Quả thật, theo Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh,
người tu Mến Thánh Giá chấp nhận đánh đổi cuộc đời mình
để đáp lại lời mời gọi tình yêu nhưng không của Chúa,
để mỗi ngày biết dâng tiến,
trao gởi và cống hiến thân xác
cho Chúa Giêsu
trong tình yêu hy tế.
Nữ tu Cecilia Trần Thị Thanh Hương
- Hội Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp
I. Mỗi ơn gọi là một huyền nhiệm
1. Vận
động viên trượt băng tốc độ
Trong một phỏng vấn gần đây với NBC News, Kirstin Holum, cựu Vận động viên trượt băng tốc độ và là vận
động viên Olympic, đã trở thành nữ tu Dòng Phanxicô Cải cách năm 2003 nói rằng
“mọi người đều khát khao sự vĩ đại”, và chương trình của Thiên Chúa dành cho
bạn sẽ trao tặng cho bạn sự bình an mà bạn đang đi tìm.
Cựu vận động viên Olympic đáp lại tiếng gọi vào đời sống tu trì
sau khi rời sự nghiệp trượt băng tốc độ. Chị hiện nay là Nữ tu Catherine Holum,
CFR, ở Leeds, Anh quốc. Chị có những chia sẻ dũng cảm về sự phân định này:
Đừng e sợ bất cứ điều gì Thiên Chúa dành cho cuộc đời của bạn. Bất
cứ điều gì Người lập chương trình cho bạn, Người sẽ đổ đầy tâm hồn bạn với niềm
vui và niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà bạn sẽ được nếm trải. Hãy dũng cảm, hãy can đảm và bước theo Chúa và Người chắc chắn sẽ
làm thỏa mãn tâm hồn bạn.[1]
2. Vị thẩm phán danh tiếng
Cô
Ines Tagliani, 41 tuổi, một vị thẩm phán danh tiếng
tại miền Nam Ý, có trách nhiệm về các vụ điều tra nhóm “Mafia”, từ bỏ mọi chức
quyền, xin vào tu dòng Nữ Carmelô Hèn mọn tại Reggio-Emilia, miền
trung-bắc nước Ý và đã tuyên khấn trọn trước mặt Ðức Giám mục giáo phận trong
những ngày vừa qua. Tu hội Nữ tu Carmelo Hèn mọn được thành lập năm 1941, để
chuyên lo về công việc từ thiện bác ái, cách riêng đối với những người tàn tật.
Nay đã lan rộng tại nhiều nước: Châu Âu, Châu Á, và Châu Mỹ.[2]
3. Tiến sĩ y khoa
Cô Laura
Longhi, 25 tuổi, Tiến sĩ Y khoa tại Ðại học Nhà Nước ở Milano, miền Bắc Italia,
quyết định từ bỏ thế gian, xin vào tu Dòng Phanxicô, để xử dùng khả năng chuyên
môn của mình tại các xứ truyền giáo. Quyết định của Cô gây ngạc nhiên cho cha
mẹ, anh chị em và các bạn học. Hiện cô đang cầu nguyện thêm và chuẩn bị để dứt
khoát theo tiếng Chúa gọi.[3]
Quả
thật, khi suy nghĩ về ơn gọi đời dâng hiến, người ta vẫn luôn thắc mắc về sự
huyền nhiệm của nó. Huyền nhiệm vì ơn gọi đặc biệt này không phải là thành quả
của những nỗ lực tự nhiên của con người. Nhưng trước hết, nó tùy thuộc hoàn
toàn vào thánh ý Thiên Chúa. “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ
Người muốn” (Mc 3,13). Chúa gọi các môn đệ vì ‘Người muốn’. Từ một anh thuyền
chài quê mùa, Chúa đã nâng Phêrô lên ngôi vị Giáo Hoàng. Từ một người bắt đạo,
Chúa đã biến Phaolô thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người tội lỗi, Chúa
đã chọn Augustinô làm Giám mục… Biết bao cuộc đời với những xuất phát điểm rất
khác nhau như thế đã làm nên cuộc hành trình huyền nhiệm này.
Vâng,
ơn gọi làm nữ tu Mến Thánh Giá cũng thế, không phải đợi khi khấn trọn đời mới
nói tiếng “xin vâng”, nhưng ngay từ khi “ơn gọi vừa chớm nở” thì Thiên Chúa
cũng đã thôi thúc trong hoàn cảnh của cuộc sống, để chúng ta tự mình giải
thích, tự mình chọn lựa và tự mình hình thành nên hai chữ “xin vâng” từ từ
trong tâm hồn, và chữ “xin vâng” ngày càng lớn lên trong cuộc đời của chúng ta,
theo chúng ta qua những thăng trầm của đời dâng hiến, và cứ qua mỗi giai đoạn
thử thách của hoàn cảnh bên ngoài như bị hiểu lầm, bệnh tật… và những thử thách
bên trong như lạnh nhạt khi nguyện ngắm, sống thiếu vắng Chúa và hay so sánh
với cuộc sống ngoài đời… thì hai chữ “xin vâng” càng lớn gấp bội, lớn nhanh và
lớn mạnh đồng thời những cái tính tầm thường ban đầu không còn nữa, nhường lại
cho ơn gọi một vị trí xứng đáng hơn.
Thật
vậy, huyền nhiệm ơn gọi của mỗi người chúng ta kỳ diệu như thế, và việc thánh
hiến trong đời sống tu trì khởi đầu cũng từ lời mời gọi của Thiên Chúa: “Không
phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16).
Chính vì sự chọn lựa này mà mỗi người chúng ta cần phải có một nền đào tạo.
Vậy, đáp lại ơn gọi có nghĩa là mỗi ngày mỗi học cho biết hướng về Chúa, chấp
nhận những giới hạn của mình và như thế cũng là học cho biết kinh nghiệm về
lòng nhân từ của Thiên Chúa, sống trong tự do và đạt đến sự am tường về Con
Thiên Chúa (Xc.
Ep 4,13).
Để
đáp lại hồng ân cao quý này, người nữ tu Mến Thánh Giá đang sống giữa đời chắc
chắn sẽ gặp rất nhiều thách đố trong hành trình ơn gọi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu
đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng mới đượ cứu thoát”. Vậy, có những thách đố nào và
làm thế nào người nữ tu Mến Thánh Giá vượt qua để sống xác tín với ơn gọi của
mình.
II. Những thách đố sống ơ gọi Mến
Thánh Giá
1. Lối sống thực dụng
Do ảnh hưởng kinh tế thị trường với hiệu quả được xem là
thước đo mọi giá trị, nên người tu sĩ hôm nay sống lại rất thực tế, thực tế thì
tốt, vì sẽ mang lại hiệu quả cao, nhưng thực tế quá dễ rơi vào lối sống thực
dụng:
v Lựa chọn cái gì có lợi trước mắt: tiền bạc, sự dễ giãi và những gì có lợi cho mình. Khó
chấp nhận những điều trái ý, bằng mọi cách để chọn được điều gì theo ý mình
thay vì ý Chúa.
v Lựa
chọn đời tu để tiến thân: được học hành, để thoát nghèo, được ca tụng... thay vì rèn luyện nhân đức
khiêm tốn, hy sinh và tiết chế.
v Lựa
chọn công việc theo sở thích: tránh nặng tìm nhẹ, ngại khó ngại hy sinh, né
tránh trách nhiệm và bổn phận. Chỉ làm những việc theo ý thích thay vì tìm
thánh ý Chúa trong từng công việc.
Sống
linh đạo Mến Thánh Giá giúp chúng ta vượt thắng những toan tính hơn thiệt theo
lối sống thực dụng, để biết tránh những gì thế gian tìm, và biết tìm những gì
thế gian tránh trong xã hội hưởng thụ và tục hóa hôm nay. Vì lối sống thực dụng
này sẽ làm mất đi khả năng yêu thương và phục vụ Chúa trong tha nhân. Như thế,
càng để lối sống thực dụng làm chủ đời sống mình, người nữ tu Mến Thánh Giá
càng làm mất căn tính đời tu và khó sống ơn gọi Mến Thánh Giá của mình.
2.
Não trạng xứng đáng
v Tự
khẳng định mình xứng đáng: não trạng này giống như một cuộc đổi chác: vất vả
điều này thì “xứng đáng” được điều kia, là thứ tôi muốn. Hy sinh, từ bỏ, nhằm
để được sự chân nhận của bề trên, một sự kính trọng của chị em, một sự khâm
phục nơi được sai đến, vì thấy mình “xứng đáng” được hưởng do công sức đã bỏ
ra. Đây là một thách đố rất tinh vi, nó như những chiếc mặt nạ của việc đạo
đức, hy sinh, bác ái…
v Ghen
tị và so sánh với người khác: đây là cách đưa mình lên và cảm thấy mình xứng
đáng, giỏi hơn đối phương. Dễ sinh ra kiêu căng,
tự phụ và tâm hồn mất bình an.
v Sống ảo tưởng về mình: thổi phồng lên những giá trị ảo, không
có thật dẫn đến sự dối trá và suy nghĩ sai lệch về người khác.
Quả
thật, theo Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh, người tu Mến Thánh Giá chấp nhận đánh đổi
cuộc đời mình để đáp lại lời mời gọi tình yêu nhưng không của Chúa, để mỗi ngày
biết dâng tiến, trao gởi và cống hiến thân xác cho Chúa Giêsu trong tình yêu hy
tế. Đồng thời, biết khao khát nên thánh, sống hoàn thiện mỗi ngày để trở nên
giống Chúa. Biết sống khiêm tốn, quảng đại và vị tha, không so sánh và đề cao
những hy sinh, công trạng của mình bằng não trạng được “xứng đáng” hơn với
người khác, không sống ảo tưởng về mình. Bởi vì, “không có Thầy các con chẳng
làm gì được” (Ga
15,5).
3. Tâm thức hưởng thụ
v Theo
thời và đua đòi: đòi hỏi các quyền lợi, phong cách ăn mặc, những phương tiện
thật ra không quá cần thiết và e ngại vì cảm thấy “hai lúa” quá so với đời.
v Theo hiệu năng công
việc: dấn thân và hăng say phục vụ đến quên
mình, nhưng thiếu chiều sâu nội tâm, chắp vá đời sống kinh nguyện, lơ là kỷ luật,
chọn được việc hơn được người.
v Theo
mẫu khung tập thể: thiếu tôn trọng sự riêng tư và khác biệt của người khác. Đòi
hỏi quá đáng sự công bằng, được nhìn nhận, được khẳng định mà quên đi lòng hy
sinh, nhân ái và quảng đại.
Có một
nữ tu nọ về nghỉ hè tại gia đình, nhà chỉ có hai phòng, một dành cho ông bà cố,
một dành cho anh chị và hai cháu nhỏ. Vị nữ tu này nói với mẹ rằng: “Con cần
một phòng riêng để đọc kinh và cầu nguyện. Ở ngoài, các cháu ồn như vậy sao con
đọc kinh cầu nguyện được. Mẹ nói anh chị xuống ở tạm dưới nhà bếp vài ngày để
dành phòng cho con, vì con là nữ tu”.[4]
Lời
cảnh báo của Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng như qua câu chuyện trên, không cần
quảng diễn nhiều, vì mỗi người có thể hiểu được dễ dàng thế nào là lối sống
theo tâm thức hưởng thụ.
Quả
thật, để sống chứng nhân cho mầu nhiệm Thập giá, người nữ tu Mến Thánh Giá phải
biết dứt khoát và can đảm từ bỏ lối sống thực dụng, não trạng xứng đáng, tâm
thức hưởng thụ và những gì không thuộc về Thiên Chúa, để chỉ dành cuộc sống
mình cho Ngài.
Thách đố này không nhỏ
đối với người nữ tu Mến Thánh Giá khi đang phải lội ngược dòng với những giá
trị thế gian. Sống tinh thần khổ chế luôn là một cuộc vượt qua, giúp người nữ
tu Mến Thánh Giá không ngừng huấn luyện khối óc và con tim, để nên thánh qua từng
những hy sinh, từ bỏ và cố gắng mỗi ngày. Hơn nữa, sống linh đạo Mến Thánh Giá
giúp những người nữ tu Mến Thánh Giá vượt thắng những thách đố thời đại, để
sống tròn đầy tình yêu dành riêng cho Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh là đối tượng duy
nhất lòng trí mình.
III. Sống ơn gọi Mến Thánh Giá hôm nay
Ơn gọi Mến Thánh Giá là
một quà tặng Thiên Chúa ban cho mỗi người nữ tu Mến Thánh Giá, vì thế, để sống
ơn gọi Mến Thánh Giá hôm nay, người nữ tu Mến Thánh Giá cần sống tinh thần từ
bỏ: từ bỏ một điều tốt để đón nhận một điều tốt hơn, từ bỏ ý mình để ý Chúa
được thực hiện và từ bỏ hết những gì mình có để Thiên Chúa được tôn vinh.
1. Sống tinh thần từ bỏ
Từ bỏ là nét
đẹp để phát triển cuộc sống
v Từ bỏ vừa là qui luật vừa là điều kiện nhất thiết để
phát sinh và triển nở cuộc sống:
Con nhộng không thể thành bướm nếu không rời bỏ cái kén; thai nhi không thể thành người nếu ở mãi trong bụng mẹ; đứa bé không thể trưởng thành nếu không bỏ lại cái nôi êm ấm.
Để thành công hay thành đạt ở đời, người ta cũng phải từ bỏ
nhiều thú vui, lợi lộc, và có khi phải bỏ mạng trước gian nan thử thách.
v Từ bỏ là nét đẹp của một tính cách:
Có biết bao điều hèn kém và xấu xa đòi hỏi ta phải từ
bỏ để làm đẹp tính cách của mình. Ngay cả những điều tốt cũng phải từ
bỏ để chọn một điều tốt hơn.
Có nhiều người không có can đảm từ bỏ nên suốt đời bị giằng
co, ray rứt.
Trong đời tu, tinh thần từ bỏ phải là một chứng tích đương
nhiên của một con người có tinh thần trách nhiệm, liên đới và tổ chức.
v Từ bỏ là nét đẹp của đời sống khổ chế: ngần ngại và luyến tiếc, bị mất
mát và bị thương tổn:
Sự cắt tỉa nào mà không đau đớn, xót xa, nhưng đó là điều cần
thiết để cây đời sinh hoa kết trái.
Khi một phiến đá thấy mình trở thành một tác phẩm nghệ thuật,
lúc đó mới biết ca ngợi sự đau khổ mà người thợ điêu khắc đã đục đẽo nó qua bao
ngày.
Khi thấy mình trở nên một con người thành toàn hơn về mọi
phương diện, ta mới biết yêu chuộng sự từ bỏ mà Đấng tác tạo đã làm nên.
Chính sự từ bỏ sẽ giải thoát ta khỏi những gì đang kìm hãm
chính mình, những gì làm giảm bớt cơ hội vươn tới, những gì làm tê liệt sự phát
triển nhân tính, để còn mở ra cho ta một chiều kích siêu việt, linh thánh.
v Từ bỏ là thái độ cao thượng để đem lại an vui cho đời, nhưng xem ra cứ
mãi là điều khó, vì:
Khi hy sinh chúng ta vẫn ham muốn một địa vị, một chức vụ.
Khi hy sinh, chúng ta vẫn muốn thấy mình sáng giá hơn, có khi
không ngần ngại dẫm lên người khác. Về việc này, Đức cha Bùi Tuần đã
viết: “Tôi thấy trên bàn thờ dâng
lễ có một cây nến cháy đứng bên một chậu ba bông hồng đẹp. Đầu lễ 3 bông hồng
còn rất tươi. Cuối lễ những bông hồng này rủ xuống thê thảm. Lý do là vì chúng
bị cây nến đứng quá gần tạt hơi nóng sang. Thấy thế tôi thầm nghĩ thay cho bông
hồng: Bạn cũng như chúng tôi đều phục vụ, thế thì tại sao bạn lại đốt chúng
tôi. Phục vụ kiểu này có lợi cho bạn, nhưng chúng tôi thiệt hại lớn. Chúa thấy
chúng tôi bị bạn huỷ hoại như thế này chắc Chúa chẳng vui gì. Từ hình ảnh trên
tôi nghĩ đến Lời Chúa: “Ta thích lòng nhân hậu chứ không phải hy lễ”.[5]
Quả thật, thiếu cảnh giác, người nữ tu Mến Thánh Giá dễ trở
thành bình phong để nêu cao bản thân mình, nhất là đôi khi có cảm tưởng mình hy
sinh và đóng góp nhiều hơn những chị em khác. Lúc đó chúng ta dễ bị cám dỗ để
khoa trương như một cách bù trừ, hay lấy lại những gì mình đã hy sinh và từ bỏ.
Thiếu tinh thần từ bỏ, người nữ tu Mến Thánh Giá sẽ rơi vào thái độ ‘biệt phái’
mà Chúa Giêsu từng cảnh giác các các môn đệ (x. Mt 16,6).
Từ bỏ của cải
vật chất
v Từ bỏ
điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày:
Điều
hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy có.
Điều
đã bỏ từ lâu, nay lại dính bén.
Chính vì vậy, từ bỏ phải là thái
độ nội tâm liên tục. Tình yêu không thể chỉ nửa vời hay chỉ
trong những lúc hứng khởi, nhưng là trọn
vẹn và trung kiên cho đến
cùng, và chỉ như vậy người nữ tu Mến Thánh Giá mới có thể hy sinh cách triệt để
mà không còn đặt nặng bản thân mình. Vì ai cũng: thích ngồi lại để hưởng thụ những gì mình đã làm nên; thích ở lại trong những thành công mình đã làm
được; thích ẩn náu
trong những tình cảm mình đã làm thành.
Đó là tâm lý chung, nhưng rồi những điều đó sẽ dần dần biến
chúng ta thành những con người tầm thường, mất đi tính cách phục vụ chân chính,
chỉ lo tìm mình chứ không còn thao thức tìm Chúa.
Điều đáng sợ nhất là ngày càng dính bén và bám níu vào cuộc
sống này. Khi bắt các môn
đệ xuống thuyền qua bờ bên kia sau phép lạ hóa bánh (Mt 14,
22-27), Chúa Giêsu rõ ràng muốn tránh cho các môn đệ khỏi mọi dính bén mùi thế
tục, và khỏi mọi lôi cuốn tình cảm của người đời. Ngài cũng từng xác định mạnh
mẽ: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn
ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc
9,62). Chỉ có tinh thần từ bỏ, hy sinh không ngừng mới giúp người nữ tu Mến
Thánh Giá cảnh giác những cạm bẫy liên tục trên con đường phục vụ. Cũng chỉ có
tinh thần từ bỏ mới giúp người nữ tu Mến Thánh Giá có tự do thực sự để sống sứ
vụ của mình cách thanh thoát và an vui.
Từ bỏ hết
những gì mình có
Rabindranath Tagore đã ngộ ra tính chất sâu xa của sự từ bỏ qua dụ ngôn
người hành khất gặp Đức Vua: Khi xe vua ngừng, người hành khất thầm nhủ duyên
may đã đến, tưởng rằng vua sẽ thương ban vàng bạc, nào ngờ vua lại chìa tay
xin: “Có gì cho ta không?”. Người hành khất bối rối, lưỡng lự một
hồi rồi móc ra từ trong bị một hạt lúa rất nhỏ bé dâng cho vua. Khi chiều về và
ngày đã tàn, anh ta giốc túi ăn xin ra, thì lạ thay có một hạt lúa vàng cũng
rất nhỏ bé. Nghẹn ngào anh ta khóc nức nở: “Phải chi tôi dâng hết cho người”.
Vì thế, với lòng xác tín, R. Tagore dâng ước nguyện:
Chỉ mong tôi
chẳng còn gì,
nhờ thế gọi được Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi chốn, mọi nơi,
đến với Người trong
mọi thứ mọi điều,
và dâng Người tình tôi lúc nào cũng được.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi chẳng bao giờ lẩn tránh được Người...
Vậy, người nữ tu Mến Thánh Giá hôm nay cũng phải:
v
Từ bỏ hết những gì mình có, để được Chúa là kho
tàng chính là niềm vui bất tận.
v
Từ bỏ hết mọi thứ chiếm hữu để đến với người
nghèo: giáo xứ, cộng đoàn, học đường, lề đường...
v
Từ bỏ hết những tật xấu để sống yêu thương: ánh
nhìn trìu mến, nụ cười thông cảm yêu thương, đơn sơ tha thứ, hy sinh chân
thành, hay thời giờ qúy báu.
v
Từ bỏ càng nhiều niềm vui càng lớn: chỉ khi nào
dám từ bỏ tận căn, và trao ban trọn vẹn, thì chính lúc đó sẽ lãnh nhận lại được
tất cả và thật sự tìm được bình an, hạnh phúc.
Trên ngôi mộ của một người qúa cố có ghi những hàng chữ đầy ý
nghĩa như sau:
Những gì tôi có, nay thuộc về người khác.
Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác
hưởng dùng.
Nhưng những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi.
Quả thật, từ bỏ hết những gì mình có và chọn Chúa là kho
tàng, chính là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu, nhưng đó là một sự chọn lựa
khôn ngoan, cao quý và có giá trị đời đời.
Từ bỏ chính
mình
“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình” (Mc 8,34).
Trong khi thi
hành sứ vụ, người nữ tu Mến Thánh Giá dễ bị cám dỗ đặt mình làm trung tâm, lấy
mình làm tiêu chuẩn. Do đó, từ bỏ những gì mình có còn dễ, nhưng từ bỏ chính
mình quả là hết sức khó khăn. Từ bỏ những đặc quyền, đặc lợi của mình còn được,
nhưng từ bỏ chính bản thân mình để bị quên lãng, bị coi thường, chịu khổ nhục,
thóa mạ, hy sinh và chịu chết... thì chỉ những ai đạt được tình yêu sâu thẳm như
Đức Kitô mới dám hy sinh và phục vụ.
Trong sự từ
bỏ chính mình, chúng ta có cảm tưởng đánh mất chính mình. Thật ra đó chỉ là ảo
tưởng, vì chúng ta chẳng có gì để mất. Bởi vì, từ bỏ là:
- Xoá bỏ ảo tưởng, vì trong cuộc sống này
chẳng có gì thuộc về chúng ta, mà đều thuộc về Chúa.
- Từ bỏ ảo tưởng về bản thân mình, chứ
không từ bỏ sự sống linh thiêng Chúa ban cho mình.
- Dâng hiến lại cho Chúa những gì thuộc về
Ngài mà chúng ta cứ ngỡ là thuộc về mình, mà vì vô tình hay cố ý chúng ta đã
xâm chiếm một cách bất chính. Nếu sự từ bỏ có mất điều chăng nữa thì cũng là để
được lại một sự sống đích thực, dồi dào và sung mãn hơn.
Từ bỏ chính mình không phải chỉ
quyết định một lần thay cho suốt cả đời, mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ
trong mọi giây phút của cuộc sống.
Vì, sống là chấp nhận từ bỏ. Cuộc sống tự nó đã là một
tiến trình lựa chọn và từ bỏ không ngừng. Con đường thiêng liêng lại đòi hỏi
một sự từ bỏ quyết liệt hơn:
Từ bỏ mình để đem lại niềm vui nội tâm.
Từ bỏ ý mình để đón nhận ý Chúa trong tin tưởng và phó thác.
Từ bỏ cả cá tính của mình, để chấp nhận cá tính khác biệt của chị em
Từ bỏ danh vọng và tiếng khen người đời để sống khiêm tốn và tự hạ như
Chúa.
Từ bỏ thu tích của cải vật chất không cần thiết để sống tín thác vào
Chúa hơn.
Từ bỏ những mơ ước của mình để những ước mơ của Thiên Chúa được thành
tựu.
Từ bỏ ý muốn riêng mình để nhận lãnh điều mà Thiên Chúa muốn trao ban.
Từ bỏ để có thể ra đi cho một sứ mệnh huyền nhiệm.
Đối
với Đức cha Lambert: “Cốt lõi của sự từ
bỏ phải là từ bỏ mọi hoạt động của tinh thần, để chỉ làm theo thánh ý Thiên
Chúa do Ngài tỏ cho thấy qua sự thôi thúc nội tâm” (2Dl 18). Vâng, từ bỏ chính
mình là cách diễn tả một tình yêu tột bậc, để sống tận tình và thuộc trọn về
người mình yêu. Người nữ tu Mến Thánh Giá cần chìm sâu trong cầu nguyện không
ngừng, để có thể gặp gỡ và sống thân tình với Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh, nguồn
suối hồng ân và tình yêu tự hiến cho nhân loại. “Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” (Mc 8,35). Quả thật, bỏ mình
vì Chúa, để đón nhận điều vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống
đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.
2. Sống hiệp nhất yêu thương
trong cộng đoàn
Nói lời tốt đẹp
Cổ nhân có nói: “Bệnh
tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất”: Bệnh do miệng mà vào, họa do miệng mà ra.
Nếu không biết kềm chế miệng lưỡi thì sẽ gây ra muôn điều ác hại. Thánh Giacôbê
đã nói lên rằng: “Ai không vấp ngã về lời nói, người ấy là người hoàn hảo”.
Blaise
Pascal (1623-1662), nhà toán học và triết gia người Pháp: “Lời lẽ lạnh lùng làm
đông cứng người ta, lời lẽ nóng nảy làm khô héo con người, lời lẽ chua chát
khiến người xót xa, và miệng lưỡi phẫn nộ khiến người nuôi lòng oán hận. Những
lời nói tốt đẹp phản chiếu hình ảnh trong lành của mình lên tâm hồn người khác.
Những lời tử tế ấy làm người nghe cảm thấy êm ái, thoải mái và an lành”.
Vâng, người nữ tu Mến
Thánh Giá có đủ thời giờ để lựa lời, nhưng không có cơ hội để rút lại. Lời nói
là một khí cụ sắc bén có thể làm chuyển đổi mọi tình trạng, nhưng nếu không cẩn
trọng sẽ đả thương chính mình hoặc chị em, vì “lời nói bừa bãi khác nào mũi
gươm đâm”:
Lời nói
không là dao, mà cắt lòng đau nhói
Lời nói không là khói, mà mắt
lại cay cay.
Lời nói không là vàng, mà tiền
không mua được.
Lời nói không là nước, mà
làm mát cả lòng.
Lời nói không là sông, mà nhấn
chìm nhân cách.
Lời nói không là thạch, mà đập
chẳng thể tan.
Nói với nhau nhẹ nhàng, bằng
tấm lòng chân thật.
Quả thật, sức mạnh của lời nói có một giá
trị rất quan trọng trong việc xây dựng
tình thân và tình thương trong cộng đoàn, vì lời nói tiết lộ tấm lòng. Hơn nữa,
Chúa ban cho chúng ta miệng lưỡi, để biết ca ngợi lòng thương xót Chúa và
để biết cảm tạ tôn vinh Chúa trong mọi hoàn cảnh. Từ đó, cốt yếu của lời nói là
“để xây dựng, yêu thương, khích lệ và an ủi”. “Lời nói mà không chủ ý làm cho cuộc
đời tốt đẹp hơn lên là lời nói hư không”. Do đó, chế ngự lời nói để xây dựng cộng
đoàn là việc làm rất cần thiết:
v
Biết giữ thinh lặng khi cần thiết: khi bị vu khống cáo gian, đừng
tìm cách biện minh, càng biện minh càng bất an và càng tỏ ra yếu
thế. Hãy thinh lặng, mỉm cười và cầu nguyện sẽ mang lại hiệu quả không
ngờ.
v
Biết nói khi cần: khi biết điều dữ mà thinh lặng sợ bị liên lụy
là đồng lõa với sự dữ, nhưng nói đúng lúc để không cho sự dữ lan
tràn là điều cấp thiết và không được sợ hãi.
v
Biết kìm chế những phản ứng tự vệ qua lời nói: không dùng
bạo ngôn, nói một lời hai ba ý xấu, nói mỉa mai, châm chọc và gây
hấn để làm thương tổn chị em.
v
Không bới lông tìm vết: vạch tội đối phương, sát phạt chị em
mọi cách, nhưng biết nhịn nhục, cố gắng tìm một điều tốt đẹp để xoa
dịu cơn giận và cầu nguyện chị em.
v
Luyện tập cách nói thanh cao: lịch sự và trang nhã, thấm đượm
các giá trị nhân bản. Nói lời tích cực xây dựng có giá trị hơn
những lời chỉ trích chia rẽ. Hơn nữa, lời nói còn là phương tiện để loan báo Tin Mừng, đây không những là bổn
phận mà còn là sứ mạng cao cả của người nữ tu Mến Thánh Giá trong hoàn cảnh xã
hội hôm nay. Vì thế, người ta có thể nghe lời nói của người nữ tu Mến Thánh Giá
thì biết rằng ‘công lực’ của chúng ta đã tu luyện được đến mức độ nào rồi.
Vậy,
sống hiệp nhất chính là con đường tình yêu mà người nữ tu Mến Thánh hôm nay yêu
thương chị em như Chúa đã yêu thương mình.[6]
Sống bác ái với chị em
Chuyện xưa kể rằng có một vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến
suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống. Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng
thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận
của lễ hy sinh của ông.
Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên
cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng
chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi
theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một
chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố
gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối
cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn
cô gái không nỡ uống một mình.
Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ
nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi
lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười
uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao
nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự
khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ
lở của ông, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp
lánh như đang mỉm cười với ông.[7]
Qua
câu chuyện trên, người nữ tu Mến Thánh Giá cần
khám phá thấy
rằng cốt lõi của Tin Mừng chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc ăn chay
có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất, mà người nữ tu Mến Thánh Giá có thể
dâng lên Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành
động khổ chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác
ái. Vì:
v
Bác ái đích thực cũng là một hành động hy sinh, bởi vì đòi hỏi
người nữ tu Mến Thánh Giá phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để
đến với chị em.
v
Một hành động bác ái đích thực phải là một sự chết dần chết mòn
trong chính bản thân ta. Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao
ban cho người một điều gì làm tôi cảm thấy mát mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của
tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao
ban chính tôi”. Quả thật, khi người nữ tu Mến Thánh Giá:
v
Cố gắng chào hỏi một người chị em mà mình không ưa, không thích,
hay một ai đó làm tổn thương, nói xấu, mạ lị mình, thì đó mới thật sự là một
hành động bác ái.
v
Sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo với tha nhân, đó mới là một
hành động bác ái.
v
Có thể tha thứ cho người chị em xúc phạm, ganh ghét, tị hiềm đến
mình, thì đó mới là một hành động bác ái thực sự.
v
Chết đi chính mình và cái chết ấy sẽ được Thiên Chúa nhân từ vui
nhận như của lễ hy sinh và khổ chế đích thực, thì đó là một tình yêu tự hủy với
Chúa Kitô Chịu-Đóng-Đinh.
Thánh
Bênađô đã nói: “Giới
hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là
tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Chính tình yêu này giúp người nữ tu
Mến Thánh Giá ra khỏi chính mình để yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
3. Sống tình yêu tự hủy
với Chúa Giêsu Chịu-Đóng-Đinh
Yêu Mến Thánh Giá
Yêu mến Thánh Giá là điều mà nhân loại ngày hôm nay sợ hãi, tránh né và
trốn tránh, “có người không vác Thánh giá của mình hay của người khác mà tưởng
tượng Thánh giá mình quá nặng. Có người vác Thánh giá cả làng mà không vác
Thánh giá của mình. Có người vác Thánh giá cả làng và gán Thánh giá của mình
bắt kẻ khác vác”.[8]
Ngày kia, trong lúc thuyết giảng, Đức cha
Fulton Sheen, vị đại tông đồ nước Mỹ, đã chỉ vào Thánh Giá bạc đang đeo trên
ngực và nói: “Tôi đeo Thánh Giá này là để đền tạ”. Khi được hỏi lý do, ngài đã
kể lại rằng: một lần nọ, ngài đến thăm người bạn gốc Do Thái bán đồ nữ trang ở
New York. Ông ta nói với ngài: “Tôi có ít Thánh Giá bạc tặng Đức cha”. Đức cha hỏi:
“Ở đâu mà ông có những Thánh Giá này?”. Ông ta trả lời: “Từ các nữ tu. Họ mang
đến và nói: chúng tôi không còn đeo những Thánh Giá này nữa. Vì những Thánh Giá
này làm chúng tôi bị ngăn cách với thế giới hôm nay”.[9]
Quả thật, Thánh Giá không làm cho người nữ tu Mến Thánh Giá bị ngăn cách
với thế giới như câu chuyện trên, nhưng: “Thánh
Giá là nguồn an ủi từ trên trời, là sức mạnh của lý trí, là niềm vui của trái
tim”. Và, “không con đường nào đưa đến sự sống và bình an thật cho tâm hồn,
ngoài con đường Thánh Giá và từ bỏ mình liên lỉ”.[10]
Vâng, Đức cha Lambert
xác tín: “Mọi ân sủng và thánh đức nơi hết thảy mọi người […] là
hoa quả của Thánh Giá Đức Giêsu Kitô mà thôi. Thế nên, thật đáng kinh ngạc, vì
nhiều người đi tìm ở đâu đâu […] chứ không tìm nơi Thánh Giá” (Ltt I,1-2). Vì, người nữ tu Mến Thánh Giá:
v Từ bỏ chính mình, là con đường đi đến Thánh giá gần nhất.
v Từ bỏ tính ích kỷ, chính là sống tình yêu tự hủy với Chúa Giêsu khổ nạn.
v Yêu Thánh giá của mình, chính là yêu Chúa Giêsu trên Thánh giá bằng một
tình yêu vĩnh cửu.
v Vác Thánh giá của mình, chính là mang Chúa Giêsu vào cuộc đời mình.
v Sống tinh thần từ bỏ, là sống theo gương Chúa Giêsu và lời mời gọi của
Ngài.
Yêu Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh
Đức
Thánh Cha Phanxicô xác quyết: “Chúa Kitô chịu đóng đinh là trung tâm của lịch
sử, là tâm điểm của cuộc đời tôi”, khi chia sẻ trong thánh lễ sáng ngày
24/10/2017 tại nhà nguyện Marta. Ngài nói:
Những vị thánh vĩ đại luôn khuyên rằng, để bắt đầu đời
sống tâm linh, hãy đến với cuộc gặp gỡ trong mầu nhiệm Chúa Giêsu chịu đóng
đinh. Thánh Têrêsa khuyên các nữ tu rằng: để tiến tới trong việc cầu nguyện và chiêm niệm, ngay cả những bậc cầu nguyện cao nhất, thì hãy bắt đầu với việc suy niệm cuộc
Khổ Nạn của Chúa. Thánh Giá Chúa Kitô. Chúa Kitô trên thập giá. Hãy bắt đầy suy
gẫm. Hãy làm như thế, để có thể hiểu được trong cõi lòng mình rằng: Đấng ấy đã
yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi, Người đã yêu mến cho đến chết vì tôi […].
Chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa, là biểu tượng của mầu nhiệm vĩ đại nhất
trong công trình sáng tạo. Chúa Kitô chịu đóng đinh là trung tâm của lịch sử,
là tâm điểm của cuộc đời tôi.
Thánh
Phaolô đã xác tín mạnh mẽ về quyền năng cứu độ của Thập giá Chúa
Giêsu. Ngài tuyên bố: “Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào Thánh
Giá”. “Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là
Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2,2).
Đức
cha Lambert tha thiết yêu mến Thánh Giá Chúa Giêsu và khát khao đồng hoá với
Người trong mầu nhiệm Tử Nạn. Ngài muốn tiếp nối cuộc đời đau khổ của Chúa Cứu
Thế, và sẵn sàng cho Người mượn thân xác để tiếp tục hy sinh.[11] Có lần ngài nói với các
linh mục của mình: “Hãy học hỏi Chúa Kitô Chịu-Đóng-Đinh, đó là phương thế chắc
chắn đem lại sự khôn ngoan và lòng yêu mến”.
Tình yêu người nữ tu Mến Thánh
Giá dành riêng cho Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh được chính Đấng Sáng Lập diễn tả
trong câu xác định mục đích của Hội dòng là: “Đặc biệt chuyên chú suy niệm sự
Thương Khó Chúa Giêsu-Kitô mỗi ngày như phương tiện thuận lợi nhất để đạt tới
sự hiểu biết và yêu mến Người”.[12] Thật vậy, người nữ tu Mến Thánh Giá:
v Tìm
gặp Thiên Chúa trong đau khổ, trong yếu đuối, trong sự nghèo khổ của con người.
v Không chỉ dừng lại ở
những Thánh Giá bản thân, nhưng phải biết ra khỏi chính mình.
v Vác đỡ Thánh Giá cho anh
chị em, để giúp họ tìm gặp Thiên Chúa trong những đau khổ của họ.
v Mời gọi chị em hãy đưa
Thập Giá đời mình và chị em đi vào Thập Giá Chúa Kitô, cùng Chịu-Đóng-Đinh với
Ngài, làm cho tình yêu của Thiên Chúa đi sâu vào trong các tâm hồn, là một bảo
đảm cho mọi người ân sủng cần thiết để vượt thắng những khó khăn trong đời sống
hằng ngày.
Sống hoàn thiện và khao
khát nên thánh
Chuyện kể rằng một
khách bộ hành thấy một cậu bế vừa đói vừa lạnh run, đang ngồi ăn xin nơi lề
đường, ông liền nghĩ: “Sao Chúa không làm gì để giúp cậu bé này nhỉ?” Tức thì
ông ta nghe tiếng Chúa nói trong lòng: “Ta có làm rồi!”. Người bộ hành thắc
mắc: “Con có thấy Chúa làm gì đâu?”. Và ông liền nghe tiếng Chúa: “Ta đã dựng
nên con đó”.[13]
Người nữ tu Mến Thánh
Giá được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, không chỉ ở sự tự do và thánh
thiện, mà còn ở khả năng yêu thương như Ngài. Mỗi người nữ tu Mến Thánh Giá
mang nơi mình khuôn mặt của Thiên Chúa và bổn phận của mỗi người nữ tu Mến
Thánh Giá làm cho mình ngày càng nên hoàn thiện như chính khuôn mẫu đã dựng
nên, là chính Thiên Chúa, Đấng mang khuôn mặt của Tình Yêu.
Chúa Giêsu mời gọi: “Các con hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11,45). Thật vậy, người
nữ tu Mến Thánh Giá được mời gọi nên thánh cách triệt để qua các lời khấn, thực
thi đức ái một cách hoàn hảo, phục vụ vô vị lợi, hoàn toàn hy sinh đời mình cho
Nước Chúa, theo sát gương Chúa Kitô. Đây là bậc sống đặc biệt cao quý để Giáo
hội được triển nở và trổ sinh hoa trái là sự thánh thiện. Trổ sinh hoa trái là nhiệm vụ chính
yếu của người sống đời thánh hiến. Nếu không sinh hoa trái sẽ bị “chặt đi và
quẳng vào lửa” (Mt 3,11) như Chúa Giêsu đã cảnh báo trước.
Giáo hội chỉ có thể phát triển nhờ vào những hoa trái
thánh thiện nơi chính con cái mình: đời sống cầu nguyện, hy sinh, phó thác cho
Chúa, thực thi lời Chúa dạy và làm tất cả vì tình yêu Chúa. Đây là chứng tá
sống động nhất như lời Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã khẳng định: “Hội Thánh phát triển không phải bằng việc
chiêu dụ, nhưng bằng sức thu hút”. Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nhắc lại:
“Chính đời sống của các con phải nói
lên một đời sống có sức tỏa ra rạng ngời niềm vui và vẻ đẹp để sống Phúc Âm và
đi theo Đức Kitô” (Evangelii Gaudium 14). Một đời sống hạnh
phúc thật sự với Chúa sẽ chiếu tỏa hương thơm thánh thiện cho mọi người, và đó
chính là sức thu hút mãnh liệt đang tiềm ẩn trong Giáo hội.
Vâng,
chính Thiên Chúa là nguồn mạch của sự thánh thiện. Ngài thông truyền
sự thánh thiện của Ngài cho con cái loài người. Do đó, hành trình nên thánh
luôn song hành với đời sống hy sinh và cầu nguyện để vun đắp ‘tình thân’ sâu xa
với Chúa Giêsu (x. Lc 15,14-15; 12,14), biết chọn
Chúa là gia nghiệp duy nhất đời mình (x. Mt 13,44.46) và làm chứng nhân trong
các hoạt động mục vụ.
Kết Luận
Nhìn vào Dòng Mến Thánh Giá hôm
nay, người ta có thể thấy được cuộc đời đạo hạnh và con đường từ bỏ của Đức cha
Lambert. Vì hoa trái đạo đức đích thực phải là kết quả của cả một cuộc sống lâu
dài bền bỉ và sâu thẳm từ trong tâm hồn. Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Cây tốt
sinh trái tốt. Cây tốt không thể sinh trái xấu được” (Mt 7,17-18).
Dòng Mến Thánh Giá với hành trình dài lịch sử 350 năm, đã
trải qua biết bao thăng trầm và thử thách. Từ những hạt mầm đầu tiên Đức cha
Lambert gieo trồng tuy trong vất vả nhưng tỏa hương thơm nhân đức, nay đã phát
triển mau lẹ nhờ ẩn nấp dưới bóng Thánh Giá Chúa Giêsu Kitô. Các chị đã cầu
nguyện, hy sinh, phục vụ cho sự phát triển Giáo hội, và nhất là dâng cả mạng sống
mình để phụng sự Đức Kitô và Nhiệm Thể của Ngài. Mặc dù tên các chị chưa được
ghi vào danh sách các Thánh Tử đạo nhưng lòng trung thành với Thiên Chúa bằng
cái chết anh dũng, hoặc chấp nhận tù tội, tra tấn, đã nên gương chói ngời và để
lại một đức tin vững mạnh cho chị em Mến Thánh Giá hôm nay.
Đặc biệt, noi gương các bậc
tiền bối, mỗi chị em Mến Thánh Giá hôm nay nguyện trung thành với linh đạo của
Dòng, sống ơn gọi Mến Thánh Giá một cách xác tín, để Tình Yêu của Đức Kitô
Chịu-Đóng-Đinh được chuyển trao đến từng con tim đang khao khát chân lý và yêu
thương trong xã hội hôm nay.
[1]
Trích từ bài viết: “Cựu vận động viên Olympic trượt băng tốc độ trở thành Nữ tu Dòng Phanxicô
tiết lộ bí mật cho sự bình an trong tâm hồn trong câu chuyện theo đuổi ơn gọi”,
trong https://www.youtube. com/watch?v=MO0L1rHzS9M, Nguồn: churchpop, Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 8/10/2018.
[2] Trích từ bài viết:
“Ba ơn kêu gọi đặc biệt Chúa dành cho ba linh hồn khác nhau”, trong https://vntaiwan.catholic.org.tw/01news/thoisu 193.htm;
Nhật báo Công giáo Ý” số ra ngày 18/11/2001.
[3] Trích từ bài viết:
“Ba ơn kêu gọi đặc biệt Chúa dành cho ba linh hồn khác nhau”, trong https://vntaiwan.catholic.org.tw/01news/thoisu 193.htm;
Nhật báo Công giáo Ý” số ra ngày 18/11/2001.
[4] Trích từ bài biết “Ba cái
không trong đời sống người tu sĩ”, Nguồn: giadinhhiepnhat.com trong
http://giaophanthanhhoa.net
[5] Trích từ bài viết “Các bài giảng
về phục vụ” của Đức cha Bùi Tuần, trong http://ghhv.quetroi.net.
[6] X.
HOÀNG SƠN, Thần học thiêng liêng, in VietCatholic CD, 2001.
[7] Trích từ cầu chuyện “Hai vì
sao mỉm cười”, trong https://www.mtgthuduc.net/index/hai-vi-sao-mim-cuoi/.
[8] Trích Đường Hy Vọng, số 18, tr. 26.
[9] Trích từ bài viết “Thánh Giá:
điểm hẹn tình yêu”,
trong https://www.giaophanbaria.org.
[10] Trích Sách Gương
Chúa Giêsu, quyển II, chương 12, tr. 172.
[11] x. Bts I,4.
[12] x. Ibid.
[13] Trích từ bài viết “Khuôn mặt của
Chúa”,
trong https://gxdaminh.net/ngay-28-02-khuon-mat-cua-chua/.
xem qua vòng trầm hương mix thánh giá
Trả lờiXóaĐăng nhận xét