Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
là một người có nhân cách vĩ đại,
được nhiều người yêu mến và trân trọng.
Một mặt, ngài trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô
đã được các Tông đồ truyền lại
và được Huấn quyền của Giáo Hội chấp nhận.
Mặt khác, ngài cũng đem đến một luồng sinh khí tươi mới
vào trong Giáo Hội qua việc gặp gỡ với Thiên Chúa,
gặp gỡ với người trẻ, gặp gỡ đoàn chiên
và gặp gỡ những người có thiện chí muốn xây dựng hòa bình.
Dom. Trí Dũng, OP.
Đức Giáo hoàng Phanxicô nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu rằng:
Thánh Gioan Phaolô
II là một món quà đặc biệt từ Thiên Chúa đến cho Giáo Hội và cho Ba Lan, quê
hương của ngài. Cuộc hành hương trần thế của ngài - bắt đầu vào ngày
18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice và kết thúc cách đây 15 năm tại Rôma -
được đánh dấu bằng niềm đam mê cuộc sống và niềm say mê đối với mầu nhiệm của
Thiên Chúa, thế giới và con người.[1]
Suốt những
năm tháng còn tại thế, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã dùng những ân huệ
Thiên Chúa ban để thu hút, để lôi kéo và để hướng dẫn nhiều người tìm về với
Đấng là Chân-Thiện-Mỹ. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ngài, người viết
xin được điểm qua một số
điểm nổi bật trong cuộc đời của vị thánh đáng tôn kính này.
Đôi
nét tiểu sử thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II tên thật là Karol Wojtyla, sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920
tại Wadowice, Ba Lan. Cha của ngài, cũng tên là Karol, là một trung úy quân đội
Ba Lan, và mẹ của ngài là Emilia là một giáo viên của trường. Hai người có ba
người con: Edmund năm 1906; Olga, người chết ngay sau khi sinh; và Karol, được
đặt tên theo cha của mình, vào năm 1920.
Karol là
một người vui tươi, một sinh viên giỏi và một diễn viên đầy khát vọng. Sau khi
tốt nghiệp trung học, cậu đăng ký vào Đại học Jagiellonian ở Krakow và vào một
trường kịch nghệ vào năm 1938. Lực lượng chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Ba Lan đã
đóng cửa trường đại học vào năm 1939, và chàng trai trẻ Karol phải làm việc
trong một mỏ đá trong bốn năm, sau đó ở nhà máy hóa chất Solvay để kiếm sống và
tránh bị trục xuất sang Đức. Tệ hơn nữa, Karol đã mất toàn bộ gia đình ruột
thịt khi vẫn còn là một chàng trai trẻ. Mẹ mất năm 1929; anh trai Edmund-một
bác sĩ mất năm 1932 và cha ngài mất năm 1941.
Năm 1942,
nhận thức được lời kêu gọi để làm linh mục, ngài bắt đầu các khóa học tại chủng
viện bí mật của Krakow do Hồng y Adam Stefan Sapieha, Tổng Giám mục Krakow điều
hành. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, ngài tiếp tục theo học tại đại Chủng
viện Krakow sau khi Chủng viện này mở cửa trở lại, và học trong khoa thần học
của Đại học Jagiellonian. Ngài được truyền chức linh mục tại Krakow vào ngày 1
tháng 11 năm 1946.
Vào ngày 13
tháng 1 năm 1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã bổ nhiệm ngài làm Tổng giám mục
Krakow, và sau đó làm Hồng y vào ngày 26 tháng 6 năm 1967. Được bầu vào năm
1978, ngài là vị Giáo hoàng không phải người Ý đầu tiên sau 455 năm.[2] Sau 27 năm trong cương vị Giáo
hoàng, ngài qua đời tại Vatican ngày 02 tháng 04 năm 2005, lúc 21 giờ 37 phút.
Từ chiều hôm ấy cho đến lễ an táng của ngài vào ngày 08 tháng 04, đã có hơn ba
triệu khách hành hương đến Rôma để kính viếng, dù phải xếp hàng chờ đợi cả 24
giờ mới có thể vào được bên trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Điều ấy
cho thấy sự thánh thiện và sức lôi cuốn của ngài mạnh mẽ thế nào đối với toàn
thể Giáo Hội Công Giáo và nhiều người trên mọi người.
Chúa nhật,
ngày 27 tháng 4
năm 2014, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã long trọng tôn phong hai vị tiền nhiệm là
Đức Giáo hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II lên bậc hiển
thánh, trước sự tham dự rất đông đảo của các Hồng y, Giám mục, Linh mục, giáo
dân và đông đảo mọi người thiện chí đến từ các nước.[3]
Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II, vị thánh Giáo Hoàng yêu mến người trẻ
Hiếm có vị
Giáo Hoàng nào được các bạn giới trẻ yêu mến như thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II. Dù tuổi tác của ngài cao hơn nhiều so với các bạn giới trẻ, nhưng đó không
phải là một cản trở cho việc gặp gỡ và đối thoại. Họ tìm đến với ngài vừa để
học hỏi sự khôn ngoan thông thái với tư cách ngài là người thuộc về Chúa, vừa
để tìm được sự đồng cảm và nâng đỡ cho đời sống đức tin. Không chỉ các bạn giới
trẻ Công Giáo mà còn rất nhiều người có thiện chí đều quý mến và cảm phục nhân
cách của một con người có đời sống thấm đượm tinh thần Tin Mừng.
Ngài có sáng
kiến lập ra ngày Đại hội Giới trẻ Quốc tế để quy tụ các bạn trẻ trong nỗ lực
đồng hành và thăng tiến đời sống đức tin của họ. Quả thế, nguồn gốc của Đại hội
Giới trẻ Thế giới gắn liền với hai sự kiện đặc trưng, trong đó những người trẻ
là những nhân vật chính. Đó là Năm Thánh năm 1984 và năm Thanh niên Quốc tế năm
1985. Nhằm đáp ứng lời thỉnh
nguyện của nhiều người trẻ về việc Giáo Hội nên có những tiếp xúc và hướng dẫn
người trẻ nhiều hơn trong hành trình đức tin, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
trao cho giới trẻ Thánh Giá, là một biểu tượng của Năm Thánh. Thánh giá này đã
trở thành Thánh Giá của thanh niên, Thánh giá của Đại hội Giới trẻ thế giới.
Đại hội Giới trẻ Thế giới năm 1986 tại Ý là Đại hội
Giới trẻ Thế giới đầu tiên sau khi biến cố này chính thức được thiết lập trong
Giáo Hội và đã được tổ chức ở cấp giáo phận với chủ đề “Hãy luôn sẵn sàng trả lời cho
bất cứ ai chất vấn về Niềm Hy Vọng của anh em” (1 Pr 3,15). Một năm sau đó, năm 1987, Đại hội Giới trẻ thế giới đầu
tiên bên ngoài Rôma đã diễn ra vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá tại Buenos Aires, nước
Argentina với chủ đề: “Chúng ta đã nhận biết Tình Yêu Thiên Chúa
nơi chúng ta và chúng ta đã tin vào Tình Yêu ấy” (1 Ga 4,16). Đây là
Đại hội Giới trẻ Thế giới cấp quốc tế đầu tiên quy tụ giới trẻ ở Buenos Aires
để gặp gỡ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Trong bài nói chuyện với các bạn trẻ,
ngài phát biểu như sau: “Cha nhắc lại điều mà các con đã biết. Cha đã từng nói
kể từ ngày đầu tiên trong triều đại Giáo hoàng của cha rằng: các con là niềm hy
vọng của Giáo Hội”. Đại hội Giới trẻ Thế giới này đã thu hút hơn một triệu
thanh niên.
Đại hội Giới trẻ Thế giới năm 2002 tại Toronto với
chủ đề “Các con là Muối cho đời… Các con là Ánh sáng cho trần gian.”
(Mt 5,13-14). Đây là Đại hội cuối cùng do Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II chủ sự. Đức Thánh Cha đã đề cao sức mạnh của tuổi
trẻ như sau:
Hỡi tinh thần của tuổi trẻ, tinh thần của tuổi trẻ! Mặc dù
cha đã từng sống giữa bóng tối, dưới chế độ độc tài toàn trị khắc nghiệt, nhưng
cha vẫn có đủ lý trí tự thuyết phục chính bản thân mình một cách vững vàng mà
không chùn bước hay sợ hãi khi hoàn toàn tin tưởng rằng niềm hy vọng luôn chảy
tràn trong trái tim các bạn trẻ mà không bị bóp nghẹt.[4]
Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II -
con người yêu thích cầu nguyện
Thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II là chứng nhân Kitô giáo vĩ đại của thời đại chúng ta.
Ngài là gương mẫu về một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Chúa Giêsu Kitô và
Giáo Hội. Thánh nhân là người có đời
sống cầu nguyện sâu sắc, hết lòng yêu mến và tin cậy Thiên Chúa, đồng thời cũng
có lòng sùng kính sâu sắc đối với Đức Maria. Lần chuỗi Mân Côi là một trong
những việc cầu nguyện yêu thích của ngài, và thậm chí ngài còn mang lại cho
Giáo Hội một phương pháp mới để chiêm nghiệm những chân lý về Chúa Giêsu dưới
hình thức các Mầu nhiệm Sáng của Kinh Mân Côi.
Giống như
thánh Têrêxa thành Calcutta, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng từng trải
qua thời kỳ tăm tối và nghi ngờ. Trong cuốn nhật ký cá nhân của mình, ngài cho
hay đôi khi ngài đau khổ về việc liệu mình có làm đủ để phụng sự Chúa hay
không. Ngoài những đau khổ về tinh thần, Đức Giáo hoàng còn phải chịu đựng đau
khổ nơi thân xác sau vụ tấn công của kẻ khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ ngày 13 tháng 5 năm
1981. Trong vài năm
cuối đời, ngài cũng gặp phải các vấn đề sức khỏe khác dưới dạng bệnh Parkinson
nghiêm trọng. Điều đáng chú ý nhất là thánh nhân đã có thể vượt qua những thời
kỳ đen tối đó nhờ cầu nguyện.
Trước mỗi
chuyến công du, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cầu nguyện rất nhiều và xưng
tội trước khi đi công du. Ngài vẫn giữ thói quen rất lành thánh là xưng tội
hàng tuần. Ngài cổ võ mạnh mẽ cho việc tôn sùng Thánh Thể. Khi phải viết về
những giáo huấn liên quan đến đức tin, ngài thường quỳ gối viết trước Thánh
thể. Ngài đã đi đến 129 quốc gia với mục tiêu loan báo Tin Mừng và tạo nên sự
hiệp nhất trong Giáo Hội. Ngoài ra, những cuộc thăm viếng của ngài còn giúp gia
tăng việc đối thoại giữa Đạo Công Giáo với các tôn giáo khác cũng như với thực
tại chính trị- xã hội ngay trong quốc gia đó. Đó là lý do tại sao các cuộc hành
hương này luôn tập trung vào các nghi thức phụng vụ, lời cầu nguyện, tôn sùng
Thánh Thể, tập họp đại kết và liên tôn. Tất cả những điều này là một phần không
thể thiếu trong các chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng này.
Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II -
Vị Giáo hoàng có tầm nhìn mở rộng với thế giới
Tương tác
với thế giới là một trong những nét nổi bật trong đời sống của thánh Giáo
hoàng. Ngài đã gặp gỡ
hàng chục nhân vật chính trị danh tiếng, trong 38 chuyến thăm chính thức, 738
cuộc tiếp kiến và các cuộc gặp được tổ chức với các nguyên thủ quốc gia, bao
gồm cả với các Tổng thống và Thủ tướng các nước. Ngài được phần lớn nhà lãnh
đạo chính trị thế giới kính trọng vì tính chính trực, minh bạch và niềm nở
trong cung cách sống và làm việc.
Mặc dù rất
có tài khéo về chính trị, nhưng ngài hiểu rõ vai trò chính của mình chủ yếu là
một nhà lãnh đạo tâm linh, là một chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa, hơn
là một chính khách. Vì lẽ đó, Đức Gioan Phaolô II nỗ lực trong việc đối thoại
và hòa giải với người Do Thái và đại diện của các tôn giáo, bằng việc mời gọi
họ đến những Cuộc Gặp Gỡ Cầu Nguyện cho Hòa Bình, cách đặc biệt tại Assisi. Nhờ
những cuộc đối thoại như thế, có rất nhiều sáng kiến cũng như những cộng tác và
liên đới chung được thúc đẩy vì lợi ích chung của cộng đồng.
Một trong số những dấu ấn quan trọng trong
triều đại Giáo hoàng của thánh Gioan Phaolô II là việc làm suy yếu và dẫn đến
việc sụp đổ chế độ Cộng sản ở Đông Âu. Các bài phát biểu của thánh nhân tại quê
hương Ba Lan trong chuyến thăm năm 1979 - một trong những chuyến thăm đầu tiên
bên ngoài nước Ý mà ngài thực hiện với tư cách là Giáo hoàng có tầm ảnh hưởng
lớn đối với người dân Ba Lan khi đó. Đất nước Ba Lan lúc đó nằm dưới sự cai trị
của đảng Cộng sản. Thế nhưng, Đạo Công giáo vẫn đóng vai trò trung tâm trong
niềm tin của phần lớn người dân Ba Lan, bất chấp những nỗ lực của những người
Cộng sản nhằm loại bỏ đức tin này. Khi đó, ngài nói với người dân của mình về
văn hóa Ba Lan, về những gì đã tạo nên căn tính của người Ba Lan. Và trung
tâm của điều đó, tất nhiên, ngoài một lịch sử đặc biệt, ngôn ngữ đặc biệt, văn
học đặc biệt; ngài nhấn mạnh đến tính mạnh mẽ trong đức tin Công giáo của người
dân Ba Lan. Tác động chính của Giáo hoàng đối với thế giới nói chung và đối với
người dân Ba Lan nói riêng là tạo ra một cuộc cách mạng lương tâm. Cuộc cách
mạng này sau đó trở thành một trong những động lực chủ yếu cho cuộc cách mạng
bất bạo động năm 1989 và cho sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu.
Như thế,
thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II là một con người của đối thoại và của việc
kiến tạo sự hòa bình và công lý. Đây cũng chính là những giá trị căn bản mà
giáo huấn của đức tin Kitô giáo truyền dạy.
Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II -
Người lan tỏa sự thánh thiện của Chúa đến mọi người
Một trong
số những nét đặc biệt trong Triều đại Giáo hoàng của thánh Gioan Phaolô II là
việc khám phá lại vẻ đẹp của sự thánh thiện. Sự thánh thiện cốt tại việc hiệp thông với Thiên Chúa, với
Chúa Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chính nhờ sự hiệp thông này,
con người vươn lên khỏi những bợn nhơ của kiếp nhân sinh và có đủ sức thiêng để
nối tiếp sứ vụ của Chúa Giêsu, tức là sứ vụ loan báo Tin Mừng hầu cứu độ thế
giới. Chính vì thế, thánh Giáo hoàng dành nhiều thời gian để cầu nguyện.
Cầu nguyện là nền tảng mọi hoạt động nhân bản và mục vụ
của Đức Gioan Phaolô II. Hiện nay, khi đã lên ngôi giáo hoàng, dù bận bịu biết
bao công việc, mỗi ngày ngài đã dành nhiều giờ trước Thánh Thể, trung bình 7
tiếng mỗi ngày. Ngài nói : “Cả thế giới có quyền chờ đợi nhiều nơi
Đức Giáo Hoàng. Vậy, Đức Giáo Hoàng sẽ không bao giờ cầu nguyện cho đủ”.[5]
Kế đó, sự
thánh thiện nơi các vị thánh và những người sống đức tin một cách mạnh mẽ có
sức lôi cuốn nhiều người đến với Giáo Hội. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
hiểu rõ rằng để chống lại các khuynh hướng xấu và việc tục hóa trong xã hội
ngày nay, Giáo Hội cần đến đời sống chứng ta của rất nhiều vị thánh. Vì thế,
một trong những di sản lớn lao nhất của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II là số
lượng lớn các vị thánh mà ngài đã công nhận. Ngài đã cử hành 147 lễ phong chân
phước, trong đó tuyên bố 1.338 chân phước, cũng như 51 lần phong thánh cho tổng
số 482 vị thánh.
Không chỉ
đề cao những gương mẫu sống thánh thiện, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II còn
nỗ lực sống thánh thiện hằng ngày qua việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể,
với Đức Trinh Nữ Maria, qua việc năng lãnh nhận bí tích Hòa giải và qua việc
sống bác ái, quảng đại với hết mọi người. Một sự kiện nổi bật trong đời sống
của ngài là biến cố ngài vào trại giam để thăm chính người đã mưu sát mình. Số
là trong cuộc tiếp kiến vào thứ tư ngày 13 tháng 5 năm 1981 bắt đầu lúc 17g00, sau khi
ngài ôm hôn một em bé; một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ - Ali Agca, 23 tuổi - đã
nổ liên tiếp nhiều phát súng vào ngài trên chiếc xe mui trần đang tiến ra quảng
trường thánh Phêrô giữa đám đông khách hành hương (khoảng 20.000 người). Anh ta
chỉ đứng cách ngài khoảng 20 bước và 2 viên đạn 9 mm có sức công phá rất lớn đã
gây thương tích ở bụng, cùi tay bên phải và ngón tay trỏ ở bàn tay trái ngài.
Thế nhưng, không để cho lòng thù ghét chế ngự; vì thế, sau khi hồi phục sức
khỏe, chính ngài đã đến thăm anh và bày tỏ sự tha thứ dành cho anh. Sự tha thứ
của ngài cho thấy nét đẹp của giáo huấn Chúa Kitô mà ngài đã tiếp nhận “Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu
trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho
anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,13). Sự
kiện này làm cho rất nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ và cảm phục.
Chúng ta
cũng có thể thấy sức lan tỏa mạnh mẽ của thánh nhân đối với những người tín hữu
và những người có thiện chí nhưng không cùng tôn giáo qua sự kiện hàng triệu
người theo dõi đám tang trực tiếp và gần 1 tỷ người coi qua mạng. Rõ ràng sự
thánh thiện của ngài có sức lan tỏa và thu hút nhiều người biết đến với đức tin
Công Giáo.
Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II -
Một nhà tư tưởng lớn trong Giáo Hội[6]
Thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II đã để lại cho Giáo Hội một di sản thiêng liêng quý báu cả
về đời sống thiêng liêng, tinh thần đức ái nơi mục tử của Chúa Kitô lẫn về mặt
thần học. Thật vậy, ngay khi bắt đầu làm linh mục, và đặc biệt từ khi được chọn
làm Giáo Hoàng, ngài thi hành sứ vụ của mình với tinh thần truyền giáo không
mệt mỏi, dồn mọi nỗ lực lo lắng việc mục vụ đối với Giáo Hội. Đức ái mục tử của
ngài mở ra và hướng đến cho toàn thể mọi người. Ngài đã thực hiện 104 chuyến đi
trên toàn thế giới và 146 cuộc viếng thăm mục vụ tại nước Ý. Với tư cách là
Giám mục Rôma, ngài đã thăm 317 giáo xứ (trên 333 giáo xứ). Hơn mọi Vị
tiền nhiệm khác, ngài đã gặp gỡ dân Chúa và các nhà lãnh đạo của nhiều dân
nước: Các buổi triều yết vào ngày Thứ Tư hằng tuần (1166 lần trong suốt Triều
Đại của ngài) đã có hơn 17 triệu 600 ngàn khách hành hương tham dự, đó là chưa
kể đến những buổi triều yết đặc biệt và các nghi lễ Tôn giáo (có hơn 8 triệu
khách hành hương chỉ trong Đại Năm Thánh 2000), cũng chưa kể đến hàng triệu tín
hữu mà ngài đã gặp gỡ trong các cuộc viếng thăm mục vụ tại Ý, cũng như trên
khắp thế giới. Ngài đã tiếp xúc với rất nhiều nhân vật chính trị qua các buổi
triều yết: có đến 38 lần viếng thăm chính thức và 738 lần triều yết hoặc gặp gỡ
với các vị Nguyên thủ quốc gia, cũng như 246 buổi triều yết và gặp gỡ với các
vị Thủ tướng Chính phủ.
Lòng yêu
mến đối với các bạn trẻ đã hối thúc ngài thành lập những Ngày Giới trẻ Thế giới
kể từ năm 1985. Đại hội Giới trẻ Thế giới trong Triều đại Giáo hoàng của ngài
đã quy tụ hàng triệu bạn trẻ khắp nơi trên thế giới. Ngài cũng đã hết lòng quan
tâm đến gia đình và đã tổ chức những Đại hội Gia đình Thế giới từ năm 1994. Với
các Năm Thánh Cứu Độ, Năm Thánh Mẫu, Năm Thánh Thể; ngài đã phát huy việc canh tân đời sống
thiêng liêng của Giáo Hội,
ngài đã cử hành
147 buổi lễ phong chân phước, gồm 1338 vị và 51 cuộc lễ phong thánh, gồm 482 vị
thánh, để đưa ra
nhiều tấm gương thánh thiện cho con người thời đại hôm nay.
Ngài đã mở
rộng con số của Hồng y đoàn, tấn phong đến 231 vị. Ngài cũng triệu tập 6 Công
Nghị của Hồng y đoàn. Ngài đã chủ tọa 15 Thượng Hội Đồng Giám mục: 6 thông
thường (1980, 1983, 1987, 1990, 1994 và 2001), 1 Thượng Hội Đồng bất thường
(1985) và 8 Thượng Hội Đồng đặc biệt (1980, 1991, 1994, 1995, 1997, 1998 và
1999). Ngài ban hành 14 Thông Điệp, 15 Tông Huấn, 11 Tông Hiến và 45 Tông Thư.
Ngài cũng đã ban hành cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo. Ngài đã sửa đổi Bộ Giáo
Luật Tây Phương và Đông Phương, cũng như đã thiết lập thêm các cơ chế mới và
cải tổ Giáo Triều Rôma. Về cá nhân, ngài đã xuất bản 5 cuốn sách: “Bước
qua ngưỡng cửa Hy Vọng” (tháng 10.1994); “Hồng Ân và Mầu Nhiệm: kỷ niệm 50 linh
mục” (tháng 11. 1996); “Trittico romano”, những bài suy niệm
dưới hình thức thơ văn (tháng 3.2003);
“Hãy đứng dậy, chúng ta cùng đi!” (tháng 5.2004); “Ký ức và Căn Tính” (tháng 2.2005).
Kết luận
Thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II là một người có nhân cách vĩ đại, được nhiều người yêu mến
và trân trọng. Một mặt, ngài trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô đã được
các Tông đồ truyền lại và được Huấn quyền của Giáo Hội chấp nhận. Mặt khác,
ngài cũng đem đến một luồng sinh khí tươi mới vào trong Giáo Hội qua việc gặp
gỡ với Thiên Chúa, gặp gỡ với người trẻ, gặp gỡ đoàn chiên và gặp gỡ những
người có thiện chí muốn xây dựng hòa bình. Điều mà chúng ta có thể học hỏi nơi
ngài là hãy cố gắng nên thánh trong những hoàn cảnh sống của mình, là hãy cố
gắng bước theo Chúa Kitô mỗi ngày với lòng nhiệt tâm và khao khát.
Xin được
mượn lời Đức Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ với các bạn trẻ để tạm kết cho
những dòng chia sẻ này:
Các con thân mến,
đây là điều mà cha mong muốn cho mỗi người trong số các con: hãy bước theo Chúa
Kitô bằng cả cuộc đời mình. Và cha hy vọng rằng những cử hành nhân dịp kỷ niệm
một trăm năm ngày sinh của thánh Gioan Phaolô II sẽ khơi dậy trong các con khao
khát bước đi cùng với Chúa Giêsu một cách mãnh liệt đầy can đảm.[7]
[1] https://news.rcdos.ca/2020/05/18/pope-francis-st-john-paul-ii-was-an-extraordinary-gift-to-the-church/
[2] Cf. Jonah Mckeown, The
next hundred years of St. John Paul II’s legacy, https://www.catholicnewsagency.com/news/the-next-hundred-years-of-st-john-paul-iis-legacy-35725
[3] Thánh Gioan Phaolô II, Lm Augustino
chuyển ngữ, cập nhật tại http://conggiao.info/thanh-gioan-phaolo-ii-d-25206
[4] Xc. Đặng Tự Do, Lịch sử Đại Hội Giới
Trẻ Thế Giới, https://longchuathuongxot.vn/v2/lich-su-dai-hoi-gioi-tre-the-gioi/
[5]5 Xc.
Thanh Vân, Đời sống tâm linh của Đức
Gioan Phaolô II, https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/doi-song-tam-linh-cua-duc-gioan-phaolo-ii-49986
[6] Xc. Thánh Gioan Phaolô II, Lm Augustino
chuyển ngữ, cập nhật tại http://conggiao.info/thanh-gioan-phaolo-ii-d-25206
Đăng nhận xét