Suy tôn Thánh giá là tôn vinh Tình Yêu của
Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một
hy lễ dâng lên Chúa Cha,
Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.
Phêrô
Mạnh Tâm, OP
Thánh giá, biểu tượng tối quan trọng
đối với niềm tin Kitô giáo. Đền thờ, nhà thờ Công giáo nào cũng đều đặt thánh
giá làm trung tâm. Gia đình nào cũng đều treo thánh giá cao nhất của bàn thờ.
Nhưng có người thắc mắc rằng: tại
sao người Kitô hữu lại tôn thờ thập giá là biểu tượng của đau khổ, của sự dữ mà
chính trong thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô cũng xác định (1 Cr 1, 23): “Thập giá đối với dân ngoại là sự
điên rồ và dân Do Thái là sự tủi nhục”?
Nhân dịp Hội dòng Mến Thánh Giá
mừng kỷ niệm 350 năm hiện diện trên quê hương Việt Nam, tác giả bài viết muốn
độc giả hiểu rõ hơn lược sử của cây thập giá của Chúa Giêsu, cùng với ý nghĩa
thần học của nó.
I. LƯỢC
SỬ VỀ CÂY THẬP GIÁ CỦA CHÚA GIÊSU
VÀ
LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
Lịch
sử về cây Thánh giá và ngày lễ (tóm lược của tác giả Trần Văn Trí + sưu tầm, suy gẫm):
- Khoảng ba thế kỷ đầu thời Tông
đồ, Kitô Giáo bị đàn áp và bách hại rất khốc liệt. Vua Adriano (76 –138 ), khi
lên ngôi hoàng đế Roma (117 – 138) đã ra lệnh triệt hạ hay phá hủy các di tích
về Đức Giêsu Kitô Cứu Thế, như nơi Chúa Chịu Khổ Nạn, Chịu Chết và Mai Táng.
Rồi khoảng năm 135, ông còn cho xây nhiều đền thờ bụt thần trên mộ Thánh của
Đức Kitô và tìm mọi cách chôn giấu Thánh Giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh, không
cho giáo hữu tôn kính. Trong khi đó tại Giêrusalem, Giáo Hội lại đi tiên phong
trong các lễ nghi và nghi thức Phụng Vụ liên quan đến Đấng Cứu Thế cũng như tôn
vinh Thánh Giá.
- Đến thế kỷ IV, thời vua
Constantino I (khoảng năm 270, 280 - 337), làm hoàng đế Roma (306 – 337), được Chúa cho dấu lạ. Để được đại thắng quân xâm
lăng của Maxentio đang xâm chiếm nước Ý, vua
Constantino I (306 – 337) đã nhìn thấy xuất hiện trên trời điềm lạ “một thập
giá sáng ngời” với lời phán: “Dưới dấu
chỉ này, người sẽ chiến thắng – In hoc signo vinces”. Vua ra lệnh giương
cao “dấu Thánh Giá – signum Crucis” làm cờ hiệu và đã chiến thắng quân Maxentio
tại chân tường Roma, gần cầu Milvian, vào ngày 28.10.312. Vua nhìn nhận đó là
“dấu chỉ Thiên Chúa ban ơn”, nên đã ra lệnh dẹp bỏ mọi hình thức bắt đạo và
truyền loan “Kitô Giáo là tôn giáo chính thức của hoàng triều Roma.” Sau chiến
thắng, Ông trở xin rửa tội và bà Helena, mẹ vua, cũng trở lại đạo Công Giáo. Vì
lòng kính mến Chúa Giêsu Cứu Thế và nhiệt thành sùng mộ Thánh Giá, năm 326, dù
đã 80 tuổi, bà cũng thân hành qua Thánh Địa, cộng tác chặt chẽ với Đức Cha
Macario, Giám Mục thành Giêrusalem, để cho tiến hành tìm các nơi Thánh, di tích
sau hết của cuộc đời Chúa Cứu Thế.
- Hoàng hậu
Helena cho xúc tiến đào bới về khảo cổ tại chân núi Calvario và đã lần lượt tìm
được các di tích về khổ nạn, chịu chết và mai táng Chúa Giêsu trong mộ, trong
đó tìm được ba cây Thập Giá: một của Đức Kitô và hai của hai tên trộm. Theo
nghiên cứu về Thánh địa, linh mục Jaud cho biết: Nhờ phép lạ cứu sống một bệnh nhân đang hấp hối và một
người đã chết được sống lại, khi mỗi người chạm đến gỗ Thánh, Đức Giám Mục
Macario xác định thập giá thực trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh và gọi tên là
Thánh Giá. Sau đó, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và
một tại mộ thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được
tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền Thờ
Calvario và Mộ Thánh. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần
rất nhỏ, chia cho các Giáo Hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần gỗ Thánh lớn hơn
và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng
thể vào ngày 14 tháng 9 năm 335.
-
Thế kỷ VI, khi
giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès I (531 – 579), đem quân đến Cận Đông và đánh
thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi
cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius
(575 - 641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage,
đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3.10.610,
và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius I (610 – 641). Ông đã lấy lại cây
Thánh Giá thực.
Theo tương
truyền Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantino, rồi từ đó rước khải hoàn về
Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc
vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá
nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo Chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng
đế thận trọng vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không
hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu
Kitô.” Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo Chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì
gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius I vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với
gỗ Thập giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết
được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở
nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám
được giải thoát... Từ đó, tại Giêrusalem, Đức Giám mục đã cử hành
trọng thể lễ Suy Tôn Thánh Giá cũng vào ngày 14 tháng 9 năm 629 và duy trì cho
đến hôm nay. [1]
Ý
nghĩa của việc Suy Tôn Thánh Giá
Vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ
nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt
như Giáo phụ Tertuliano, đều cho
biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa,
người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá.” Thậm chí người Kitô hữu có thói quen
làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành của Chúa.
Dấu
Thánh Giá
Thông thường, khi làm Dấu Thánh Giá
trên mình, người Kitô hữu đọc kinh: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Nhưng
vẫn có nhiều trường hợp làm Dấu Thánh Giá mà không đọc Kinh Dấu Thánh Giá, như
trong Thánh Lễ với câu: “Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa”, và sau Kinh cáo
mình: “Xin Thiên Chúa toàn năng...” Hoặc, trước khi đọc Phúc Âm, vị Chủ Tế hoặc
Phó Tế làm Dấu Thánh Giá nhỏ trên khởi đầu Tin Mừng, rồi làm Dấu Thánh Giá nhỏ
trên trán, trên môi miệng và trên ngực.
Hoặc, trong Phụng Vụ Giờ Kinh khi đọc “Lạy Chúa, xin hãy phù trợ chúng
tôi – Deus in adjutorium nostrum intende”, hay khởi đầu các bài “Magnificat”,
“Benedictus”, hay “Nunc Dimitis”, hoặc làm một Dấu Thánh Giá nhỏ trên môi khi
đọc: “Lạy Chúa xin mở môi con ra – Domine labia mea aperies”. [2]
Mầu
nhiệm Thánh Giá
Giáo huấn của Hội Thánh rất phong
phú về Suy Tôn Thánh Giá. Theo hướng dẫn của Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, suy
tôn Thánh Giá chính là:
* Minh chứng Đức Tin tuy âm thầm
nhưng mạnh mẽ của Mẹ Maria. “Khi chứng
kiến Chúa Giêsu bị treo trên Thập Giá, Đức Tin của Mẹ không bao giờ dao động vì
Mẹ tin rằng Thiên Chúa sẽ hoàn tất lời hứa của Ngài cứu chuộc nhân loại”
(SGLHTCG 149).
* Ý nghĩa đích thực của vương quyền
Đức Kitô khi được treo trên thập giá. Thánh Phêrô đã công khai tuyên bố “Sau khi sống lại, Vương Quyền Mêsia này mới
được thánh Phêrô công bố trước mặt dân Thiên Chúa: "Vậy toàn thể nhà Ítraen
phải biết chắc điều này : Ðức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập Giá, Thiên Chúa
đã đặt Người làm Ðức Chúa và làm Ðấng Kitô" (Cv 2, 36; SGLHTCG 440).
* Kêu gọi yêu thương, hiệp nhất,
như lời thánh Phaolô Tông Đồ: “Chúa Kitô
bị treo trên Thập Giá thu hút mọi người đến với Ngài” (Ga 12, 32; SGLHTCG
160), “lôi cuốn hết thảy cùng hiệp nhất với nhau” (SGLHTCG 542).
* Tuyên rao Nước Chúa trị đến, như
lời ca tôn vinh gỗ Thập Giá “Vexilla Regis” Thứ Sáu Tuần Thánh ghi lại: “Chính nhờ cây Thánh Giá của Chúa Kitô mà
Nước Thiên Chúa được thiết lập cách dứt khoát... Thiên Chúa đã cai trị từ trên
cây gỗ này” (SGLHTCG 550).
* Thánh Giá là bằng chứng Chúa
Giêsu tiếp tục bênh vực cho chúng ta trên Nước Trời. Thánh Phaolô Tông Đồ nói:
“Sự nâng lên trên cây Thập Giá ngụ ý và
báo trước việc Chúa lên Trời. Ngài là Đấng ra trước Thiên Chúa để bênh vực
chúng ta” (Dt 9, 24; SGLHTCG 662).
Công Đồng Vatican II (1962 – 1965)
khai triển Suy Tôn Thánh Giá hướng đến:
- Mầu nhiệm Phục Sinh: “Sau khi chịu chết trên Thập giá,
Đức Kitô đã phục sinh” (GH). “Nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, thế gian
đã được giải thoát” (MV, 2).
- Thánh Lễ: Mỗi
lần hy tế Thập Giá được cử hành trên bàn thờ, Chúa Kitô, Chiên Vượt Qua của
chúng ta chịu hiến tế” (1Cr 5, 7) thì công trình cứu chuộc được thực hiện” (GH,
3).
- Ơn cứu độ: “Nhờ Người đã hoàn tất công trình
cứu chuộc trên Thập Giá, mang lại cho con người ơn cứu độ và tự do” (TD, 11).
- Hòa giải”: “Đức Kitô đã hòa giải con người
với Chúa Cha bằng Thập Giá” (MV, 78).
- Vác Thánh Giá theo chân Chúa
Giêsu: “Tưởng niệm
Thập Giá và sự Phục Sinh của Đức Kitô, người tín hữu vác Thập Giá bước theo
Chúa Giêsu” (TĐ, 4; GH, 41).
II. Ý
NGHĨA THẬP GIÁ CỦA NỮ TU MẾN THÁNH GIÁ
Chương
II của Hiến pháp Hội dòng Mến Thánh Giá (HDMTG) minh định rằng:
Linh đạo của Đức Cha Lambert, tổng hợp kinh nghiệm thiêng liêng và quan niệm tu đức của ngài,
được phản ánh sâu sắc và phong phú trong các bút tích ngài để lại. Nguồn mạch cho đời sống thiêng liêng của ngài là Đức Kitô, xoay
quanh trọng tâm là Đức Kitô, rập theo
khuôn mẫu là Đức Kitô, và hướng về cùng đích là Đức Kitô).
Do đó, chúng
ta có thể nói được rằng, linh đạo của Đức Cha Lambert mang đặc tính Kitô trung tâm. Linh
đạo ấy, tập trung vào ba chiều kích chiêm niệm, khổ chế và tông đồ, hướng dẫn đời sống thiêng liêng và hoạt động truyền giáo cho các
thừa sai và người nữ tu Mến Thánh Giá. Châm ngôn của Dòng: “Chúa
Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí
con.”
Chiêm
ngắm Đức Giêsu Kitô Chịu-Đóng-Đinh là gì?
Tình yêu
đối với Đấng chịu đau đớn, hấp hối và chết trên giá gỗ còn gợi lên trong tâm
trí Đức Cha Lambert tước hiệu đặc biệt của Chúa Giêsu Kitô trên Thánh Giá. Ba
chữ “Chịu-Đóng-Đinh” là sáng kiến đầy ý nghĩa đã được ngài thêm vào sau tên
Chúa Giêsu, trong khẩu hiệu ngài thường viết đầu lá thư: “Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh
phải là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”. [3] Quả vậy, kinh
nghiệm thiêng liêng của Đức Cha Pierre Lambert là một kinh nghiệm về tình yêu
phi thường dành riêng cho Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh. Chính tình yêu ấy là linh
hồn và động lực của đời sống chiêm niệm, khổ chế và tông đồ của ngài.
Với
khuynh hướng tập trung vào đối tượng duy nhất là Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh,
Đức Cha Lambert còn tìm ra những nguyên tắc hữu hiệu cho đời sống nội tâm,
những phương pháp cầu nguyện đặc biệt, đồng thời cũng khám phá được những bí
quyết thánh thiêng, mới mẻ, đem lại lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn:
Thật vậy, chúng ta hãy nhìn xem ở đâu mình có thể nhận được nhiều ánh
sáng hơn để chiếu soi cho trí hiểu, nhiều tình yêu hơn để nung nấu ý chí, và
nhiều đề tài hơn để nhắc chúng ta nhớ lại nghĩa vụ của mình đối với Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta? Có gì có thể sánh với việc liên lỉ nhìn thấy Chúa hiện
diện, chịu đau đớn, hấp hối và chết trên giá gỗ? Nếu chúng ta muốn giục lòng
tin, cậy, mến là ba nhân đức hướng thần điều gì có khả năng gây nhiều ấn tượng
hơn là việc liên lỉ nhìn ngắm cảnh tượng đó.
Ba tiêu
chí để diễn tả:
Thứ
nhất. Việc chiêm ngắm ấy cũng đem lại cho đời sống thiêng liêng một hiệu quả
chắc chắn, đó là khi linh hồn chỉ tập trung vào Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh,
chỉ nhìn thấy những đau đớn của Người trên Thánh Giá, thì sẽ kết hợp với Thiên
Chúa một cách rất đặc biệt.
Thứ hai.
Nhờ ân sủng nhận được qua việc chiêm ngắm ấy, chúng ta sẽ học được cách làm chủ
hoàn toàn mọi đam mê của mình, để từ làm vui lòng Chúa Chịu-Đóng-Đinh, và chỉ
tìm kiếm những điều có thể làm cho mình yêu mến Chúa hơn”
Thứ ba.
Thật vậy, đây là cách thực hành thánh thiện của người môn đệ Chúa Giêsu trong
việc nguyện ngắm, là bí quyết lớn nhất của đời sống nội tâm và trọn lành, và là
nét đặc thù trong linh đạo của Đức Cha Lambert.
III. Ý NGHĨA THẦN HỌC VỀ THÁNH GIÁ
Trong
Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và
giàu ý nghĩa; "cột rắn": một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế
kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột Thánh giá”.
Con rắn
– biểu tượng sự chết và sự dữ
Điều
này nhắc nhở mọi tín hữu Công giáo:
* Dân Do Thái đã phạm tội: nghi
ngờ, mất tín thác, than trách Chúa. Hậu quả mà Sách Dân Số (21,4-9) đề cập: dân bị rắn độc cắn chết. Tin
vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc
vào người. Nhắc nhở Adong – Evà đã nghe lời dụ dỗ
rắn mà hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con
người với con người bị phá vỡ (St 2,17). Treo
con rắn lên để cho thấy rằng: Dân Do Thái đã chọn sự dữ. Một khi gạt Thiên Chúa
ra ngoài, thì sự dữ sẽ thống trị. Nhưng,
* Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Người dùng chính biểu tượng cho sự dữ,
ác, biến nó thành sự sống. Tại sao Thiên Chúa không chữa mà lại ra lệnh cho
treo con rắn? Hình ảnh báo trước Chúa Giêsu sẽ bị treo lên như vậy bởi tội con
người. Thưa: đó là đường lối nhiệm mầu của Thiên Chúa: đường lối cứu độ.
Hình
ảnh “treo con rắn
trong sa mạc” là “lời tiên báo” rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm
Thập giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan,
Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của
Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha đã
ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng
được sống đời đời (Ga 3,16).
Treo
“Rắn” lên – Ai nhìn thì được cứu: Tôn vinh Tình yêu cứu độ
Suy tôn Thánh giá là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một
Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên
Chúa Cha, Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”. Đức Kitô đã thay cho con
rắn (sự dữ, cái chết) mang lại sự sống và Tình yêu. Và ai nhìn vào Đức Kitô thì
được sống và tha thứ.
Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được
giương cao trên cây thập giá. Trong Cuộc
Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn. Theo Thánh Phaolô:
Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Ngài
“đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21; Gl 3, 13).
KẾT LUẬN
Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng
đinh trên Thánh giá, chứ không nhìn khổ giá.
“Con
rắn đồng” trong sa mạc không phải cứu dân Do Thái, nhưng nhờ họ sám hối, tin
vào lời Môsê và tin vào Thiên Chúa. Cũng vậy, cây thập giá không có sức cứu độ con người nếu không có Đấng Chịu Đóng Đinh trên đó. Quả thật, “Thập giá là một sự điên rồ đối với dân ngoại, và là một điều ô nhục đối
với người Dothái” (1 Cr 1, 23).
Nhưng thập giá trở thành dấu chỉ cứu độ là chính nhờ Đức Kitô chịu chết treo trên đó. Con người được cứu là nhờ NHÌN LÊN VÀ TIN VÀO. “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc.
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được
sống muôn đời.”
Vì vậy, khi suy tôn thánh giá,
chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập. Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá. Ngài là Đấng vô
tội, là Con Thiên Chúa làm người, là "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì
tôi" (Gl 2, 20). Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và
cái chết, nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu: Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian
người Con Một, Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em. Đau khổ và
cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu. Tình yêu lớn nhất là tình yêu
hiến mạng.
Thánh Phaolô
nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh
diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá
Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế
gian” (Gl 6:14). Có như vậy, chúng ta mới biến khổ giá thành
Thánh giá, thành cây mang lại sự sống. Thánh giá sẽ nở hoa và trở thành chìa
khóa đưa ta vào Nước Thiên đàng.
[1] Viết theo nghiên cứu của Abbé
L. Jaud, Vie des Saints, 1950
[2] Trong Giáo Hội Chính Thống
Giáo, việc làm Dấu Thánh Giá được thực hiện nghiêm chỉnh bằng “bàn tay phải với
ba ngón tay “ngón trỏ, ngón chỉ và ngón giữa” tụm lại, tiêu biểu niềm tin vào
Ba Ngôi Thiên Chúa; còn hai ngón đeo nhẫn và ngón út thì sát vào nhau, để chỉ sự
kết hợp của “thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu”.
[3] Đây là khẩu hiệu mà ngài kế thừa
của linh đạo trường phái Pháp: “Chúa
Giêsu-Kitô phải là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”
(J. Guernou, op.cit.,p.112). Xc. Nhóm NCLĐMTG, Tiểu Sử-Bút Tích Đức Cha
Phêrô-Maria Lambert de la Motte (Tiểu Sử), sđd., 8, tr.15.
Đăng nhận xét