Phong trần
Con người là gì? Phẩm giá con người là gì? Con người đã và còn đang đưa ra nhiều
quan niệm về chính mình, những quan niệm khác nhau và đôi khi trái ngược nhau.
Theo những quan niệm đó, thường con người tán dương mình như một mẫu mực tuyệt
đối hay lại chê bai đến độ tuyệt vọng, từ đó con người hoài nghi và lo lắng bất
an.
Thông
cảm sâu xa được những khó khăn này, Giáo hội, vì được Thiên Chúa là Ðấng mạc khải dạy dỗ, đã trải
qua một lịch sử lâu dài để hiểu những điều mạc khải về phẩm giá con người, có
thể đem lại câu giải đáp cho những khó khăn ấy, nhờ đó diễn tả được thân phận
đích thực của con người, đồng thời có thể nhìn nhận xác đáng phẩm giá và thiên
chức của con người để từ đó, giúp chúng ta có thể sống đúng với nhân phẩm mà
Thiên Chúa đã tặng ban cho chúng ta.
1.
Con
người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa
Thực
vậy, Thánh Kinh dạy rằng con người đã được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa”, theo nghĩa họ có khả năng nhận biết
và yêu mến một cách tự do Đấng Sáng Tạo nên mình. Trên mặt đất, chỉ có con
người là thụ tạo đã được Thiên Chúa dựng nên cho chính họ và mời gọi họ tham dự
vào đời sống thần linh của Ngài nhờ nhận biết và yêu thương. Vì “con người là chi mà Chúa cần nhớ đến? Phàm
nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? So với thiên thần Ngài có để cho thua mấy tí.
Vinh dự huy hoàng là triều thiên Ngài ban tặng. Ngài cho thống trị các kiệt tác
tay Ngài làm, muôn sự Ngài đã đặt dưới chân” (Tv 8,5-7). Và vì được tạo
dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có phẩm giá của một ngôi vị; họ không
phải là một sự vật, nhưng là một con người có khả năng nhận thức về bản thân
mình, tự hiến mình cách tự do và đi vào sự hiệp thông với Thiên Chúa và với tha
nhân.
Kinh
Thánh viết: “Chúng ta hãy làm ra con
người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm
bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi
giống vật bò dưới đất” (St 1,26). Như vậy, chính Thiên Chúa đã
thông ban cho con người hình ảnh của chính mình khi tạo dựng con
người trong kế hoạch yêu thương Ngài vạch ra. Con người được tạo
dựng từ cát bụi với một thân xác của thế giới tự nhiên. Chất thể
nơi xác thịt không chỉ đơn thuần như mọi loài thọ tạo khác nhưng
là một thân thể với vị thế đặc biệt bởi là bàn thờ, nơi Chúa
Thánh Thần cư ngụ. Hình ảnh của Thiên Chúa không chỉ hữu hạn nơi
thân xác của con người nhưng còn ở nơi sâu xa nhất của linh hồn
thiêng liêng của mình. Con người vượt trên mọi loài thọ tạo hữu
hình vì họ có một linh hồn bất tử. Linh hồn được chính Thiên Chúa
phú ban cho con người với đặc tính thiêng liêng, bởi đó chúng ta
không thể nhìn thấy hay khảo sát theo khoa học, nhưng linh hồn được
quan chiêm dưới con mắt đức tin với những biểu hiện của mình. Hình
ảnh của Thiên Chúa nơi linh hồn con người được biểu hiện với
những đặc tính căn bản: lý trí, ý chí và tự do; bởi đây là ba
đặc ân rất riêng mà Thiên Chúa dành cho con người trong mọi loài
thọ tạo của mình.
2. Con người có lý trí
“Dự phần vào ánh sáng của trí tuệ Thiên Chúa,
con người có lý để nhận định rằng nhờ trí tuệ họ vượt trên mọi tạo vật”
(Hiến chế Gaudium et Spes, số 15).
Nhờ
vào kinh nghiệm, lao động và sáng tạo, con người đã khám phá ra và phát minh ra
những công trình khoa học kỹ thuật, nghệ thuật… con người không chỉ hiểu biết
những hiện tượng vật chất mà còn có thể nhận biết những thực tại siêu hình mặc
dù lý trí đó đã bị tội lỗi làm suy nhược. Sự hiểu biết sẽ thôi thúc con người
không ngừng tìm kiếm và yêu mến những gì là chân, thiện và mỹ. Nhờ suy tư hiểu
biết, nhân vị con người được kiện toàn. Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần,
con người có thể tiến tới “sự chiêm ngưỡng và nếm hưởng mầu nhiệm thánh ý Thiên
Chúa”. Nhờ vào ánh sáng của lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết các
bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, và những bằng chứng này “có thể giúp con người dễ đón nhận đức tin
và cho thấy đức tin không nghịch với lý trí” (sách GLHTCG số 35); tuy nhiên
lý trí con người cũng có giới hạn, vì thế con người cần đến mạc khải của Thiên
Chúa để hiểu biết về Người một cách không thể sai lầm.
3.
Lương
tâm con người
Con người khám phá ra tự đáy lương tâm một lề luật mà chính con người
không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm
luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh
điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy
làm điều này, hãy tránh điều kia. Quả thật con người có lề luật được Chúa khắc
ghi trong tâm hồn {…} Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của
con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói
của Ngài vang dội trong thâm tâm họ. Lương tâm làm cho con người nhận biết một
cách tuyệt vời luật mến Chúa, yêu người. Trung thành với lương tâm, người Kitô
hữu liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân
lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong
giao tiếp xã hội (Gaudium et Spes 16).
Con
người cần đào luyện lương tâm để cho nó phù hợp với những điều luật luân lý
khách quan, hầu mong tránh những sai lầm. Sống theo tiếng nói lương tâm, lương
tâm không sai lầm và lương tâm khách quan, sẽ làm cho phẩm giá con người có giá
trị trước mặt Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con
người quy luật luân lý vĩnh cửu, luật đưa đến chân lý và sự sống đời đời.
4.
Ý
chí tự do của con người
Cái
nét nổi bật nơi con người và cũng là cái làm nên sự phong phú nơi con người là
ý chí tự do. Cái tự do mà chúng ta muốn nói ở đây là tự do hào hùng của con cái
Chúa, chứ không phải là thứ tự do nô lệ (x. Gl 5,1-25). Con người “được gọi để
thừa hưởng tự do”. Nhưng trong thực tế, con người lại “lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt” (Gl 5,13). Trong cuộc
sống hiện đại hôm nay, người ta đề cao tự do, một thứ tự do muốn làm gì thì làm
bất chấp luật luân lý. Con người đã vô tình biến cái tự do thành một thứ nô lệ
của những ước muốn theo tính xác thịt: “dâm
bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng
giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều
khác giống như vậy” (Gl 5,19-21).
Cái
tự do thực sự của con người chỉ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Khi con người muốn đi
ra khỏi tầm ảnh hưởng của Người thì chính lúc đó con người sẽ đánh mất tự do.
Tự do là cái quý giá nhất của con người, nhưng trong thực tế, con người đã lạm
dụng tự do để đi ngược lại, hay nói một cách khác muốn gạt Chúa ra ngoài cuộc
đời mình, biến mình thành cùng đích đời mình. Thực tế, khi con người tách ra
khỏi Thiên Chúa, con người đã không còn tự do nữa mà đã hoàn toàn trở nên nô lệ
cho chính mình. Khi làm như thế, con người giam hãm đời mình, và chính lúc đó
con người đánh mất tự do, đã trở nên nô lệ cho tội lỗi.
Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa trong con
người. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn để con người tự định liệu, hầu con người tự
mình đi tìm Đấng Tạo Dựng và nhờ kết hợp với Ngài con người tiến tới sự hoàn
thiện trọn vẹn và hạnh phúc. Vậy phẩm giá của con người đòi họ phải hành động
theo sự chọn lựa ý thức tự do, nghĩa là chính con người được thúc đẩy và hướng
dẫn tự bên trong, chứ không do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn bên
ngoài. Con người sẽ đạt tới phẩm giá ấy một khi nhờ tự giải thoát khỏi mọi kiềm
tỏa của đam mê, con người theo đuổi cùng đích của mình trong sự tự do chọn lấy
điều thiện và khôn khéo thực sự tạo cho mình những phương tiện thích ứng. Tự do
của con người vì bị tội lỗi làm tổn thương nên chỉ nhờ ơn Chúa trợ lực mới có
thể thực hiện việc hướng về Thiên Chúa cách hoàn toàn sống động (Gaudium et Spes, 17).
5. Tội lỗi – nguyên nhân làm giảm nhân phẩm
Từ buổi đầu, con người
được dựng nên trong tình trạng công chính nguyên thủy. Con người đã không vâng
theo lời Thiên Chúa dạy bảo nhưng đã nghe lời xúi giục của Thần Dữ để chống lại
Thiên Chúa và muốn tìm được cùng đích đời mình ngoài Thiên Chúa. Mặc dù nhờ ánh
sáng của lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết mà yêu mến phụng sự Chúa,
họ đã không làm như vậy, nhưng đi phụng sự các loài khác cũng là thụ tạo như
mình (x. Rm 1,21-25).
Điều Thiên
Chúa mạc khải cho ta biết cũng phù hợp với kinh nghiệm của ta. Bởi vì nếu nhìn
sâu tận đáy lòng mình, con người cũng khám phá ra rằng mình đã hướng về sự dữ
và đã ngụp lặn trong muôn vàn sự dữ là những điều không thể xuất phát từ Đấng
Tạo Hóa tốt lành của mình. Nhiều khi từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa như
nguyên ủy của mình, con người cũng đã phá đổ trật tự phải có để đạt tới cùng
đích của mình và đồng thời cũng phá vỡ mọi hòa hợp nơi bản thân cũng như đối
với những người khác và với mọi loài thụ tạo (Gaudium et Spes 13,1).
Từ khi tội lỗi xâm nhập
vào thế gian, hình ảnh con người bị hoen mờ, phẩm giá con người bị hạ thấp và
làm ngăn cản con người đạt đến sự viên mãn của đời mình là được kết hợp với
Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu.
6. Nhân phẩm con người
được kiện toàn nơi Con Người
Mới là Chúa Kitô
Thực vậy, mầu nhiệm về
con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì
Adam con người đầu tiên đã là hình bóng của Adam sẽ đến, là Chúa Kitô. Chúa
Kitô, Adam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã cho con
người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của
họ. Bởi vậy không lạ gì khi những chân lý đã nói ở trên đều tìm thấy nguồn gốc
của chúng và đạt tới tột điểm nơi Người.
Chính Con
Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người
đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành
động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người {…} giống chúng ta
mọi sự, ngoại trừ tội lỗi (Gaudium et Spes 22,2).
Là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl
1,15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu
của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người
bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi
chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì,
chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi
người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con
người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người.
Sinh ra bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta,
giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.
Là
Chiên vô tội, Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính trong
Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa chúng ta
với nhau cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi. Do đó,
mỗi người chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Ðồ rằng: Con Thiên Chúa “đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi
nữa” (Gl 2,20). Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Người nêu gương để
chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng
ta theo Người thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.
Con người Kitô hữu khi
trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đúc, họ
nhận được “những hoa trái đầu mùa của
Thánh Thần” (Rm 8,23), nhờ đó họ có thể chu toàn lề luật yêu thương mới.
Nhờ Thánh Thần làm “bảo chứng cho quyền
thừa tự” (Ep1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi
“thân xác được cứu rỗi” (Rm 8,23). “Nếu
Thánh Thần Chúa là Ðấng đã khiến Chúa Giêsu từ kẻ chết sống lại cư ngụ trong
anh em, chính Ðấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ chết sống lại đó cũng sẽ làm
sống động thân thể hay hư nát của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em”
(Rm 8,11). Người Kitô hữu chắc chắn cần thiết và có bổn phận chiến đấu chống
lại sự dữ khi phải trải qua nhiều gian nan cũng như phải chết. Nhưng vì được dự
phần vào mầu nhiệm phục sinh, được đồng hóa với cái chết của Chúa Kitô, được
mạnh mẽ nhờ đức cậy, họ sẽ được sống lại.
Ðiều nói trên không
phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được
ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn. Thực vậy, vì Chúa Kitô đã
chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất,
nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho
mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, nhưng theo cách nào đó
thì chỉ có Chúa biết thôi.
Tính chất và
sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo soi sáng
cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự
chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc
Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và
Người đã ban cho ta dồi dào sự sống để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu
lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha!” (Gaudium
et Spes 22, 6).
Tạm kết
Con người không
phải là sự kết hợp hay tổng hợp của xác và hồn nhưng là xác hồn
hợp nhất; nói cách khác con người là xác, là hồn. Bởi đó, chúng
ta - những con người đang sống không thể nào tách biệt được hồn và
xác ra khỏi nhau bởi chỉ sự hiệp nhất xác hồn mới tạo nên sự sống
nơi con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa và được
Thiên Chúa trao tặng những điều cao cả đến từ chính Ngài. Phẩm giá
con người bắt nguồn từ Thiên Chúa và cùng đích của phẩm giá của con người là
được kết hợp với Ngài:
Tận đáy lòng,
con người khao khát Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho
Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với mình, và chỉ nơi
Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm
kiếm (Sách GLHTCG số 27).
Ý nghĩa cao cả nhất của phẩm giá con người là con người được
kêu gọi tới kết hiệp với Thiên Chúa. Ngay từ lúc sinh ra, con người đã được mời
gọi đối thoại với Thiên Chúa: thực thế, sở dĩ con người hiện hữu là do Thiên
Chúa đã vì yêu thương mà tạo dựng con người, và cũng vì yêu thương mà luôn luôn
bảo tồn con người; và con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một khi tự ý
nhìn nhận tình yêu ấy và phó thác đời mình cho Đấng tạo dựng mình (Gaudium et Spes 19,1).
Kinh Thánh cho ta một
hình ảnh của Thiên Chúa trọn vẹn nhất nơi con người Giêsu - Con
Thiên Chúa làm người. “Thánh tử
là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi
loài thọ tạo” (Cl 1,15). Nếu chúng ta muốn khắc họa hình ảnh Thiên
Chúa trong cuộc đời chúng ta, điều cần thiết là nên giống với Đức
Kitô trong cách sống của chính Ngài và thể hiện điều đó trong cuộc
đời của mình.
Đăng nhận xét