Con người ngày nay muốn đẩy xa Thiên Chúa
ra khỏi những
gì xuất hiện trong đời sống
mà chúng ta
xem là quan trọng;
Thiên Chúa bị
xem như tuỳ phụ,
nếu không dư
thừa thì cũng gây rối.[1]
Ts. Luca Giuse Phạm Hồ Hùng Sơn, s.P.
Mục vụ giới trẻ là công việc thường thấy nơi
các hội dòng. Đa phần các tu sĩ tiếp cận với các bạn trẻ trong các ca đoàn,
hoặc nơi các huynh trưởng giáo lý viên. Tuy nhiên, đối với các hội dòng hoạt
động nơi vùng đất có sự hiện diện của các khu công nghiệp hoặc khu vực xung
quanh các đại học, thì mục vụ giới trẻ còn liên quan đến các công nhân xí
nghiệp và các bạn sinh viên. Bản thân tôi may mắn được tiếp xúc và sinh hoạt
với một số bạn công nhân theo học các giảng khoá giáo lý dự tòng và các bạn
sinh viên khu vực Gò Vấp. Điều làm tôi trăn trở chính là tác động của môi
trường xung quanh khiến lương tâm luân lý của nhiều người trẻ Công giáo Việt
Nam hôm nay rơi vào tình trạng tương đối hoá. Điều này là hệ quả của sự khác
biệt về những gì được học trong giáo lý phổ thông với chính thực tế cuộc sống,
khiến các bạn không nhận ra chân lý đích thực của Công giáo. Từ đó dẫn đến hệ
luỵ của việc tương đối hoá đời sống luân lý.
Tôn giáo hay truyền
thống?
Trong chương trình đào
tạo phổ thông tại Việt Nam, việc giáo dục về tôn giáo là những điều chủ quan
của chế độ vô thần. Những khái niệm, định nghĩa các từ ngữ như tín ngưỡng, tôn
giáo, đạo... đều hàm chứa sự áp đặt về quan điểm vô thần: khẳng định yếu tố
thiêng liêng là “hư ảo”[2].
Tín ngưỡng, tôn giáo, đạo là những khái niệm chỉ được rút gọn vào “niềm tin”[3]
và không đề cập đến phẩm chất tốt đẹp nơi các thành phần khái niệm ấy. Như thế,
qua cách trình bày này, thì tín ngưỡng, tôn giáo, đạo chỉ còn là di sản của một
truyền thống - không hơn không kém.
Khi bàn về nguồn gốc
của tôn giáo, sinh viên cao đẳng, đại học được dạy về sự gắn kết của nhận thức
hạn hẹp với những yếu tố suy diễn:
Tôn giáo bắt
nguồn từ sự nhận thức hạn hẹp, mơ hồ về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời
sống, số phận của con người. Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên,
tạo ra các biểu tượng tôn giáo. Mặt khác, trong quá trình của nhận thức, con
người có thể nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tượng xa lạ với hiện thực
khách quan... Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi, buồn chán, tuyệt vọng
đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ được bản thân là cơ sở tâm lí
để hình thành tôn giáo.[4]
Theo cách nói của Đức
Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI, đây chính là cơn cám dỗ của nhân loại:
Con người ngày nay muốn đẩy xa Thiên
Chúa ra khỏi những gì xuất hiện trong đời sống mà chúng ta xem là quan trọng;
Thiên Chúa bị xem như tuỳ phụ, nếu không dư thừa thì cũng gây rối. Thế giới tự
sắp xếp cho chính mình, không cần đến Thiên Chúa; thế giới chỉ chấp nhận những
thực tại chính trị và vật chất, và Thiên Chúa bị xem là ảo tưởng, là một cơn
cám dỗ, hăm doạ chúng ta dưới nhiều hình thức.[5]
Từ những ghi nhận sơ
khởi như thế cũng đủ để hiểu điều Ngài tóm kết:
Ý niệm Tôn giáo,
lạ thay, gần như đã bị thay thế bởi ý niệm Truyền thống, và ý niệm Chân lý cũng
bị kéo theo khuynh hướng này. Mỗi tôn giáo được xem là một truyền thống. Các
truyền thống đều “đáng trọng”, “đẹp”, và người ta nói, ai đứng trong truyền
thống nào thì nên coi trọng truyền thống đó và nên tôn trọng truyền thống kẻ
khác.[6]
Nhận định này lại mở ra
một xu hướng “nếu chỉ còn lại các truyền thống mà thôi, thì chân lý đương nhiên
sẽ mất. Và, tới một lúc nào đó, người ta sẽ tự hỏi, tại sao lại phải có truyền
thống. Và như vậy, người ta sẽ có lý do chống lại truyền thống”.[7]
Đây chính là cách mà chủ nghĩa Cộng sản, vô thần sử dụng để thể hiện chủ thuyết
của họ “Người theo chủ nghĩa Mácxít tiên đoán tôn giáo sẽ chết. Họ bảo, hết đàn
áp, thì người ta cũng chẳng cần tới liều thuốc thượng đế nữa”.[8]
Tuy nhiên “chính họ cũng đã phải hiểu rằng, tôn giáo chẳng bao giờ chết, bởi vì
tôn giáo có mặt thật sự trong tâm mỗi người”.[9]
Thật thế “nhìn vào lịch sử nhân loại cho mãi tới tận thời nguyên sử xưa nhất,
mà ta biết được qua việc đào bới mộ cổ, ta có thể xác định rằng, tư tưởng về
một Thiên Chúa đã luôn luôn hiện diện nơi con người”.[10]
Nhiều bạn trẻ trong các
lớp dự tòng mà tôi đã đồng hành thường đặt nghi vấn về sự hiện diện của Thiên
Chúa của Công giáo. Họ tham dự các lớp Giáo lý không chỉ để biết về tôn giáo,
nhưng quan trọng hơn, để biết về Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ lại đối mặt với
những tiêu cực của cả xã hội lẫn Giáo hội: nơi các sự dữ thể lý và luân lý, nơi
những hoàn cảnh ngôn hành bất nhất của các mục tử và tín hữu Công giáo. “Cám dỗ xoay quanh Thiên Chúa: Người có thực
không? Hay không có? Người là sự thiện, hay chính chúng ta phải chế tác ra sự
thiện? Vấn nạn về Thiên Chúa là vấn nạn căn bản đặt chúng ta vào giao điểm
những con đường của hiện hữu nhân sinh”.[11]
Một khi việc nhận biết
Thiên Chúa chưa diễn tả về chân lý của Thiên Chúa nơi tôn giáo cho người thời
đại, thì họ vẫn chưa có tri thức đúng và hành động đúng “làm sao hành động
đúng, khi ta không biết được cái gì là đúng? Nếu không có tri thức đúng thì làm
sao hành động đúng?”.[12]
Đức Giê-su, Đấng hiện
diện cách đặc biệt trong bí tích Thánh Thể “từ đấy, chúng ta biết được gương
mặt của Ngài, từ đấy, chúng ta có thể kêu khấn đến Ngài... Người cũng đem đức
tin, hy vọng và tình yêu đến cho chúng ta”.[13]
Do đó, để giúp các bạn trẻ hướng về tính chính đáng tuyệt đối của luân lý Công
giáo, tôi muốn nại vào sự hiện diện tuyệt đối của Thiên Chúa để trình bày một
số ý tưởng rút ra từ Giáo lý Hội thánh Công giáo liên quan đến “đức tin, hy
vọng và tình yêu” (hay còn gọi là các nhân đức hướng về Chúa: đức tin, đức cậy
– hy vọng, đức mến – tình yêu) nơi việc thực hành cầu nguyện trong thinh lặng
của tín hữu trước bí tích Thánh Thể. Một khi thiết lập tương quan với giá trị
tuyệt đối nơi Thiên Chúa, thì chiều kích luân lý Công giáo mới thật sự không là
giá trị tương đối.
Cầu nguyện trong thinh lặng
Cầu nguyện của Công
giáo không là hành vi của mê tín dị đoan, nhưng là một nhu cầu thiết yếu để lấy
lại năng lượng cho cuộc sống. Khoa học kỹ thuật dù phát triển đến mấy cũng là
cái từ bên ngoài tác động đến con người. Cầu nguyện lại là cái từ con người
phát ra nhờ “hồng ân Thiên Chúa”[14].
Nếu chỉ để bên ngoài tác động vào con người, nó không thể nào chạm được nhân tố
gốc rễ để làm thăng tiến, tăng trưởng bản thân. Tuy nhiên, con người không thể
duy trì sự sống nếu thiếu tác nhân môi trường, xã hội. Cả hai phải cùng phát
triển tỷ lệ thuận. Cả hai phía cần hoà hợp hỗ tương. Đối với Công giáo, cầu
nguyện chính là đối thoại[15].
Trở về với nguyên ngữ đối thoại theo Hy Lạp “διαλογισμός”[16]
là sự kết hợp của hai từ “δια”[17]
nghĩa là thông qua, và “λόγος”[18]
nghĩa là lời nói.
Như thế, thông qua lời
nói, hoặc nhờ việc trao đổi bằng lời giữa hai đối tượng: người nói và người
nghe, mà động từ “διαλογισμός” được hình thành. Khởi đi từ từ ngữ này, việc cầu
nguyện của Công giáo giới thiệu ba hình thức khác nhau của “lời”[19]:
“lời” trong tâm thinh lặng giữa thụ tạo hữu hình và thần linh vô hình – đây là
điều đang được bàn tới trong chương này, “lời” trong sự diễn nghĩa của hành vi
cử chỉ và “lời” trong âm thanh tiếng nói, chữ viết cụ thể. Khi diễn tả ba hình
thái khác nhau của “lời” trong việc đối thoại, thì động từ cầu nguyện
“προσεύχομαι”[20]
của Hy ngữ được hiểu cách cụ thể. Động từ “προσεύχομαι” cũng là sự kết hợp của
hai từ “προς”[21]
nghĩa là hướng đến hoặc chuyển tiếp, “ευχομαι”[22]
là động từ ước nguyện, cầu chúc. Như thế, cách ghép từ “cầu nguyện” của Hy ngữ
mang nghĩa: hướng đến ước nguyện hoặc chuyển tiếp ước nguyện. Trước tiên, hướng
đến ước nguyện vì điều tôi mong ước nằm ngoài khả năng bản thân lúc này, nên
tôi tìm đến một địa chỉ mà chắc chắn điều ước nguyện đang ở “địa chỉ ấy”. Với
người Công giáo, “địa chỉ ấy” là Thiên Chúa. Kế đến, chuyển tiếp ước nguyện, có
thể liên tưởng đến việc chuyển tiếp một “email” - thư điện tử - nơi đây sẽ có
người-nhận-khác sau khi đã chuyển cùng nội dung thư điện tử cho người nhận ban
đầu; như vậy ước nguyện của tôi được gửi đến một đối tượng cụ thể sau khi tôi
đã ngỏ lời với Thiên Chúa[23].
Cầu nguyện là
nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay là cầu xin Thiên Chúa ban cho điều xứng
hợp”. Chúng ta cầu nguyện từ vị trí nào? Từ chỗ cao của tính kiêu căng và ý
riêng của chúng ta, hay “từ vực thẳm” (Tv 130,1) của một trái tim khiêm nhường
và thống hối? Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. Khiêm nhường là nền tảng của
cầu nguyện. “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải (Rm 8,26).[24]
Trong tầm nhìn
của Ki-tô giáo, đức tin không chỉ đơn thuần là chấp nhận những chân lý về mặt
tri thức và những luật lệ về mặt đạo đức, nhưng sâu xa hơn, là bước vào cuộc
gặp gỡ với Đấng là nguồn mạch những chân lý và lề luật ấy. Cuộc gặp gỡ này được
thể hiện cách sinh động trong việc cầu nguyện, vì cầu nguyện là sự gặp gỡ giữa
nỗi khát khao của Thiên Chúa và niềm khao khát của con người. Không chỉ con
người khao khát, nhưng chính Thiên Chúa khát khao vì hạnh phúc của con người.
Và chính Thiên Chúa đi bước trước, nên cầu nguyện là một hồng ân và đức tin
cũng thế. Vì cầu nguyện là trọng tâm của đời sống đức tin, nên để tăng trưởng
đức tin, phải học và tập cầu nguyện.[25]
Giá
trị thinh lặng của việc cầu nguyện không mang đến một lợi ích kinh tế trực tiếp
hay gián tiếp, nhưng mang đến tương quan kết nối giữa con người và Thiên Chúa.
Một khi con người đặt nhu cầu kinh tế lên trên hết thì các giá trị khác trở nên
tầm thường và thừa thãi, kể cả giá trị của tin tưởng, hy vọng và tình yêu hay
giá trị của đạo đức, giáo dục và tâm linh. Điều này dễ dàng nhận thấy khi cho
rằng cầu nguyện là việc làm vô ích và mất thời gian. Chỉ khi nào trật tự trong
các mối tương quan được đặt đúng vị trí từ cao đến thấp: Thiên Chúa, con người,
các loài thụ tạo khác[26] thì khi ấy giá trị đích
thực của tin tưởng, hy vọng, tình yêu sẽ được thể hiện.
Nói chuyện với Chúa
Giê-su Thánh Thể trong thinh lặng chính là dùng tâm và trí liên lạc với Đấng vô
hình đang hữu hình trong hình bánh, rượu sau khi truyền phép. Tâm sự với bí
tích của tình yêu sẽ khám phá giá trị của tin tưởng, hy vọng, tình yêu hướng về
Chúa và tha nhân cũng như các thụ tạo khác.
Tâm sự với Chúa Giê-su Thánh Thể
trong niềm tin, cậy, mến
Có ba nhân đức hướng về
Chúa là tin, cậy, mến “được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn tín hữu, giúp họ
có khả năng hành động như con cái của Ngài và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu”[27].
Nhờ đức tin, “chúng ta tin vào Thiên Chúa với tất cả những gì Ngài đã nói và
mạc khải cho chúng ta, và những gì Hội Thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên
Chúa chính là Chân lý”[28].
Nhờ đức cậy, “chúng ta khao khát Nước Trời và đời sống vĩnh cửu là vinh phúc
của chúng ta... cậy dựa vào sự trợ giúp của ân sủng của Chúa Thánh Thần, chứ
không vào sức mạnh của chúng ta”[29].
Nhờ đức mến, “chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Ngài, và vì
yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người lân cận như chính mình”[30].
Các nhân đức hướng về
Chúa và bí tích Thánh Thể có mối liên hệ chặt chẽ, điều này được diễn tả qua từ
YÊU. Trên hết và trước hết, bí tích Thánh Thể là bí tích của tình yêu Thiên
Chúa dành cho con người[31].
Do đó những hồng ân được Thiên Chúa phú bẩm cho tín hữu nơi đức mến – YÊU –
chính là điểm chung để khởi đầu cho những suy tư của tôi về mối liên hệ chặt
chẽ vừa nói đến.
Một nhân loại sa đọa
sau khi
nguyên tổ loài người phạm tội được hình tượng hoá nơi nét đầu tiên từ trên
xuống của chữ “Y”. Thiên Chúa không bỏ rơi nhân loại: trao ban chính Con Một là
Đức Giê-su “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang... trở nên giống phàm nhân, sống
như người trần thế” (Pl 2,7) được diễn tả nơi nét thứ hai cũng từ trên xuống
của chữ “Y”. Thiên Chúa chấp nhận gặp gỡ và đi vào lịch sử của nhân loại – được
phác hoạ nơi điểm gặp nhau của hai nét vừa trình bày – và xuôi cùng nhân loại
nơi chính dòng chảy lịch sử ấy. Chữ “Y” xuất hiện. Nhờ đức tin được trao ban,
con người khám phá các mầu nhiệm và hồng ân của Thiên Chúa nơi sự gặp gỡ này.
Trong thinh lặng cầu nguyện trước Chúa Giê-su Thánh Thể, tôi đối diện với một
Thiên Chúa. Nhờ “con mắt đức tin”, tôi ý thức Thiên Chúa chấp nhận đi vào lịch sử cuộc đời tôi. Nếu Hội Thánh là Thân Thể của
Đức Ki-tô[32], thì Thánh Thể mà
tôi đang tâm sự cũng chính là sự hiệp thông trọn vẹn của Hội Thánh[33]:
vinh quang, lữ hành và thanh luyện. Trong hy lễ nơi bí tích Thánh Thể, ngay cả
những người được tuyển chọn dù họ chưa phải hoặc không là Công giáo nhưng có
đời sống hướng về Chân, Thiện, Mỹ và không do lỗi của họ để không biết Chúa,
thì họ vẫn được cứu độ[34].
Dưới hình bánh và rượu, Đức Giê-su hiện diện cách thực sự nơi bí tích Thánh Thể[35]:
Thiên Chúa hiện diện nơi chính thụ tạo của Người. Tắt một lời, tất cả những
người tôi yêu mến hay ghét bỏ, người tôi biết hay chưa biết, còn sống hay đã
qua đời trong ân nghĩa của Chúa, đang hạnh phúc hay đang gặp đau khổ, ngay cả
mọi “thụ tạo đang những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh
quang” (Rm 8,19) đang cùng hiện diện nơi chính Thân Mình Đức Ki-tô trong bí
tích Thánh Thể, đang cùng tôi xuôi theo dòng tâm sự trước bí tích của tình yêu.
Nét hướng xuống của chữ
“Y” không dẫn đến một đích điểm tươi sáng tức thời vì liền sau chữ “Y” là chữ
“Ê” trong: ê ẩm, ê buốt, ê rát. Có Đức Giê-su đi cùng nhân loại, cùng tôi trên
dòng đời, tại sao lại vẫn còn “ê ẩm, ê buốt, ê rát”? Những lúc này có Thiên
Chúa đồng hành hay không?
Đức Giê-su đã
mang lại điều gì, nếu như Người không đem được bình an cho thế giới, thịnh
vượng, hạnh phúc cho mọi người, không đem một thế giới tốt đẹp hơn? Vậy thì
Người đem lại điều gì? Câu trả lời thật đơn sơ: Thiên Chúa. Người đem Thiên
Chúa đến cho chúng ta.[36]
Nơi chính biến cố đau
thương của “ê rát” cuộc đời, đức cậy trông, niềm hy vọng vào Thiên Chúa đang
đồng hành là điều được mời gọi phải nhận ra và phát huy. Chính Đức Giê-su Thánh
Thể cũng đã chịu thương khó để cử hành hy lễ hiến tế để cứu độ nhân loại[37].
Người “không phải là Đấng không biết cảm
thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện
cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai
Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”
(Hr 4,15-16).
Tuy nhiên, chữ “U” mang
đến sự thay đổi lạ kỳ: vươn lên cách mạnh mẽ nhưng mềm dẻo và uyển chuyển, như
là hình ảnh phục sinh của mầu nhiệm Vượt Qua: Đức Ki-tô chiến thắng đau khổ và
sự chết. Một liên hệ khá thú vị về chữ “U” đó là kết nối với toán học. Đồ thị
hàm số bậc hai trong đại số: f(x) của y = x^2 (phương trình “y” gồm ẩn số “x”
bình phương) có đồ thị là một Parabol giống hình chữ “U” [xem hình minh hoạ].
Nếu ẩn số “x” là một số âm của “u ám, u sầu”, có khi u đầu sứt mẻ vì những va
chạm cuộc sống, thì hành trình chấp nhận đi vào dòng chảy của “y” vẫn có hiệu
quả vươn lên. Quả thật, mặc cho “x” là âm hay dương khi áp dụng vào phương
trình bậc hai này cũng mang đến một kết quả “y” không âm. Tắt một lời, phận
người có vui hay buồn, khi tháp nhập vào tương quan gắn kết với Thiên Chúa, cụ
thể nơi Đức Giê-su Thánh Thể, cũng có một kết quả đầy hy vọng và lạc quan. Chữ
“U” của Parabol là yếu tố kết thúc khiến xuất hiện từ “YÊU”.
Tôi
khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa trong nhịp sống cuộc đời, để biết mến Chúa
nhờ hiệu quả của nhân đức hướng về Chúa. Hơn nữa, nơi Chúa Giê-su Thánh Thể còn
có mầu nhiệm hiệp thông, như đã đề cập bên trên, do đó tôi ý thức mình không
đơn độc nhưng hoà hợp với môi trường và tha nhân để cùng nhau nương tựa vươn
lên trong ơn Chúa. Khi yêu như thế, phận người thấy được giới hạn bản thân và
đón lấy giới hạn của thụ tạo như là chính giới hạn của mình để không còn tự
kiêu, vị kỷ nhưng thoải mái, thanh thản và bình an.
Hình minh hoạ: đồ thị hàm số
f(x) y = x2
Như thế, việc đối thoại
trong thinh lặng trước Chúa Giê-su Thánh Thể là cơ hội để gặp gỡ không những
Thiên Chúa mà cả tha nhân và thụ tạo khác. Giá trị thinh lặng của không gian
góp phần làm phát huy giá trị các nhân đức hướng Chúa trong tâm và trí người
tín hữu. Nhờ đó tôi khám phá mối tương quan luân lý nơi sự đồng cảm với những
nỗi đau của các loài thụ tạo nơi ô nhiễm môi trường, phá rừng, hạn hán, bão
lụt; hay nỗi đau của tha nhân nơi nghèo khổ, bệnh tật, bất công, tàn ác, thất
vọng. Những điều ấy không còn là cái bên ngoài, nhưng được tháp nhập vào giá
trị tình yêu của Thiên Chúa trở thành bên trong tôi nếu tôi muốn xuôi cùng Chúa
trong dòng chảy này. Nhờ vậy, tôi cũng không lẻ loi và cô đơn trên những đoạn
đường chông gai và gập ghềnh của cuộc sống: bên tôi còn có Hội Thánh, có những
người yêu chuộng Chân, Thiện, Mỹ, và nhất là có Chúa ở cùng.
Những gì được đề cập
trong bài viết này sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu bản thân tôi và quý độc giả ngần
ngại mở lòng ra với Chúa trong việc thực hành thinh lặng cầu nguyện trước Chúa
Giê-su Thánh Thể: sau khi rước lễ, hay trước mặt nhật Thánh Thể, hoặc trước nhà
tạm có Mình Thánh Chúa. Chỉ có cá nhân mới nhận ra ích lợi cụ thể một khi chấp
nhận bước vào tương quan rất riêng tư với Thiên Chúa[38].
Từ việc nhận ra Chúa, mới tạo được nền tảng để mạnh mẽ phát huy và áp dụng nền
luân lý Công giáo.
Xin mượn lời trong sách
Giáo lý của Hội thánh Công giáo, vừa thay cho lời kết, vừa là xác quyết giá trị
của nhân đức thờ phượng trước Chúa Giê-su Thánh Thể; nhờ đó cùng nhau khuyến
khích ra sức học hiểu Giáo lý và lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa trong việc
thực hành nhân đức thờ phượng này nơi chính đời sống luân lý:
Nhờ đào sâu
đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, Hội
Thánh ý thức về ý nghĩa của việc thinh lặng tôn thờ Đức Ki-tô hiện diện trong
các hình dạng Thánh Thể.[39]
Quả thật, Hội Thánh và trần gian rất cần sự tôn thờ bí tích Thánh Thể.
Chúa Giê-su đang chờ đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Đừng từ chối thời
gian đến gặp người để tôn thờ, để chiêm ngắm tràn đầy đức tin và sẵn sàng đền
tạ những tội lỗi và tội ác nặng nề của trần gian. Chúng ta hãy
không ngừng tôn thờ Thánh Thể.[40]
[1] Joseph
Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth,
phần 1, Dg. Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh (Hà Nội: Tôn giáo, 2011), tr. 59.
[2] Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục công dân 7 (Sách giáo khoa, Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam, 2019), tr. 53.
[3] Sđd.
[4] Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Giáo dục Quốc phòng
– An ninh (Giáo trình tập 2, Đại học Công nghệ Tp.HCM, 2018), tr.
48 – 49.
[5] Joseph
Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth,
phần 1, Dg. Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh (Hà Nội: Tôn giáo, 2011), tr. 59.
[6] Joseph
Ratzinger, Thiên Chúa và trần thế,
Dg. Phạm Hồng Lam (Hà Nội: Tôn giáo, 2011), tr. 32.
[7] Sđd.
[8] Sđd.,
tr. 29.
[9] Sđd.
[10] Sđd.
[11] Joseph
Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth, tr 60.
[12] Joseph
Ratzinger, Thiên Chúa và trần thế., tr. 5.
[13] Joseph
Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth, tr. 79.
[14] GLHTCG,
số 2558.
[15] X.
GLHTCG, số 2567.
[16] X.
“διαλογισμός”, The New Strong’s expanded
exhaustive concordance, Bs. James Strong (U.S.: Thomas Nelson, 1990), số
1261.
[17] X. “δια”, Sđd., số 1223.
[18] X. “λόγος”,
Sđd., số 1223.
[19] GLHTCG,
số 2721.
[20] X.
“προσεύχομαι”, Sđd., số 4336.
[21] X. “προσ”,
Sđd., số 4314.
[22] X. “ευχομαι”,
Sđd., số 2172.
[23] X.
GLHTCG, số 2647.
[24] GLHTCG, số
2559.
[25] Gh.
Bê-nê-đic-tô XVI, Cầu nguyện trên nền
tảng Thánh Kinh, tập 1, Bs. Vương Nghi và Khổng Thành Ngọc (Hà Nội: Tôn
giáo, 2012), tr. 7.
[26] X.
GLHTCG, số 341.
[27] GLHTCG,
số 1813.
[28] GLHTCG,
số 1814.
[29] GLHTCG,
số 1817.
[30] GLHTCG,
số 1822.
[31] X.
GLHTCG, số 1394.
[32] X.
GLHTCG, số 669.
[33] X.
GLHTCG, số 1362 và số 954.
[34] X.
GLHTCG, số 847.
[35] X.
GLHTCG, số 1375.
[36] Joseph
Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth...
tr. 78.
[37] X.
Joseph Ratzinger, Thiên Chúa ở gần chúng
ta, Dg. Nguyễn Luật Khoa, OFM (Tp. HCM: Phương Đông, 2008), tr. 103.
[38] X.
Joseph Ratzinger, Journey towards Easter,
(England: St Paul, 1987), tr. 103-104.
[39] GLHTCG, số
1379.
[40] GLHTCG,
số 1380.
Đăng nhận xét