Lương tâm Luân lý & hạnh phúc đích thực của con người

 

Thành Duy, OP.


Tiếng “hạnh phúc, hạnh phúc” như là một mệnh lệnh tối thượng thôi thúc con người tìm kiếm và hướng tới, từ khoảnh khắc chào đời cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Thế nhưng, làm sao để có được hạnh phúc? Quả thật, có muôn vàn câu trả lời cho một câu hỏi này. Trong hành trình tìm kiếm và dựng xây hạnh phúc đó, con người đã không ít lần tự giẫm lên đôi chân của mình để rồi trượt ngã té nhào. Bởi vì, họ đã không làm theo hoặc không tìm ra một con đường, một lối đi, một “ngọn hải đăng” đích thực cho đời mình.

Thật vậy, trong một vài năm trở lại đây, người ta thấy trên các phương tiện truyền thông xuất hiện ngày càng nhiều “nhà” hoạt động ở các lĩnh vực như Kinh tế, Chính trị, Văn hóa, Giáo dục, Tôn giáo. Đặc biệt, nhiều “nhà” là facebookers, youtubers, vloggers tự phát xuất thân từ nhiều thành phần trong xã hội. Mục đích chủ yếu của nhiều trong số những “nhà” này là làm các video nhằm câu “view”, câu “like” để đạt số lượng lượt quảng cáo hầu có thể tăng phần thu nhập cho bản thân. Các “nhà” này có thể là một bác sĩ, một nhà giáo, một kỹ sư, một chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó; họ cũng có thể là một “tay anh chị”, một người thất nghiệp, một anh chạy xe ôm, một bà nội trợ hay một chị bán cá. Nói chung, các “nhà” này có thể tự do thoải mái bàn luận và hướng dẫn người khác về mọi vấn đề trong đời sống, miễn sao không vi phạm pháp luật hiện hành. Điều đáng nói là không phải tất cả những gì các “nhà” này nói hay “hướng dẫn” đều nằm trong chuyên môn của họ. Thậm chí, một số hoạt động của họ còn có nguy cơ dẫn người nghe, người xem đến tình trạng mê tín dị đoan, quá khích, bạo động, hoặc sai lạc trong nhận thức về luân thường đạo lý, đi ngược lại với giáo lý của Hội Thánh Công giáo.

Đứng trước thực trạng “ai cũng có cái gì đó để chia sẻ” để “cho đi”, ai cũng có thể trở thành “chuyên gia”, “chuyên viên”, “nhà tư vấn” qua những trang mạng truyền thông xã hội, các bạn trẻ, đặc biệt những bạn trẻ Công giáo gặp phải không ít khó khăn trong việc phân định trước nhiều tình huống của đời sống, cụ thể là những gì liên quan đến Lương tâm luân lý theo đạo lý của Giáo hội Công giáo. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi muốn trình bày một vài suy tư từ những điểm căn bản của Lương tâm luân lý Công giáo nhằm cùng với người trẻ nhìn lại và phân định cách tốt hơn trong đời sống xã hội.

1. Con người trước sự khốn quẫn của chính mình

Từ những thứ hấp dẫn và mê hoặc

Đứng trước mọi biến động của thời cuộc, con người luôn tự cật vấn để qua đó tìm cho mình một lối đi thích hợp. Thật vậy, sự không bằng lòng với những gì đang diễn ra, một cách nào đó, đã giúp con người tiến triển trong nhận thức “tôi tư duy, tôi hiện hữu”. Điều này được chứng minh cụ thể vào những thế kỷ VI tCn, khi con người “ly dị” với thế giới Thần thoại để khẳng định nhận thức của con người về thế giới quan và tiếp theo đó là khẳng định về tính trung tâm của đời sống con người trong vũ trụ. Thật vậy, nếu thần thoại là cách con người phóng chiếu vào đó những ước muốn, tình yêu, lòng căm hận; hay để giải thích những vấn đề vượt quá trí hiểu của con người về khởi nguyên của vạn vật (khởi đi từ Chaos - thứ hư vô, hỗn độn - để sinh ra Gaia (trái đất), Eros (tình yêu), Erebus (bóng tối)…); thì kẻ làm chủ vạn vật cuối cùng phải là con người. Quả thật, nhờ suy tưởng mà con người nhận ra rằng thế giới không còn là một thứ mơ mộng hay hảo huyền của những ông thần, bà thánh, mà cũng không phải là của bậc anh hùng nào đó trong huyền thoại điều khiển, nhưng là do mỗi một con người, những kẻ đã và đang sống phải nắm lấy, chịu trách nhiệm và quyết định về vận mệnh của chính mình mà xây dựng nó trong một môi trường cụ thể và chân thực. Điều này chắc hẳn rất đúng với tư tưởng của Franz Boas “Dường như các thế giới thần thoại vừa mới được dựng nên chỉ là để tan vỡ ra, để cho các thế giới mới lại được sản sinh từ những mảnh vỡ của chúng”.

Quả thật, việc kéo thế giới quan và nhân sinh quan về với đời sống con người để họ không còn phải mặc cái “áo đồng phục” trong nhận thức đã giúp cho triết học ra đời và từng bước khai sáng cho đời sống. Tuy nhiên, con người vẫn là một thọ tạo hữu hạn, vì thế họ vẫn có nguy cơ phạm sai lầm nếu quá đề cao cái “tôi suy tư, tôi hiện hữu”. Thực tế, trong dòng lịch sử tư tưởng của mình, con người đã nhiều lần phải đối mặt với sự bức bí trong nhận thức và vì thế đã dẫn đến nhiều hành vi sai lạc trong thực hành.

Trước hết, các chủ thuyết đã làm cho đời sống con người được tôn trọng và đáng để suy xét cách nghiêm túc như: chủ thuyết tương đối, chủ nghĩa đa nguyên, quan niệm về phối cảnh luận (chân lý khách quan và tuyệt đối không tồn tại, nhưng mọi thứ chỉ là vấn đề của cách nhìn cá nhân)... Tuy nhiên, ở góc độ khác, chúng lại gây ra nhiều vấn đề tiêu cực ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống con người. Điểm chung của các chủ thuyết này là không chấp nhận chân lý khách quan phổ quát, nghĩa là không thể quyết định một cách khách quan về các tuyên ngôn về chân lý đối lập nhau. Ai cũng có cái lý đúng, ai cũng có chân lý của mình và phải được nhìn nhận.

Một mặt, điều tích cực là con người cần phải biết tôn trọng nền văn hóa, tư tưởng của nhau bằng đối thoại để hiểu biết chứ không phải áp đặt điều người này muốn lên người kia. Người ta cần phải biết nghi ngờ, cần biết đặt lại mọi vấn đề để phản tỉnh rồi mới có thể dấn thân cách trọn vẹn hơn cho lý tưởng của mình. Mặt khác, sự thái quá trong lập tường “mọi sự chỉ đúng theo cái nhìn của tôi” lại gây ra điều nguy hại và rối loạn, vì, nếu không chân nhận chân lý khách quan, thì các chủ thuyết này một cách nào đó đã loại bỏ Đấng là Chân Lý Tuyệt Đối và phổ quát - Thiên Chúa. Khi con người trở thành trung tâm tuyệt đối thì Thiên Chúa sẽ trở thành vấn đề tương đối, vì sự thật, theo Jean Francois Lyotard, luôn là một phần và “có vấn đề” chứ không phải là hoàn hảo và tuyệt đối. Frederick Nietzsche và Immanuel Kant cũng đồng ý với tư tưởng đó khi cho rằng không có một chuẩn mực chung cho mọi vấn đề.

Điều này làm chúng ta nhớ đến lời của thánh Phaolô:

Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Ki-tô”, vì “họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh váo vì những suy tưởng theo lối người phàm (Cl 2,8.18).

Tới sự tầm thường của cái ác

“Vô độc bất trượng phu” - không ác độc thì không thể làm lớn. Có lẽ không cần phải đợi đến khi đọc tác phẩm của Hannah Adrent “Eichmann ở Jerusalem. Ký sự pháp đình: Một phóng sự về sự tầm thường của Cái Ác” người ta mới thấy ghê rợn về sự ác trở nên tầm thường hóa, nhưng quả thật, sự ác đã trở nên rất nhạt nhẽo, rất tầm thường, rất “vô tư” và “nhạt nhẽo” trong đời sống con người.

Vậy đó là gì?

Đó là sự ác trong việc nạo phá thai; thụ thai trong ống nghiệm, an tử; đó là những hệ thống chính trị đàn áp con người; đó là nạn buôn người; là việc ăn chặn của người nghèo; đó là lòng tham lam vô độ của kẻ cầm quyền; đó là sự thờ ơ trước nỗi đau của một người hay một dân tộc đang bị bách hại; đó là chỉ biết làm giàu bằng mọi cách bất chấp việc ảnh hưởng sức khỏe người khác… Tất cả những điều này phải chăng khởi phát từ những lương tâm chai đá, từ những sự vô tâm, ích kỷ trong lòng người? Quả thật, khi người ta không thấy được ý nghĩa của tha nhân hay của đời sống nơi người khác, người ta sẽ sống “quy tôi”- tất cả cho tôi và vì tôi - hay nói đúng hơn tôi là trên hết “sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”.

Sự ác trở nên tầm thường, vì người ta không nhận ra mình đang sống trong một cộng đồng ngôi vị. Sự vô trách nhiệm khởi đi từ việc không nhìn nhận tha nhân được dựng lên vì chính anh ta - mỗi một người là một huyền nhiệm và là thụ tạo thần linh.

Một khi mỗi một con người không được tôn trọng như họ là thì đồng thời người đó cũng bị xã hội đánh cắp cứu cánh nơi anh ta để rồi dần dần bị biến anh ta thành một dụng cụ trong vòng xoáy quyền lực chính trị. Khi không nhận thức được sự tự do chọn lựa của mình, người ta dễ để kẻ khác dẫn dắt và mù quáng đi theo sự lựa chọn có sẵn đó. Do đó, ta không lấy làm lạ gì khi binh lính của Đức Quốc Xã không hề cảm thấy ray rứt hay áy náy lương tâm khi ra tay tàn sát nhiều người không chỉ một lần mà rất nhiều lần. Qua những thước phim, người ta thấy những sĩ quan Đức Quốc Xã có thể thưởng thức một Bản nhạc Giao hưởng cách bình yên và hạnh phúc ngay sau khi ra tay giết người hàng loạt. Họ có thể vừa mới có những giây phút hân hoan bên người tình của mình và ngay sau đó lấy súng ra bắn chết đồng bào của cô người tình cách thích thú như một thú tiêu khiển. Vì đối với những viên sĩ quan này, đó là một “chiến công” một “việc nghĩa” cần phải làm, hay chí ít đó không phải là trách nhiệm của họ mà chỉ là làm theo lệnh cấp trên.

Một khi đánh mất ý thức trách nhiệm cá nhân và bị dẫn dắt bởi những học thuyết sai lầm - trái với luân thường đạo lý, những người hiền lành chân chất nhất cũng có thể trở thành đồng loã với cái ác. Đã có nhiều bằng chứng trong lịch sử về điều này. Khi quân Đồng minh chiếm được nước Đức năm 1945, họ ngạc nhiên trước việc có rất nhiều người Đức tự nhận mình là không ủng hộ chế độ, nhưng đều không làm gì cả và bỏ mặc cho những tội ác diễn ra. Những người Đức đó vẫn cứ tự cho rằng mình là Những người Đức tốt, vì mình đâu làm gì sai trái. Ngoài ra, ta cũng dễ dàng bắt gặp những đảng viên tốt, nghĩa là “làm theo lệnh cấp trên” cách máy móc ngay cả khi tìm cách tiêu diệt, ám sát các thành viên của một đảng phái hoặc hội nhóm có quan điểm khác biệt. Đó là một sự điên rồ trong nhận thức về sự thiện và quyền lực.

2. Mệnh lệnh mở ra với một đời sống mới

Luân lý hay đời sống luân lý không phải là tháp nhập đời mình vào những điều luật cấm đoán cái này, tránh xa cái kia, hay là để cho một ý thức hệ làm chủ cuộc đời mình, nhưng trước hết và trên hết, nó là đời sống của các Kitô hữu trong Chúa Kitô “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Thật vậy, Thiên Chúa dựng nên mỗi một con người không phải là để họ cuối cùng cũng chết đi, tan biến thành mây khói, nhưng là muốn họ được sống là mình và dự phần vào hạnh phúc vĩnh cửu của chính Người bằng và trong con đường Giêsu.

Tự do trong hành động

Con người, một chủ thể tự do, có khả năng đảm nhiệm lấy cuộc đời của mình và làm cho nó trở nên tốt hơn hoặc xấu đi. Thật vậy, nói đến con người, người ta thường nói đến các hành vi, đặc biệt hành vi nhân linh. Bởi vì, mục đích của hành vi nơi con người không chỉ dừng lại làm thỏa mãn bản thân qua những điều cơ bản thuộc bản năng như đói - ăn, khát - uống; mà các hành vi đặc biệt còn thể hiện ra con người là một thụ tạo thần linh: có ý chí, lý trí và tự do. Con người biết mình được phú ban cho có khả năng để đưa ra quyết định cho mình, do đó, “Hành vi nhân linh là hành vi diễn xuất do trí khôn hiểu biết và lòng muốn thúc đẩy. Nói cách khác là hành vi trong đó con người là chủ thể”[1]. Trong đó, đối tượng của hành vi nhân linh chính là hành vi đó. Như thế, tính tốt xấu của hành vi này, trước hết, là do đối tượng của nó. Vậy, có những hành vi tự chúng là xấu, ví dụ: phá thai, trộm cướp, hiếp dâm, nói dối, nói xấu; và có những hành vi tự nó là tốt, ví dụ: cứu người, giúp đỡ tha nhân, chăm sóc người đau yếu bệnh tật. Bên cạnh đó, có những hành động tự chúng không tốt mà cũng không xấu.[2] Ngoài yếu tố nội tại, hành động của con người còn phụ thuộc vào hoàn cảnh và ý hướng của nó. Hoàn cảnh có thể làm gia tăng hoặc giảm bớt tính chất nghiêm trọng của hành vi, nhưng “các hoàn cảnh không thể thay đổi phẩm chất luân lý của các hành vi; chúng không thể làm cho một hành vi tự nó là xấu thành tốt hay đúng”[3]; trong khi đó, ý hướng làm nên tính luân lý của hành động, vì “ý hướng là từ nguồn mạch chủ ý của một hành động và xác định hành động đó nhờ mục đích, nên nó là yếu tố căn bản trong việc đánh giá tính luân lý của hành động”[4].

Từ một không gian thánh thiêng bên trong

Một thực tại linh thiêng hiện hữu trong mỗi con người mà ai cũng cảm thấy, đó là Tâm Hồn. Quả thật, tâm hồn - nơi người ta có thể vượt lên trên mọi rào cản về văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, tư tưởng để gặp gỡ nhau - chính là nơi kín ẩn nhất, gần gũi nhất của mỗi người thúc bách họ khi thực hiện một hành động. Đây cũng chính là nơi người ta có thể lắng nghe và gặp gỡ với thực tại thần linh. Như thế, nơi cung lòng bí ẩn và nhiệm mầu đó - tâm hồn (cũng được gọi là lương tâm) - người ta có thể tìm thấy một thực tại khách quan, hay nói đúng hơn nơi đó người ta gặp thấy một “mệnh lệnh tối thượng” thôi thúc tìm kiếm điều chân thiện cho mọi hành động bên ngoài của mình. Thật vậy, lương tâm chính là “cung thánh” của con người, nơi đó họ gặp thấy “một lề luật, mà chính con người không tự đặt ra cho mình, nhưng họ phải tuân theo luật đó”[5]. Theo thánh Augustinô: “Lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong tất cả các đại diện của Đức Kitô”, do đó, trong mọi hành động của mình, con người “buộc phải trung thành theo điều mình biết là chính đáng và trung thực”[6].

Trong ý nghĩa đó, không ai có quyền ép buộc người khác làm trái lương tâm, cũng như không được ngăn cản khi họ làm theo tiếng nói lương tâm, vì con người có quyền hành động theo tiếng nói lương tâm của mình “con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán đó, con người tự kết án chính mình”[7].

Đến một cuộc đời không suy xét thì không đáng sống[8]

Một đàng, con người bị bó buộc hành động theo tiếng nói lương tâm, nhưng đàng khác, họ cũng buộc phải luôn truy tầm điều thiện hảo đích thực “phải yêu mến và làm điều thiện và tránh xa điều xấu”. Điều này có nghĩa là lương tâm con người có thể ở trong tình trạng thiếu hiểu biết và dần dần rơi vào tình trạng mù quáng nếu con người ít lo tìm kiếm điều chân thiện. Sự thật, dù lương tâm không mất hết phẩm giá của nó ngay cả khi phán đoán của lương tâm không phù hợp với chân lý khách quan, nhưng một điều xấu vẫn luôn là điều xấu dù nó được thực hiện theo tiếng nói lương tâm.

Quả thật, con người trong hành trình làm người và trở nên người “theo hình ảnh Thiên Chúa” luôn luôn được mời gọi giáo dục và thanh luyện tâm hồn mình bằng lời Chân Thật, noi gương các bậc thánh nhân và siêng năng luyện tập nhân đức. Bởi vì, “lương tâm không phải là vị thẩm phán vô ngộ, nó có thể sai lầm”. Thật vậy, trước hết, lương tâm được soi sáng bởi luật tự nhiên, điều đã được khắc ghi trong tâm hồn mỗi người từ khi họ được tạo dựng “lương tâm đúng là lương tâm có sự phê phán luân lý thực tiễn phù hợp với tiêu chuẩn luân lý khách quan”[9].

Như thế, luật tự nhiên đóng vai trò quan trọng trước nhất đối với phán đoán của lương tâm. Thực tế, luật tự nhiên là “sự tham phần vào luật vĩnh cửu của Thiên Chúa nơi thụ tạo có lý trí”[10], nói cách cụ thể hơn, đó là “nẻo đường mà khi đi theo nẻo đường này, mỗi hữu thể cách tự nhiên sẽ đạt tới cứu cánh của nó”. Trong ý nghĩa đó, luật tự nhiên “chẳng khác gì ánh sáng trí tuệ mà Thiên Chúa đã đặt vào trong chúng ta. Nhờ ánh sáng này, chúng ta biết được điều phải làm và điều phải tránh. Ánh sáng ấy là luật ấy, Thiên Chúa đã phú ban qua công trình tạo dựng”[11]. Trong chiều hướng đó, mỗi một con người, cách phổ quát, đều có sự tự lập đúng đắn của lý trí thực dụng, nghĩa là, họ đã được Thiên Chúa phú bẩm cho những điều luật.

Những lề luật này rõ ràng không phải mang tính chủ quan, tức là do lý trí nghĩ ra hay sáng tạo ra những giá trị của riêng nó, nhưng những lề luật đó vì do được phú bẩm bởi Thiên Chúa nên nó mang tính khách quan. Do vậy, khi con người tự do hành động theo luật tự nhiên mách bảo thì họ cũng đồng thời dễ dàng tiếp nhận và vâng phục các lề luật đến từ mạc khải của Kinh Thánh hay luật của Giáo hội, vì các lề luật này không trái ngược và cũng không chống lại nhau mà là soi sáng, bổ túc cho nhau.

Quả vậy, trong thực tế, “nếu sự ngoại thuộc luân lý truất bỏ khỏi con người quyền tự mình ấn định hoặc áp đặt cho con người những chuẩn mực nằm ngoài sự thiện của con người, sự ngoại thuộc ấy sẽ mâu thuẫn với Mạc khải của Giao Ước và của Mầu Nhiệm Nhập Thể cứu chuộc”[12], vâng phục Thiên Chúa thì không phải là một sự ngoại thuộc mang tính tiêu cực, triệt hữu và cũng không trái ngược với tự do của con người. Sự vâng phục Thiên Chúa, do vậy, không làm cho người ta vong thân, nhưng làm cho phẩm giá nơi con người được tỏa sáng và hiện hữu cách trung thực nhất. Hơn nữa, nhờ sự hướng dẫn của luật tự nhiên, được soi sáng bởi luật mạc khải và bổ túc bởi luật Giáo hội cũng như nhân luật, con người ngày càng đạt tới sự hoàn hảo đích thực là chính Thiên Chúa.

3. Con người tìm lại chính mình
          
qua hành trình trở về và đổi mới

Mệnh lệnh đòi buộc

Con người ta chỉ có thể tiến lên một đích điểm nào đó khi họ, trước hết, biết trở về. Nói cách khác, canh tân hay đổi mới, tiên vàn, là trở về, là hối cải để nhận thức được chính mình. Lời loan báo đầu tiên của Gioan Tẩy Giả cũng như của Đức Giêsu, đó là “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2.4,17). Thật vậy, Công trình đầu tiên của ân sủng của Chúa Thánh Thần là sự hối cải[13], nghĩa là, nhờ từ bỏ tội lỗi mà quay về với Thiên Chúa, con người được thánh hóa và canh tân nội tâm của mình.

Trong ý hướng đó, con người được Thiên Chúa ban cho sự sống của chính Người cách nhưng không để họ có thể hoàn tất hành trình làm người của mình và được hưởng ơn cứu độ “Ân sủng là một ân huệ, một trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban để chúng ta đáp lại tiếng gọi của Người; trở thành con cái Thiên Chúa, làm nghĩa tử, tham dự vào bản tính Thiên Chúa và vào sự sống đời đời”[14]. Như thế, ân sủng đến từ Thiên Chúa và sự cộng tác xuất phát nơi con người là hai hữu thể độc lập vươn tới nhau, gặp gỡ nhau trong tự do hoàn toàn để cho sự hiện hữu đích thực của Thiên Chúa được hữu hiệu nơi con người. Thiên Chúa, một đàng, tự do ban phát ân sủng; con người, đàng khác, tự do đón nhận. Con đường trở về, do đó, là con đường sám hối, mở lòng và sẵn sàng để lãnh nhận ân sủng hầu làm cho sự sống được nên dồi dào, sống động và lan tràn trong đời sống con người.

Con người được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ tin vào Thiên Chúa cụ thể qua khởi điểm lãnh nhận bí tích Rửa tội để được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, vì “phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thụ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được giao hòa với Ngài” (2Cr 5, 17-18). Do đó, khởi đi từ lòng khoan dung của Thiên Chúa qua Đức Kitô, ân sủng được tuôn đổ dồi dào và liên lỉ vào trong đời sống con người. Thật vậy, sự chết và phục sinh của Đức Kitô đã mang lại nhiều điều thiện hảo và dưỡng nuôi đời sống sống con người, đặc biệt cho các Kitô hữu. Điều cốt lõi trong việc Thiên Chúa tặng ban ân sủng cách nhưng không, đó là tình yêu. Vì yêu thương con người và vì muốn họ trở nên thụ tạo giống Người, Thiên Chúa vừa gợi mở, thôi thúc con người khao khát sự thiện hảo, thực hành các nhân đức, vừa tặng ban chính sự thiện hảo để làm cho họ trở nên công chính. Như thế, sự thiện hảo - ân sủng - nội tâm hóa con người, tác động và làm cho con người thay đổi, biến đổi cách thâm sâu trong linh hồn, chứ không phải chỉ tác động bên ngoài như “chiếc áo khoác” che chắn. Nói cách rõ ràng hơn, Thiên Chúa đã làm người, hiến dâng chính mạng sống mình để làm của ăn của uống dưỡng nuôi con người, vì vậy, ân sủng của Thiên Chúa là chính Chúa Kitô.

Ơn công chính hóa ban cho ta điều gì? Nhận biết và yêu mến Thiên Chúa; có khả năng sống các nhân đức đối thần - tin cậy mến và kiên nhẫn thực hành các nhân đức luân lý - khôn ngoan, công bằng, can đảm, tiết độ. Hơn nữa, ơn công chính hóa cũng làm cho người thụ lãnh có khả năng sống theo sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Thần hóa và tự do

Thiên Chúa tạo dựng và ban cho con người phẩm giá trổi vượt muôn loài. Họ “là trung tâm và là tột đỉnh của mọi sinh vật trên địa cầu”[15]“được Thiên Chúa dựng nên để làm đối tượng tình yêu của Người”[16]. Thật vậy, một mặt, con người là trung tâm của mọi hoạt động sống nơi trần thế “con người là nền tảng cho những hành vi của trí khôn, ý thức và tự do”[17]; mặt khác, con người cũng tự buộc mình quỳ gối trước Đấng Tạo Hóa để “phẩm giá của một nhân vị được hoàn thành trong ơn gọi đến hưởng vinh phúc thần linh”[18]. Bởi vì, dù cao trong đến mấy, con người cũng không thể tự mình hoàn tất hành trình làm người cách trọn hảo nhất, đó là trở nên thụ tạo thành linh. Để trở nên thụ tạo thần linh trước hết, con người được mời gọi mở ra với tha nhân để “hình ảnh đó rực sáng trong sự hiệp thông của các nhân vị, giống như sự duy nhất giữa các Ngôi Vị thần linh với nhau”[19]. Sự hiệp thông này chính là hiến thân phục vụ tha nhân “con người chỉ có thể gặp thấy bản thân mình cách đích thực nhờ thành thực hiến thân”[20]. Ở chiều ngược lại, trật tự xã hội và mọi tiến bộ của nó phải luôn nhắm đến phục vụ con người “Con người vượt trên mọi loài và vì những quyền lợi cũng như bổn phận của con người là phổ quát và bất khả xâm phạm […]. Bởi vậy trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của các nhân vị chứ không ngược lại”[21]. Do vậy, “Con người là mục tiêu của xã hội, xã hội được tổ chức là nhắm tới con người”[22].

Hành trình “làm mới” và “hóa thần” nơi con người không bao giờ là một cuộc “sáng tạo” do trí khôn của con người làm ra, vì “con người hiện hữu như một hữu thể độc đáo và không thể sao chép, con người hiện hữu như một cái ‘tôi’ có khả năng hiểu mình, làm chủ mình và tự quyết về mình”[23]. Do đó, hành trình thần hóa là một quá trình làm cho nét độc đáo và duy nhất nơi bản thân mỗi người được tỏ lộ ra cách tuyệt vời nhất nhờ sự tự nguyện tháp nhập cuộc đời của họ vào Đấng Kitô. Quả thật, ơn gọi đích thực của con người là trở nên thánh thiện và công chính nhờ kết hợp với Đức Giêsu trong đức tin. Công trình này là sáng kiến của Thiên Chúa, phát xuất từ lòng yêu thương khôn cùng của Người. Mặc dù khi phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, Ađam và Evà đã đánh mất sự công chính nguyên thủy và không còn được sống trong ân nghĩa cách mật thiết với Thiên Chúa như trước nữa, nhưng không vì thế mà bản tính con người hoàn toàn bị hư hỏng không thể phục hồi đến nỗi không thể nhận biết và yêu mến Thiên Chúa. Quả thật, con người vẫn còn tự do, vẫn còn có khả năng đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để yêu mến Người. Đặc biệt, qua bí tích Rửa Tội, con người được tha thứ mọi tội lỗi kể cả tội nguyên tổ, nhờ đó, họ có cơ hội sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa cách dễ dàng hơn.

Trong đời sống đối thần

Đối với nhiều người, tôn giáo vẫn là thứ vớ vẩn, nhảm nhí, mất thời gian, thậm chí, Karl Marx còn cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[24]. Nói đến “thuốc phiện của nhân dân”, người ta thường nghĩ ngay đến sự mị dân, dối trá, ru ngủ và làm cho hóa ra mê muội, thiếu tỉnh táo và ngu đần. Như thế, một cách nào đó một số người cho rằng tin vào Thiên Chúa là mê tín là hành vi của kẻ thiếu hiểu biết. Tuy nhiên, sự thật về hành vi của đức tin lại hoàn toàn khác.

“Tin” không phải là một hành vi của cảm tính và nhất thời, nhưng “tin” là hành vi của trí khôn (thánh Tôma), là một sự suy xét kỹ lưỡng và có thực nghiệm để rồi thuyết phục trí khôn chấp nhận những điều cao cả dù không thể thấy cách rõ ràng, cho nên “Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hr 11,1). Do đó, đức tin không phải là do từ phía con người, nhưng là ân ban nhưng không của Thiên Chúa, là một sự đụng chạm, một sự thôi thúc của Thiên Chúa khiến họ muốn vươn lên tới Thiên Chúa và cần phải tin vào Người. Quả vậy, đức tin là sự bảo đảm đến từ quyền uy của chính Thiên Chúa, nó không làm cho con người mất tự do, càng không đi ngược lại phẩm giá con người, nhưng làm cho họ hài lòng “quy phục phù hợp với lý trí”, vì nó đòi hỏi con người phải tìm hiểu, suy xét và ước muốn. Do vậy, khác với “đức tin”, “tín ngưỡng” chỉ là cảm thức tự nhiên của con người trước sự huyền bí của thế giới và vũ trụ. Nhờ “đức tin”, người ta có thể gặp gỡ và trò chuyện cùng Thiên Chúa và có thể nhìn thấy vạn vật theo nhãn giới của Người. Như thế, “đức tin” là khởi đầu cho sự sống vĩnh cửu. Hơn nữa, người có đức tin không bao giờ là tin mang tính cá nhân đơn độc, nhưng là đức tin của cộng đoàn Hội Thánh (x. GLHTCG, số 167). Như vậy, “tôi tin” trong khung cảnh “chúng tôi tin”.

Bên cạnh việc tin vào một Đấng Tối Cao, con người đồng thời cũng được mời gọi trông cậy vào Đấng ấy để có thể tìm thấy niềm vui sống trong mỗi công việc hay biến cố thường ngày. Quả thật, từ khi mới lọt lòng mẹ, mỗi một con người đều đã phải cậy dựa vào người khác để có thể lớn khôn thành người. Sự cậy dựa ấy thể hiện lòng khát khao được bao bọc chở che và vươn lên mãi cho tới khi hoàn thành được ơn gọi làm người của mình. Như thế, sự trông cậy cũng có nghĩa là khát vọng đạt tới cùng đích là Thiên Chúa Chúa là cùng đích của lịch sử nhân loại, là điểm quy tụ mọi ước vọng của lịch sử và văn minh, là trung tâm của nhân loại, là niềm vui của mọi tâm hồn và đáp ứng mọi niềm khao khát[25].

Niềm hy vọng, trong ý nghĩa này, gắn chặt với niềm tin. Đó là một hành vi của ý chí được lý trí soi sáng và được nâng cao nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa ban (thánh Tôma). Trong ý hướng này, hy vọng được hiểu là một nhân đức siêu nhiên vừa có tác động bên ngoài (ơn Chúa) vừa là một sự nỗ lực thực hành bền bỉ trong tâm hồn con người. Khởi đi từ niềm hy vọng đạt tới những gì liên quan đến đời sống con người như sức khỏe, bình an đến những thứ cao cả hơn như sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa và cuối cùng là đạt đến sự sống vĩnh cửu. Do đó, nhờ trông cậy trước hết vào Một Thiên Chúa toàn năng, yêu thương và trung tín; và cùng với cậy dựa vào công trình cứu độ của Đức Giêsu, lời chuyển cầu của Đức Maria và Hội Thánh, và các việc lành mà bản thân thực hiện, con người có thể tự tin, tin kiễn, lạc quan bước đi và vượt qua mọi thử thách gian nan trong hành trình làm người của mình.[26]

Tin và cậy phải dẫn đến mến yêu như là hệ quả tất yếu của chúng để đạt đến sự trọn vẹn“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”(Ga 13,34). Ở thời đại nào, con người cũng bàn luận về tình yêu. Quả thật, tình yêu hay lòng yêu thương là trung tâm là nòng cốt làm nên đời sống con người nhưng không phải ai cũng biết cách thể hiện tình yêu thương ấy cách đúng đắn. Theo truyền thống Dothái – Kitô giáo, tình yêu thương phải được khởi đi từ việc yêu mến Thiên Chúa “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5).

Khi nói về tình yêu, người ta thường mượn bốn từ trong ngôn ngữ Hy-lạp để diễn tả nó theo từng mức độ khác nhau. Trước hết, từ “eros” diễn tả tình yêu đôi lứa, tình yêu tình dục; từ thứ hai - “storge” - được dùng để nói đến tình thân trong mối tương quan gia đình; từ thứ ba - “philia” - miêu tả tình bằng hữu, tình đồng chí; từ cuối cùng - “agape” - tình yêu cao cả vô điều kiện, thường được dùng để chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Thật vậy, đức mến, làm cho con người hướng lên Chúa như điều thiện hảo tối thượng, đồng thời, giúp con người yêu mến bản thân và tha nhân vì Chúa, “là mối dây liên kết tuyệt hảo; là mô thể của các nhân đức; là nguồn mạch và cùng đích của việc thực hành các nhân đức Kitô giáo”[27]. Trong ý nghĩa đó, các hành vi thù ghét hoặc vô tâm với những điều tốt lành do Thiên Chúa ban hoặc chống lại tình yêu của Người đều không thể chấp nhận được và điều đó có thể dẫn con người ta mất đi hạnh phúc viên mãn và đích thật. 

Kết luận

Đời sống con người được trở nên lớn mạnh, phong phú, thịnh vượng, hay ngược lại, bị xâm hại, bóp méo, nghèo nàn, héo tàn và triệt tiêu đều do lời. Lời là nguồn gốc của tất cả là bệ đỡ của tất cả những gì liên quan đến đời sống con người. Dù muốn dù không, con người vẫn cứ phải nghe theo một lời nào đó để làm giá đỡ hằng ngày cho mọi hành động. Lời có thể đến từ lời Chân Lý, mà cũng có thể xuất phát từ sự giả dối, bóng tối.

Quả thật, lời sự sống không phát xuất từ con người, nhưng phải đến từ Đấng là nguồn của sự sống. Lời đó “vẫn có ngay từ lúc khởi đầu” (1Ga 1,1) lúc tạo dựng trời đất và hằng được trao ban cho con người để họ chứng kiến, chiêm ngưỡng, đụng chạm và loan truyền cho muôn thế hệ:

“Sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.” (1Ga 1,2).

Như thế, hạnh phúc đích thực của con người không phát xuất từ những gì thuộc vật chất bên ngoài, nhưng khởi đi từ một sự nhận thức và được biến đổi tận sâu xa trong tâm hồn. Để từ tiếng nói bên trong ấy, con người gặp thấy chính mình qua hành động phát xuất ra bên ngoài. Bên trong và bên ngoài là Một. Bên trong (tiếng nói của lương tâm) và bên ngoài (hiện thể qua các hành vi) nên một và là một – một sự trào vọt ra của sự thánh thiện. Nói cách khác, hạnh phúc đích thực của con người là nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, vì Người “tự bản thể là Đấng vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc” đã tự do tạo dựng con người để cho họ thông phần vào hạnh phúc của Người.                                                     




[1] Tôma Aquinô, Sum Theo I, II, q 1 , a. 1.

[2] X. Phạm Quốc Văn, giáo trình: Luân Lý Tổng Quát, HVĐM, 2020, tr. 87.

[3] GLHTCG, số 1754.

[4] GLHTCG, số 1753.

[5] CĐ Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 16.

[6] GLHTCG, số 1778.

[7] GLHTCG, số 1790.

[8] Socrates “The unexamined life is not worth living”.

[9] X. Phạm Quốc Văn, sđd., tr. 139.

[10] Tôma Aquinô, Summa Theology, I -II, q.91, a.2.

[11] Đức Gioan Phaolô II, Veritatis Splendor, số 40.

[12] Đức Gioan Phaolô II, sđd., số 41.

[13] GLHTCG, số 1989.

[14] GLHTCG, số 1996.

[15] CĐ Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 12.

[16] Đức Gioan Phaolô II, Splendor Veritatis, số 13.

[17] Sđd.

[18] GLHTCG, số 1700.

[19] GLHTCG, số 1702.

[20] X. CĐ Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 24.

[21] Vaticanô II, Gaudium et Spes, số 26.

[22] Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo, số 132.

[23] Ibid., số 131.

[24] “Religion is the sigh of the oppressed creature, the heart of a heartless world, and the soul of soulless conditions. It is the opium of the people”.

[25] Vat. II., Gaudium et Spes, số 45.

[26] X. GLHTCG, 1821.

[27] X. GLHTCG, 1827.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn