắt nguồn và quy hướng về Thiên Chúa để tìm kiếm Chân lý. Do vậy, sự tự do ở đây phải được đặt trong một sự quy hướng về chuẩn mực phổ quát.

Quả vậy, lý trí con người lệ thuộc sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Hơn nữa, lý trí con người bị giới hạn và ràng buộc bởi bản tính mang nơi nó sự yếu đuối. Con người nỗ lực thoát ra khỏi những ràng buộc, giới hạn của một thụ tạo, để được tự do tìm kiếm, đạt được sự tương ứng nơi Chân lý phổ quát, là chính sự khôn ngoan của Thiên chúa, đấng duy nhất tốt lành. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Anh em sẽ nhận biết Chân lý và Chân lý sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32). Theo học thuyết của Giáo hội, “chỉ có tự do tuân phục Chân lý mới dẫn con người tới sự thiện đích thực của con người. Sự thiện của con người, đó là ở trong Chân lý và làm theo Chân lý.”[18]

3. Mở cổng nơi hàng rào đức tin

Sau khi đã cấp cho lý trí một thẩm quyền tự do vượt ra ngoài giới hạn của nó, người ta nhận ra rằng tự do lắm lúc đã thật sự không thể kiểm soát được nữa, gây ra những hệ lụy xấu vì sự buông tuồng của nó. Điều đáng nói là họ không tìm cách để xét lại cái tự do rộng rãi đó. Thay vì vậy, người ta tìm cách biện minh cho nó, bằng cách cố gắng kéo đức tin xuống gần nó hơn, bằng cách mở toang cái hàng rào giữ gìn đức tin, bằng cách “biến đổi đức tin và nội dung của nó (…) thành những cơ cấu biện lý có thể quan niệm cách hữu lý.” [19]

Ngày nay, ngay cả trong thần học, cũng có một khuynh hướng uốn mình theo tư tưởng hợp lý hóa đó. Xét các vấn đề về đức tin trên một nền tảng hợp lý của lý trí được coi như có vẻ chắc chắn và thịnh hành nơi ngôn ngữ và văn hóa đương thời. Nhất là về mặt triết học, có một sự ngộ nhận về các trào lưu triết học hiện nay, xem triết học như một quy chiếu để nghiên cứu thần học.[20] Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là Bộ giáo lý đức tin đã can thiệp để khuyến cáo một số nhà thần học giải phóng ủng hộ một số lập trường của chủ thuyết Mac-xit để đấu tranh cho công bằng và xã hội ở Nam Mỹ. Ngoài ra, hiện nay ta còn thấy rõ sức ảnh hưởng của các chủ thuyết nhân văn, hiện sinh và tương đối lên một số quan điểm thần học về vấn đề nữ quyền, giới tính, sự sống v.v. nhưng bất dung hợp với Huấn quyền của Giáo hội.

Ngài cũng cảnh báo, xảy ra điều đó là vì một số thần học gia thiếu sự hiểu biết thật sự về triết học, họ tìm cách nối kết Tin Mừng với cuộc sống hiện tại bằng một số tư tưởng đang thịnh hành và có vẻ như là hợp lý mà thiếu sự hiểu biết thật sự để phê bình nó. Họ chấp nhận sử dụng nhiều quan niệm triết học khác nhau theo lối chiết trung, tức dung nạp một cách máy móc, mà không đặt nó trong nguồn gốc, bối cảnh lịch sử hay tính mạch lạc tổng thể của nó. Điều đó có nguy cơ khiến họ không phân biệt được phần nào thích hợp phần nào không thích hợp, phần nào là chân lý phần nào là sai lầm có thể có nơi nó. [21]

Quan điểm hợp lý kiểu này “gây ra sự thất tín vào mọi cách viện lý cho đức tin.”[22] và rõ ràng phủ nhận sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và biết cái gì tốt cho con người. Đi tìm một giải pháp hợp lý người ta sống trong một thế giới tục hóa, như không có sự hiện hữu của Thiên Chúa. “Người ta đưa ra cái mà người ta gọi là những tình huống cụ thể, vì trong thâm tâm người ta không còn tin rằng Luật Thiên Chúa thì luôn mãi là sự thiện chân thật duy nhất của con người”.[23]

Thêm nữa, hoài nghi về tính phổ quát và trường tồn của Chân lý, họ đem các Giáo huấn của Giáo hội ra bàn thảo, bỏ phiếu như thể một bộ luật xã hội chính trị của con người trong một quốc gia. Các Giáo huấn của Giáo hội chỉ đơn giản được xem là còn thích hợp hay không còn thích hợp với xã hội địa phương hiện tại. Thế nhưng, khi tìm cách hợp lý hóa các chân lý đức tin thì không những họ gạt bỏ thẩm quyền của Giáo hội, mà sâu xa hơn là gạt bỏ Thiên Chúa. “Không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để ta làm vua của chúng” (1Sm 8,7).

Đức tin và lý trí là đôi cánh nâng con người lên Chân lý

Đối lại quan điểm thần học trên đây, Đức Gioan Phaolô II nêu lại tuyên bố dứt khoát rõ ràng của Công đồng Vatican I. “Những tín hữu chẳng những không được bảo vệ những ý kiến bị coi là nghịch với đức tin như là những kết luận hợp pháp của khoa học, nhất là khi những ý kiến ấy đã bị Giáo hội luận phi, trái lại phải coi chúng như những sai lầm ngụy trang dưới bộ dạng chân lý.”[24] Qua đó, ngài khẳng định một cách chắc chắn về Chân lý và Huấn quyền của Giáo hội, đồng thời yêu cầu phải “phân biệt rõ ràng giữa những mầu nhiệm đức tin và và những khám phá triết học, cũng như sự siêu việt và ưu tiên của những mầu nhiệm đức tin đối với những khám phá triết học.” [25]

Ngài cho thấy đức tin Kitô giáo không chỉ là một tập hợp những luật lệ để cho lý trí xem xét và chuẩn nhận. Đức tin là một sự nhận thức và sống kinh nghiệm sống của Đức Kitô. Đức tin đó phải được đưa ra hành động theo sự xác tín của nó. Tin vào Đức Kitô và sống theo Đức Kitô. “Đức tin mà không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17). “Ai nói mình biết Chúa mà không giữ các giới răn của Người thì chỉ là kẻ nói dối. Và chân lý không ở nơi người ấy” (1 Ga. 2,4).[26]  Đàng khác, “lý trí tự nhiên không bao giờ có thể thấu hiểu những mầu nhiệm cũng một cách như những chân lý thuộc về đối tượng riêng của nó.”[27]

Tuy nhiên, dù đức tin vượt trên lý trí nhưng không bao giờ có sự xung khắc giữa đức tin với lý trí, vì “cũng một Thiên Chúa mặc khải những mầu nhiệm và thông ban đức tin là Đấng ban ánh sáng của lý lẽ xuống trong trí khôn nhân loại. Thiên Chúa không phủ nhận chính mình cũng như Chân lý không bao giờ tương phản với Chân lý.[28]. Đức tin và lý trí giúp con người đạt đến chân lý và không thể có cái này mà không có cái kia. Lý trí mà thiếu trợ lực của đức tin thì chỉ dừng lại ở những điều ngắn hạn, tạm bợ vụn vặt mà ngài gọi là những con đường nhánh, không thể đi đến tận cùng con đường cứu cánh, con đường chân lý tuyệt đối. Đức tin mà không có lý trí thì dễ lầm lạc mê tín.

Đức Gioan Phaolô II không phủ nhận vai trò của lý trí. Trái lại, ngài đề cao vai trò của lý trí, ngay trong việc xét lý trí dưới lĩnh vực riêng biệt, tự lập của nó. Cuộc cách mạng lý trí trí đã đem lại cho con người nhiều thành tựu về mặt khoa học, đồng thời nó cũng kéo sự chú ý đến con người, cố gắng xây dựng cuộc sống con người xứng đáng hơn, cổ võ phát triển văn hóa, lịch sử v.v. Thật vậy, ngài đã nêu lên tầm quan trọng của lý trí trong việc tìm kiếm chân lý thuộc thẩm quyền riêng của lý trí khi nhắc lại giai đoạn thời trung cổ, lý trí đã được các vị thánh lớn của Giáo hội đưa lên một vị trí trổi vượt hẳn so với các thời kỳ trước đó. Khởi đi từ thánh Albeto Cả và thánh Tôma Aquinô, là “những người đầu tiên nhìn nhận quyền tự quyết cần thiết để triết học và khoa học hoạt động cách hữu hiệu trong lĩnh vực liên hệ.[29]

Hơn nữa, ngài đề cao vai trò của lý trí, không chỉ vì nó đã đem lại một sự phát triển vượt bậc từ những cuộc cách mạng công nghiệp, cách mạng tri thức nhưng còn bởi vị thế của nó trong khả năng nhận biết Chân lý thiện hảo.

Thật vậy, lý trí trong ánh sáng tự nhiên là lý trí luôn khao khát và hy vọng để đạt tới chân lý. Trong khoa học thực nghiệm, lý trí của nhà khoa học luôn nỗ lực cách hăng say và yêu mến để đạt được điều họ tin là có thể, khi họ ra công tìm hiểu nó. Điều đó cũng tương tự trong hành trình đi tìm Chân lý tối hậu của lý trí, luôn khao khát, yêu mến cách chân thành cùng một niềm tin vững mạnh.[30] Ngài trích lại lời thánh Tôma: “Lý trí được đức tin soi sáng được giải thoát khỏi những mong manh và những giới hạn phát sinh do sự bất tuân của tội lỗi, và tìm được sức mạnh cần thiết để vươn mình lên đến chỗ nhận biết chân lý.”[31]

Sự kết hợp hài hòa giữa đức tin và lý trí, sẽ giúp cho con người đạt đến Chân lý, cụ thể là đưa ra những giải pháp khả dĩ:

Dung hòa được yếu tố tự nhiên và đặc tính siêu nhiên, tính cách phàm tục của thế giới và tính cách triệt để của Tin Mừng, như vậy là tránh được khuynh hướng phản thiên nhiên, chối bỏ thế giới và những giá trị của nó, nhưng không vì thế mà xúc phạm đến những yêu sách tối cao và bất khuất của lãnh vực siêu nhiên.[32]


Tạm kết

Ký giả Peter Seewald trong cuộc phỏng vấn đức Bênêđictô XVI đã cho rằng thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II là đá tảng của thế kỷ XX, là vị giáo hoàng ảnh hưởng trên Giáo hội mạnh hơn nhiều vị tiền nhiệm khác. Quả vậy, trong suốt 26 năm triều giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô đã làm nhiều việc để bảo vệ Chân lý, bảo vệ Giáo hội trước làn sóng tấn công của thế tục hóa, cũng như cổ võ các giá trị của Tin Mừng, xây dựng một nền văn mình tình thương trước một thế giới đang lao theo nền văn minh của sự chết. Những cảnh báo của ngài về một thế giới khủng hoảng xem ra ngày càng ứng nghiệm hơn. Ứng nghiệm hơn bởi những gì ngài cảnh báo đang xảy ra ngày càng nhiều, ở một mực độ quyết liệt hơn và trên một bình diện rộng lớn hơn. Thiết nghĩ, trước làn sóng tấn công liên tục của trào lưu tục hóa, Giáo hội lại phải lần giở lại những tâm tư và khắc khoải của thánh nhân, để đương đầu với thử thách và để sống chứng tá người Kitô hữu trong thế giới hôm nay.



[1] Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và trần thế, Dg. Phạm Hồng Lam (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011), tr. 450.

[2] Bênêđictô XVI, Thiên Chúa và trần thế, Dg. Phạm Hồng Lam (Hà Nội: Tôn Giáo, 2011), tr. 450.

[3] X. Dominique Morin, Gọi tên Thượng đế, Dg. Đặng Xuân Thành và Nguyễn Anh Tuấn (Hà Nội: Phương Đông, 2008), tr. 114 – 116.

[4] X. Dominique Morin, sđd., tr. 117.

[5] Will Durant, Câu chuyện triết học, Dg. Trí Hải và Bửu Đích (Hà Nội: Hồng Đức, 2014), tr. 136.

[6] X. Will Durant, sđd., tr. 211 - 212.

[7] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 5. Bản dịch Việt ngữ trích từ: http://catechesis.net/thong-diep-fides-et-ratio-duc-tin-va-ly-tri-cua-dgh-gioan-phaolo-ii-ngay-14-09-1998-1/

[8] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 81.

[9] Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin tưởng và hy vọng, số 8. HVĐM

[10] Yuval Noah Harari, Lược sử tương lai, Dg. Dương Ngọc Trà (Hà Nội: Thế Giới, 2019), tr. 463.

[11] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin tưởng và hy vọng, số 21.  

[12] Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 82.

[13] Gioan Phaolô II, Thông điệp Ánh rạng ngời chân lý (1993), số 37. Bản dịch Việt ngữ trích từ: https://xuanbichvietnam.wordpress.com/ 2009/06/10/ veritatis-splendor/

[14] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin tưởng và hy vọng, số 179. HVĐM

[15] Gioan Phaolô II, Thông điệp Ánh rạng ngời chân lý (1993), số 37.

[16] Ibid., số 35.

[17] X. Ibid., số 41.

[18] Gioan Phaolô II, Thông điệp Ánh rạng ngời chân lý (1993), số 84.

[19] Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 46.

[20] X. Ibid., số 55.

[21] X. Ibid., số 86.

[22] Ibid., số 45.

[23] Gioan Phaolô II, Thông điệp Ánh rạng ngời chân lý (1993), số 84.

[24] Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 55.

[25] Ibid., số 53.

[26] Gioan Phaolô II, Thông điệp Ánh rạng ngời chân lý (1993), số 88.

[27]  Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 55.

[28] Ibid., số 53.

[29] Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 45.

[30] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Đức tin và lý trí (1998), số 29.

[31] Ibid., số 43.

[32] Ibid., số 43.

 

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn