Lương tâm luân lý Kitô giáo trong thời đại ngày nay

 

Phong Trần

Dẫn nhập

Khổng Tử nói: “nhân chi sơ tính bản thiện”, có nghĩa rằng: con người khi sinh ra đã được phú bẩm cho bản tính thiện. Theo viễn cảnh này thì xã hội loài người quả là hạnh phúc, một xã hội mà ai cũng mong ước và thật là thiên đàng tại thế. Nhưng sự thật lại không phải như vậy.

Những năm gần đây, người ta thấy rất nhiều những hành động dã man, đi ngược lại với luân thường đạo lý. Trên thế giới, có những phần tử cực đoan đánh bom tự sát giết hại nhiều người, những vụ xả súng điên cuồng vào đám đông...; còn ở Việt Nam có những kẻ sát nhân máu lạnh, những vụ giết người rùng rợn, sát hại người thân để cướp đi số tiền ít ỏi vài trăm ngàn đồng… Như vậy, có điều gì đó cần được tìm hiểu rõ hơn cho việc đào luyện một con người trở thành thiện hay ác.

Giáo lý Hội thánh Công giáo thì đề cập đến tiếng nói của lương tâm, xem đó như là lề luật và là tiếng nói của Thiên Chúa đã được khắc ghi trong tâm khảm mỗi người và Chúa cũng mời gọi con người sống theo lời kêu mời đó (x. Lumen Gentium, số 16).

Thế nhưng, lương tâm là gì mà lại có tầm quan trọng dường ấy? Có phải lương tâm xuất phát từ Thiên Chúa? Vì sao việc đào tạo lương tâm là cần thiết và cách thức đào tạo lương tâm luân lý là những điều cần được quan tâm xem xét trong xã hội đương thời.

1. Lương tâm là gì?

Ý niệm conscientia được Notker[1] dịch theo nghĩa của từ “syneidesis” trong tiếng Hy Lạp, và gồm hai từ “con-”, mà nguyên ngữ của nó là “cum” và có nghĩa là “với”, “cùng với”, “cùng nhau” hay “với nhau”; còn từ “scientia” xuất phát từ động từ “scire” và có nghĩa là biết, hiểu hay ý thức. Như vậy, “conscientiacó nghĩa là cùng biết, cùng ý thức, tức một sự hiểu biết hay ý thức toàn diện của chủ thể tri thức: lương tâm.

Qua đó chúng ta thấy rằng ý niệm “lương tâm” nếu hiểu sát với từ ngữ trong tiếng Latin thì có nghĩa là “cùng biết”. Nói cách khác, sự hiểu biết và ý thức được san sẻ – với một bản ngã độc lập và tự quyết hay với một trật tự ngoại thuộc chi phối sự nhận thức của bản ngã. Vậy, lương tâm là sự nhận thức hay ý thức toàn diện và phổ quát gồm hai yếu tố chủ quan và khách quan của một chủ thể.

Với tư cách là sự ý thức toàn diện của chủ thể nhận thức, lương tâm không còn là một tri thức thuần túy của trí năng mà thôi, nhưng là một tri thức của chủ thể toàn diện, nó vươn tới cả lãnh vực siêu hình, tâm linh và linh hồn con người nữa. Chính danh xưng “lương tâm” đã nói lên ý niệm ấy.

Nói đến lương tâm luân lý, tức là nói đến khả năng mà con người có được trong việc nối kết cách xứng hợp tính khách quan của sự thiện (thường được luật pháp đề nghị) với phẩm giá của chính mình là một chủ thể hướng tới sự thiện đó.

Nếu chúng ta hiểu lương tâm luân lý ở đây là một sự sáng suốt không thể sai lầm, thì điều này vượt quá khả năng con người. Hơn nữa, lương tâm không phải là một khả năng sẵn có. Thật vậy, mọi con người đều phải sinh ra với lương tâm, thủ đắc (chiếm hữu) nó, củng cố nó. Lương tâm là một bộ phận không thể tách khỏi việc giáo dục để được tinh tế hơn.

Lương tâm luân lý hướng đến sự Thiện, mở ra cho sự Thiện. Đối với người Kitô hữu, đến với sự Thiện, mở lòng ra cho tiếng gọi của Chúa Kitô, đó là biện phân (có khả năng phân biệt tốt xấu, thiện ác, đúng sai) và yêu mến sự Thiện ấy hay tiếng gọi đó, đồng thời tìm kiếm và dấn thân. Triết gia Aristotle gọi là “phronesis”, nghĩa là nhân đức cẩn trọng hay suy đoán đúng đắn, Điều này xảy ra khi đứng giữa hai thái cực thái quá và bất động, người ta phải biện phân từng lúc đâu là mức trung dung, là sự phối hợp tốt nhất của cái đáng mong ước và cái có thể làm. Theo cùng một nghĩa, thánh Tôma Aquino nói đến sự khôn ngoan (prudentia) như là khả năng lượng định bằng lý trí hay phê phán chính các hành vi của mình, và tùy theo trường hợp mà quyết định. Ngày nay, có lẽ chúng ta nói đến đó là sự khôn ngoan (theo nghĩa Kinh thánh muốn nói khi dùng từ này). Sự khôn ngoan bao gồm một thứ suy tư về thế giới và cùng một trật, theo một hướng thực tiễn: vấn đề là con người cần hành xử cách khôn ngoan và khéo léo để thành công trong cuộc sống.

Nói cách khác, nhắc tới lương tâm luân lý, là chỉ định cho mình một phận sự. Kêu gọi đến lương tâm, không phải là rút lui ẩn mình trong tính chủ quan như trong một thành trì, nhưng là nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc giáo dục lương tâm, của việc tìm kiếm điều thiện hảo.

2. “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”?

Lương tâm là khả năng nhận ra điều tốt và điều xấu. Lương tâm được gợi ý nhờ các nguyên tắc phổ quát, như “làm điều tốt và tránh điều xấu”. Trong sách Sáng thế, khi người ta đề cập trình thuật về Adam và Eva và điều người ta gọi là “sa ngã”, một câu hỏi được đặt ra cách tất yếu: “Nếu Thiên Chúa không muốn đôi vợ chồng đầu tiên ăn trái cây ấy, tại sao Ngài trồng cây ấy trong vườn?” Đó là một câu hỏi hay! Câu trả lời dẫn chúng ta đến vấn đề về tự do. Trước khi Thiên Chúa trồng cây hiểu biết điều thiện và điều ác trong vườn địa đàng, tổ tiên loài người không có tự do, họ không có qui luật, họ có thể làm tất cả những gì họ muốn vì Thiên Chúa đã không ấn định bất cứ giới hạn nào cho hành động của họ. Qua việc đưa vào cây này, đôi vợ chồng gặp một lệnh cấm: “các ngươi không được ăn trái cây ấy”. Và như vậy, cách nghịch lý, họ được tự do: phải chăng họ sẽ lắng nghe Thiên Chúa hoặc trái tim của họ?

Sau khi ăn trái cây, Adam và Evà đã bắt đầu đối thoại với Thiên Chúa, đó là cuộc đối thoại đầu tiên chúng ta biết:

Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa. Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: ‘Ngươi ở đâu?’ Con người thưa: Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn (St 3, 8-10)

Bối cảnh của sự “sa ngã” thật đẹp và thật bình thường làm cho chúng ta gần như đau xót. Thiên Chúa đến trong vườn lúc dễ chịu nhất trong ngày khi làn gió nhẹ thổi. Đó là lúc thuận lợi để viếng thăm công trình tạo dựng yêu quí của Ngài, loài người, và trò chuyện với họ. Có thể tưởng tượng ra cảnh đi với Thiên Chúa trong vườn thật đẹp và đơn sơ nói chuyện về mọi sự với Đấng Tạo Thành vũ trụ? Tuy nhiên, Adam và Evà lại lẩn trốn Thiên Chúa.

Khi Thiên Chúa gọi họ, con người nói với Ngài: “Con nghe tiếng Ngài trong vườn”. Con người và vợ biết rằng Thiên Chúa yêu mến họ và đã tạo ra khu vườn cho loài người nơi họ hưởng sự gần gũi và sự quan tâm của Ngài. Khi ông bà nghe tiếng Thiên Chúa trong vườn, họ biết rằng Ngài đến thăm họ có lẽ theo thói quen, và thường họ chạy đến gặp gỡ Ngài. Nhưng, ngày hôm ấy lại không phải như thế. Khi nói rằng đã “nghe tiếng” Thiên Chúa trong vườn, con người biểu lộ kinh nghiệm của mình về sự gần gũi Thiên Chúa, về lòng nhân từ và tình thương của Ngài. Con người nhận ra tương quan triệt để của mình với Thiên Chúa, cho đến chính hơi thở của mình. Tuy nhiên, con người không còn sẵn sàng bước đi với Thiên Chúa.

Con người tiếp tục: “Con sợ hãi vì con trần truồng”. Trước kia, con người không bao giờ sợ hãi Thiên Chúa; đó là một tình cảm mới xảy ra như một hậu quả của tội lỗi. Con người gán sự sợ hãi của mình cho sự trần truồng và, qua lời khẳng định này, con người công nhận sự bất tuân của mình với Chúa. Sự cởi mở và tin tưởng tuyệt đối đã xác định sự tương tác giữa Thiên Chúa và nhân loại từ nay đã bị giảm bớt. Con người, lẽ ra phải đứng vững không sợ cũng không xấu hổ trước Đấng Tạo Thành, nói rằng sự trần truồng làm họ xa sự hiện diện thần linh. Chúng ta nhận thấy sự bấp bênh của lập luận này và chúng ta biết sự thật nào là sâu xa nhất.

Sau đó, con người thốt lên một câu thường xác định tương quan của con người với Thiên Chúa: “nên con lẩn trốn”. Trong bối cảnh của trình thuật này, điều đó hình như gợi lên điều phi lý của đôi vợ chồng tìm cách lẩn trốn Thiên Chúa giữa cây cối trong vườn. Chúng ta biết rõ là điều đó có ít ý nghĩa nhưng, việc lẩn trốn Thiên Chúa hướng chúng ta về một ý nghĩa sâu xa hơn. Người ta có thể tìm cách lẩn trốn trong các trách nhiệm lao động, trong sức lôi cuốn của một nhóm hoặc trong những công việc kết hợp với những buổi họp, nhưng đó chỉ là những mưu mẹo. Điều lo ngại hơn là lẩn trốn Thiên Chúa bên trong bằng một sự trung thành mù quáng với một kỷ luật, bằng một sự vâng phục chặt chẽ, bằng sự chấp nhận những cách suy nghĩ đặc biệt và cứng nhắc. Người ta có thể lấn trốn Thiên Chúa bằng đủ mọi cách bên ngoài và bên trong. Có thể là chúng ta sợ đi với Thiên Chúa trong một số lãnh vực của đời sống chúng ta vì chúng ta chưa sẵn sàng cho những cuộc đối thoại có thể từ đó mà ra. Chúng ta không sẵn sàng để bị tranh luận hoặc bị chất vấn, thế nên chúng ta “lẩn trốn”. Chúng ta có thể hiểu sự sợ hãi của Adam và Evà; chúng ta hiểu nhu cầu để cho mình được hòa giải của họ vì đó cũng là nhu cầu của chúng ta.

Adam và Evà đã dùng sự tự do của mình và từ nay chịu trách nhiệm về những hành vi của mình vì các hành vi có những hậu quả. Trong trường hợp này, cũng như mọi trường hợp tội lỗi, hậu quả bao hàm một sự phân ly với Thiên Chúa.

Sự việc “lẩn trốn Thiên Chúa” là một trong những chân lý mà Đức Giêsu đáp lại khi Ngài đến ở giữa chúng ta. Ngài muốn chữa lành những người đã xa lánh đường ngay nẻo chính vì: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19, 10). Bất chấp tình trạng của chúng ta là những người tội lỗi, thiếu tin tưởng và sự chai lỳ con tim của chúng ta, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương chúng ta. Chúng ta tìm cách trốn Ngài thì Thiên Chúa sai Đức Giêsu đến với chúng ta, ban cho sự tha thứ và chỉ dẫn cho chúng ta đường phải theo.

Trình thuật trong Kinh Thánh cho chúng ta nhiều yếu tố quan trọng đối với một lương tâm luân lý: Sự tự do, trách nhiệm của chúng ta đối với sự chọn lựa của mình và những hậu quả của chúng. Trình thuật về sự tạo dựng con người đưa chúng ta vào lãnh vực của lương tâm cùng vấn đề nảy sinh trong câu chuyện về những người anh em đầu tiên.

Câu chuyện Cain và Abel khiến chúng ta chú ý ngay đến sự bạo lực mà chúng ta có thể có đối với nhau. Trình thuật này cũng có một sự cảnh cáo: “Tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chế ngự nó” (St 4, 7). Cain không được dự định cho tội lỗi; anh có sự tự do, khả năng chống lại và chế ngự những dục vọng của mình. Nhưng để đạt đến điều ấy, anh phải cộng tác với ơn Chúa và tự chủ. Anh ta không bị bắt buộc làm điều ác với em mình. Tuy nhiên, sau khi đã quyết định, anh ta phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình và hậu quả của chúng.

3. Lương tâm có nguồn gốc từ Thiên Chúa

Nếu chân lý hay sự thật được định nghĩa là sự đồng thuận giữa sự nhận thức chủ quan của chủ thể nhận thức với thực trạng khách quan của ngoại cảnh, thì sự xung đột tương khắc giữa chủ quan tính và khách quan tính cần phải được san bằng. Nói cách khác, người ta cần tìm kiếm một hình thái tái nối kết – cũng được gọi là sự thông tin hay sự rèn luyện – của lương tâm có thể giúp từng cá thể có khả năng phản ảnh lại một cách trung thực những quy phạm hiện hành, tức không chủ quan tự cho mình là người duy nhất suy tư và hành xử đúng đắn. Và ngoài sự chấp nhận các điều kiện cần thiết, người ta còn phải luôn khẳng định sự tự do và trách nhiệm, tức cần phải biết sử dụng lý trí trong việc tìm kiếm chân lý. Bởi vì, nếu khi người ta không nhìn nhận chân lý như là mục đích lớn nhất của tính cách hợp lý thực tiễn, thì tất nhiên người ta sẽ không bao giờ coi trọng lương tâm.

Cái chìa khóa của hình thái tái nối kết được ẩn chứa trong sự tương quan của lương tâm với chân lý. Ai xác tín được rằng giữa lý trí và chân lý luôn có một nền tảng chung, và đồng thời cũng là nền tảng luôn củng cố và đồng hành với lương tâm, tức Thiên Chúa, thì người ấy sẽ tìm được lý do cho việc khách quan hóa. Tuy nhiên sự khách quan hóa này chỉ có hiệu quả nhờ vào chủ thể, tức cá thể sử dụng lương tâm. Điều đó cũng muốn nói rằng sự khách quan hóa ấy tùy thuộc vào ý kiến và quan điểm của chủ thể sử dụng lương tâm.

Đối với Kitô giáo thì lương tâm chính là “tiếng nói của Thiên Chúa”, là thẩm quyền luân lý nội tại trong mỗi người để hướng dẫn toàn diện cuộc sống của ta, từ tư tưởng, lời nói cho tới hành động. Vì thế, lương tâm một đàng rất riêng tư, cá nhân và thân thiết gần gũi, nhưng đàng khác lại cách biệt, độc lập và không để ta chi phối. Ta có thể làm cho lương tâm mình ra chai đá và sự phán đoán hay tiếng nói của nó trở nên lệch lạc, không phù hợp với lý trí và chân lý khách quan nữa, nhưng ta không thể đè nén hay loại bỏ được tiếng nói lương tâm, vì nó luôn mang tính chất độc lập.

Người ta có thể nói được rằng những tính chất đối nghịch của lương tâm cũng tương tự như sự quan hệ lưỡng diện mật thiết hay cũng được gọi là sự hiệp nhất thần bí, giữa người Kitô hữu và Thiên Chúa, Đấng họ tôn thờ, nghĩa là giữa tạo vật và Đấng Sáng Tạo, giữa hữu hạn và vô hạn. Đối với người Kitô hữu, một đàng Thiên Chúa là Đấng bất khả tiếp cận, nhưng đàng khác, Thiên Chúa lại tự mặc khải mình ra cho họ như một người trong họ và cư ngụ giữa họ qua mầu nhiệm “Thiên Chúa làm người” của Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa. Nói cách khác, một đàng Thiên Chúa xét về phương diện bản thể của Người, thì Người là Đấng siêu việt, bất khả tiếp cận đối với trí năng con người, vì Người là Thiên Chúa thật, nhưng đàng khác qua mầu nhiệm “Nhập Thể” của Đức Kitô, Thiên Chúa lại cùng đồng bản thể với con người và cư ngụ giữa họ, tức một người thật như bao người khác. Phải chăng đây là điểm đặc thù trong tương quan hy hữu giữa con người và Thiên Chúa đã được Đức Kitô ám chỉ khi Người nói “Thầy lên cùng Cha của Thầy cũng là cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17), chứ Người không nói là “Thầy đi lên cùng Cha của chúng ta” và “đi lên cùng Thiên Chúa của chúng ta”? Điều chắc chắn là theo chú giải Kinh Thánh thì dù Đức Giêsu là người thật như bao người khi mặc lấy xác phàm, nhưng mối tương quan giữa Người với Thiên Chúa Cha không thể đồng hóa với mối tương quan giữa các môn đệ của Người với Thiên Chúa Cha được.

Thực tại của sự tương quan đặc thù này “gần gũi nhưng xa lạ, thân thiết nhưng cách biệt” giữa con người nói chung và người Kitô hữu nói riêng với Thiên Chúa được gọi là mầu nhiệm đức tin, tức một chân lý khách quan – vì đã được chính Thiên Chúa, chân lý tối hậu, mặc khải cho ta biết – nhưng lại không thể minh chứng được, vì nó vượt ra khỏi mọi phạm trù của trí năng con người. Chính lương tâm là nơi thuận lợi để mầu nhiệm đức tin ấy tự phát huy và tăng triển, cũng như cảm nhận được một cách đặc biệt rằng sự tương quan giữa con người và Thiên Chúa mang tính chất nội tại trong cá vị của người liên hệ, nhưng đồng thời lại có sự giằng co giữa tính chất tuyệt đối của trách nhiệm lương tâm, tức của sự mặc khải, và nguyên tắc bất khả thấu triệt của thực tại vốn được coi như nguyên nhân khơi ra những đòi hỏi và soi sáng trong lương tâm của mỗi người, tuy âm thầm như vô cùng mạnh mẽ, đến nỗi không áp lực nào có thể dập tắt được, mà người ta thường gọi là “tiếng nói lương tâm”, “lương tâm mách bảo” hay “sự cắn rứt của lương tâm.”

4. Lương tâm là phản ảnh thánh ý Thiên Chúa

Quan điểm cho rằng lương tâm là “tiếng nói của Thiên Chúa” đã nêu lên một thực tại hiển nhiên là ý niệm về Thiên Chúa được hàm chứa trong chính cấu trúc của ý niệm về lương tâm. Hay nói rõ hơn, khi người ta đề cập tới lương tâm, nơi phát xuất tiếng nói của chân lý, thì tất nhiên người ta phải nói đến Thiên Chúa, đệ nhất nguyên lý hay nguồn mạch của chân lý, tức chân lý tối hậu.

Theo giáo huấn về luân lý Công giáo thì một chân lý đạo đức khách quan với tính cách khả nhận thức và tính cách ràng buộc của nó, một đàng, luôn đòi hỏi phải được tuân giữ; nhưng đàng khác, sự tự do của mỗi cá nhân cũng luôn đòi hỏi phải được tôn trọng, chứ không thể bị áp đặt bởi bất cứ quyền lực ngoại tại nào một cách tùy tiện. Vậy, chỉ có một thẩm quyền nội tại trong con người mới có quyền đòi hỏi và thúc đẩy con người phải tuân giữ chân lý đạo đức khách quan. Đó chính là lương tâm. Người ta có thể nói rằng lương tâm là một “thẩm quyền ngoại tại được nội hóa”, là bia đá đã được khắc đậm những quy luật tự nhiên của Đấng Sáng Tạo.

Tiếp đến, nhờ nguồn mạch Thánh Kinh, người ta nhận thức được rằng chính Thiên Chúa là Đấng ban hành các giới răn và đồng thời qua lý trí con người Thiên Chúa lại ban cho họ sự hiểu biết để nhận thức được sự cần thiết của các giới răn ấy. Người ta gọi hành động nhận thức được giới luật tự nhiên của Đấng Sáng Tạo như là chân lý khách quan cần phải được vuông tròn là công việc của lương tâm. Qua lương tâm, con người biết khắc phục và hòa hợp được sự tự do cá nhân với chân lý khách quan, và sau cùng là biết khắc phục và hòa hợp được tính chất đạo đức chủ quan của con người với giới luật khách quan của Thiên Chúa. Lương tâm và các luật lệ chân chính không bao giờ chống đối hay phủ nhận nhau, ngược lại, cả hai cùng bổ túc cho nhau và cả hai cùng có chung một nền tảng biện minh trong luật tự nhiên. Đó chính là nền tảng của giáo huấn Công Giáo về luân lý. Sự hòa điệu của lý tính tự lập (qua sự soi sáng của Thiên Chúa) cũng như của tính chất quy phạm ngoại thuộc (được đúc kết nên trong bản tính con người) chính là điều kiện cho lương tâm luôn tự trau dồi và hoàn hảo thêm mãi, điều mà người ta gọi là “giáo dục hay rèn luyện lương tâm”, tức một diễn tiến cần thiết trên đường tiến tới chân lý luân lý đạo đức.                             

Giáo huấn Công Giáo về luân lý khẳng định rằng lương tâm chịu sự điều khiển và chi phối của Thiên Chúa, nguồn mạch của chân thiện mỹ tuyệt đối, chứ không phải của con người. Nhưng đồng thời giáo huấn ấy lại nhìn nhận sự tác động của lương tâm mang tính chất nội tại trong con người. Đây là giáo huấn được dựa trên quan điểm thần học của thánh Thomas Aquinô trong sự cân bằng giữa những yếu tố ngoại thuộc nói chung và thần thuộc nói riêng (tức các giới luật và ân sủng của Thiên Chúa) và những yếu tố độc lập (tức ý chí và sự tự do của con người). Để hòa hợp và duy trì những yếu tố này giữa Thiên Chúa và con người lại với nhau phải cần đến sự can thiệp của lý trí, nghĩa là nhờ vào sự hướng dẫn của lý trí mới có thể khám phá được lý tính thực tiễn của hành động của mình, nói cách khác, chính lý trí  soi sáng cho con người có được sự hiểu biết và nhận thức được chân lý. Ý tưởng này đòi hỏi một sự cân nhắc khôn ngoan và đúng đắn về những luận cứ chủ quan và khách quan. Một sự nỗ lực biết cân nhắc khôn ngoan như thế người ta cũng thường tìm gặp trong các văn kiện của Công Đồng Vatican II khi đề cập tới vấn đề lương tâm và tìm kiếm một sự dung hòa giữa các quan điểm về lương tâm.

Bởi vì, trong giáo huấn Công Giáo về luân lý, ý niệm “lương tâm” đóng một vai trò rất quan trọng, nên nó đã được đưa ra thảo luận một cách sôi nổi trong các khóa họp Công Đồng giữa các ý kiến trái chiều. Sau cùng hai hiến chế Lumen GentiumGaudium et Spes đã nhấn mạnh một cách đặc biệt đến ý niệm lương tâm và đặt nó vào hàng “Hiến chương” mang tính chất ràng buộc thần học. Nhờ Hiến chế Gaudim et Spes đã tổng hợp được những quan điểm trái chiều nhau, nên người ta đã tìm gặp được trong đó một sự xác định rất rõ ràng về lương tâm, điển hình trong đoạn viết sau đây:

Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo, và tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia. Quả thật, con người có lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng bị xét xử theo lề luật ấy nữa (Xc.Rm 2,14-16). Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ. Lương tâm làm cho con người nhận biết một cách tuyệt vời luật mến Chúa yêu người (x. Mt 22,37-40; Ga 5,14). Trung thành với lương tâm, các Kitô hữu phải liên kết với những người khác để tìm kiếm chân lý và giải quyết trong chân lý biết bao vấn đề luân lý được đặt ra trong đời sống cá nhân cũng như trong giao tiếp xã hội. Bởi vậy, lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân và cộng đoàn càng tránh được sự độc đoán mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Tuy nhiên, lương tâm nhiều khi lầm lạc vì bất tri vô khả thắng, nhưng cũng không vì thế mà mất hết phẩm giá. Nhưng không thể nói như vậy khi con người ít lo lắng tìm kiếm điều chân và điều thiện cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng.[2]

Định nghĩa về lương tâm trên đây của Công Đồng bao hàm tất cả những gì mà người ta cần phải có để hiểu được quan điểm Công Giáo về lương tâm. Câu định nghĩa ấy hàm chứa một thái độ được coi là mang tính chất đặc trưng nhờ sự phổ quát hóa một cách hợp lý các khía cạnh và phương diện của vấn đề, một sự hợp lý về chủ quan tính và khách quan tính và vượt lên trên cả biên giới của tôn giáo hay tín ngưỡng. Nói cách khác, một đàng, sự phán quyết của lương tâm không tùy thuộc vào niềm tin tín ngưỡng của người liên hệ, nhưng đàng khác, lương tâm không thể hành xử đúng đắn được nếu không có chân lý, nhưng chân lý lại chỉ có nơi một mình Thiên Chúa mà thôi, ngoài Thiên Chúa không có chân lý đích thực, vì Thiên Chúa là chân lý tối hậu.

Điều đó muốn nói rằng, một người bị phê phán và xét đoán không vì người ấy là tín hữu Công Giáo hay không, nhưng vì người ấy đã biết lắng nghe theo tiếng lương tâm của mình và nhờ thế đã sống xứng đáng với nhân phẩm của mình hay không. Tuy nhiên, con người luôn được kêu mời không những phải “làm lành lánh dữ”, nhưng còn phải “tìm kiếm điều chân thật và thiện hảo” nữa, nghĩa là Thiên Chúa, để không bị lầm lạc về phương diện luân lý đạo đức do sự vô tri trong việc sử dụng lương tâm. Và trong việc tìm kiếm điều chân thật và thiện hảo ấy, con người được Giáo Hội đồng hành và trợ lực. Nhưng sự trợ lực ấy không thể thay thế cho sự nỗ lực bản thân con người được trong việc sống theo lương tâm mình, và như thế, cũng không biện minh được cho sự lầm lẫn không thể tránh được của con người do sự bất cẩn và sao nhãng của mình.

Vậy, ai muốn đứng vững được trước sự xét xử công minh của Đấng Sáng Tạo, thì phải thực hiện tốt điều này là nỗ lực thực thi giáo huấn Công Giáo về luân lý, dù cho người ấy là tín hữu Công Giáo hay không. Bởi vì giáo huấn Công Giáo về luân lý có đủ thẩm quyền để định hướng một cách chắc chắn và trực tiếp nhằm tới chân lý và qua đó hướng dẫn con người đạt tới sự cứu rỗi. Sự tương quan sống động này giữa cộng đồng tôn giáo và đức tin cá nhân của một người hình thành nên một sự liên kết bền vững giữa Thiên Chúa và lương tâm. Như thế, nhờ sự tương quan sống động ấy, Giáo Hội nói chung và Công Đồng nói riêng đã thành công trong một vấn đề mà người ta đã chí lý gọi là điều bất khả tìm gặp được đối với bản tính hữu hạn con người, tức sự cứu rỗi sau cùng. Với tư cách là cộng đồng của Thiên Chúa, Giáo Hội Công Giáo quả thực là thầy dạy chân lý và hướng dẫn con người tìm gặp được chân lý tối hậu. Ở đây, để dễ hiểu hơn, người ta có thể đưa ra một ví dụ cụ thể để so sánh, chẳng hạn khi một người nào đó được dành cho một căn phòng trong một toà nhà mà viên quản gia đã dự định, vì viên quản gia nắm vững cơ cấu kiến trúc cũng như bản thiết kế của toàn thể toà nhà. Nếu như người ấy chẳng may khi đi ra khỏi phòng của mình và rồi sau đó khi trở lại bị lạc, không còn tìm ra được căn phòng đó nữa và cứ đi mở thử các cửa của những căn phòng khác không dành cho anh ta, thì điều đó không có nghĩa là bản thiết kế hay họa đồ tòa nhà bị vẽ sai hay thiếu rõ ràng, nhưng là do người ấy đã không chịu khó đọc kỹ và hiểu bản thiết kế, cũng như do anh ta đã lơ là và khinh thường bỏ qua những dẫn giải và cắt nghĩa của viên quản gia với vai trò là người dày kinh nghiệm và thấu triệt mọi ngóc ngách của tòa nhà. Ở đây, chính Giáo Hội là quản gia của tòa nhà luân lý mà Thiên Chúa là chủ nhân duy nhất.

Sự diễn tiến của Công Đồng Vatican II đã thành công trong việc nỗ lực đưa ra một sự dung hòa giữa quan điểm chủ quan và khách quan về lương tâm, và hơn nữa, chủ đề lương tâm còn được nghiên cứu cẩn thận và được trình bày trong những phát biểu công khai của Huấn Quyền, tức những Tông huấn hay Thông điệp của các Đức Giáo Hoàng như: Redemptor hominis (1979); Veritatis splendor (1993); Evangelium vitae (1995)… cũng như nền thần học luân lý Công Giáo trong nhiều thập niên liên tiếp sau Công Đồng Vatican II đã chính thức bày tỏ một tinh thần rất cởi mở đối với phương diện cá nhân riêng tư, nhưng đồng thời cũng không quên nhắn nhủ cần phải luôn tôn trọng chân lý khách quan, mà quyền giải thích chân lý khách quan ấy là một yêu sách bất khả nhượng của giáo huấn Công Giáo về luân lý.

5.     Vì sao giáo dục lương tâm lại cần thiết trong thời đại thời nay?

Bởi vì, con người ngày đang đứng trước những thay đổi sâu xa và mau chóng trong mọi lãnh vực của thời đại, họ dường như khó tránh khỏi tình trạng khủng hoảng về lương tâm. Nguyên nhân có thể là do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, họ chú trọng vào công việc địa vị, tiền tài, danh vọng hơn là đạo đức luân lý dẫn đến mất định hướng và thường gây cho họ những bất an trong cuộc sống. Nhưng sâu xa hơn có thể do việc ý thức tôn giáo của con người thời đại đã bị lu mờ. Những lối suy tư và cảm nghĩ của người xưa để lại đối với họ hình như không còn đủ, không còn phù hợp với tình thế hiện đại, như lời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: “Lương tâm và ý thức tôn giáo của con người thời đại bị lu mờ”.

Con người mất cảm thức về tội

Vì lương tâm và ý thức tôn giáo con người bị lu mờ, nên con người cũng đang dần đánh mất ý thức về tội của mình. Một trong những lý do là có quá nhiều yếu tố mang tính tiêu cực tác động lên đời sống con người hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông, ta thấy biết bao hình ảnh đồi truỵ. Thế nhưng, dường như trong thâm tâm con người thời đại muốn xoá ý niệm về tội trong tâm khảm mình, ranh giới giữa thiện và ác không còn nữa, nên tội chẳng là gì đối với họ. Họ bất chấp tất cả miễn là hành động ấy đem lại lợi ích cho bản thân. Điển hình mỗi ngày có biết bao người mẹ giết chính đứa con của mình, cũng chỉ vì ích kỷ, sợ mất danh tiếng sau những cuộc ăn chơi, hoặc để có thời gian hưởng thụ.

Diệu Trinh một cô gái 22 tuổi, đã ba lần phá thai, khi được hỏi: Em có thấy phá thai là tội không? Cô mau mắn trả lời: “Dạ không, vì nếu là tội thì nhà nước đã không cho phép, và ở đây sẽ không đông như thế này”. Chính vì nhận thức đó mà số ca phá thai thật sự rất đông.

Theo báo cáo mới công bố của Tổ chức Y tế Thế giới,[3] Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ phá thai cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế giới (sau Trung Quốc, Nga, Hoa Kỳ và Ukraina) với gần 2,7% trẻ em từ 15 - 19 tuổi phá thai khi chưa kết hôn. Báo cáo của báo cáo của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y Tế cho biết, tại Việt Nam, mỗi năm cả nước có khoảng 250.000 – 300.000 ca phá thai được báo cáo chính thức… Trong những năm gần đây, đồng thời với tổng số trẻ được sinh ra mỗi năm tại Bệnh viện Từ Dũ từ 60.000 – 65.000 ca, thì số liệu phá thai ngoài ý muốn ghi nhận được gần 50.000 trường hợp.

Như vậy, xem ra người ta không còn cảm thấy xúc động hay ray rứt trước hành vi giết người của mình, tệ hơn họ đã giết chính đứa con mà họ đang cưu mang. Trong khi đó, những điều tích cực có thể giúp thăng tiến con người thì quá ít ỏi. Chính vì thế con người dần chai cứng trước những tội ác, bạo lực, không còn cảm thấy áy náy lương tâm nữa.

Phải chăng thế giá của lương tâm không bị đặt lại vấn đề do sự kiện là trong nhiều người, tiếng nói lương tâm quá yếu ớt đến độ không còn nghe thấy hay đi theo? Trên thực tế hiện tượng này nói lên tình trạng yếu kém về luân lý của nhân loại. Đứng trước thảm hoạ này Đức Piô XII đã phải thốt lên: “Ngày nay có lẽ cái tội lớn nhất của thế giới là đánh mất cảm thức về tội”. Và đây cũng là thảm cảnh của con người thời đại. Mất dần cảm thức về tội cũng đồng nghĩa với đánh mất sự trong sáng của lương tâm, dẫn đến lẫn lộn trong việc phân định điều tốt điều xấu, không còn cái nhìn khách quan đúng về luân lý, nên dễ dàng chà đạp lên nhân phẩm của nhau, không còn coi trọng những quy tắc đạo đức tối thiểu trong tương quan giữa người với người.

Con người đã loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời

Chúng ta cũng có thể nhìn nhận nguyên nhân dẫn các bạn trẻ Công Giáo quan niệm sai về tội là do họ đang loại dần Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Xã hội ngày nay thường làm cho giới trẻ nghĩ rằng họ có thể làm được tất cả, nên họ không cần Thiên Chúa. Ngay cả với sự sống, họ cũng tìm cách để tạo ra các phần cơ thể; họ tạo ra những tiêu chuẩn luân lý để phục vụ tham vọng của mình, hay tự bào chữa tội lỗi cho mình. Chúa Giêsu đã hơn một lần khẳng định: “Ta là sự thật và là sự sống” (Ga 4,6), nên đời sống thiếu vắng Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với thiếu vắng sự thật.

Vì con người tự tách mình ra khỏi Thiên Chúa nên con người cũng chối bỏ anh em, và chỉ biết nghĩ đến bản thân, coi thường lề luật, không còn nhạy bén trước những lỗi lầm, mất cảm thức về tội làm lu mờ giá trị luân lý. Nếu con người mãi tự tách mình ra khỏi Thiên Chúa thì con người đang tự phá đổ trật tự công trình sáng tạo yêu thương của Thiên Chúa ban cho, đồng thời phá vỡ mọi hoà hợp nơi bản thân cũng như mối tương quan với người khác. Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng: khi con người không còn liên kết với Thiên Chúa thì khó có thể tự thắng chính mình và sức mạnh của Satan, sự ác sẽ len lỏi trong ta. Chính vì thế mà tội lỗi đã không ngừng gia tăng trong thế giới ngày nay.

Con người không dám đối diện với chính mình

Có thể nói rằng, điều đáng sợ nhất hôm nay là con người không nhận ra chính mình. Có lẽ một phần cũng do con người ngày nay luôn sống trong một thế giới ồn ào náo nhiệt, với những tiện nghi máy móc, công việc, không có thời gian cho chính mình, vì thế họ sợ thinh lặng, sợ đối diện với chính mình. Trên thực tế, chúng ta thích có một cuộc sống vui nhộn, linh hoạt hơn là sống một mình và đối diện với chính mình như Triết gia Pascal có nói rằng:Sáng kiến giải trí của con người là một cuộc trốn chạy, con người trốn chạy chính mình và lẩn trốn tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng càng lẩn trốn con người càng rơi vào sự trống rỗng và đánh mất chính mình”[4]. Chính ở điểm này mà con người không thể nghe được tiếng lương tâm, không tìm được ý Chúa. Mặt khác, không dám đối diện với chính mình thì con người cũng không dám nhìn nhận sự thật về bản thân, họ sợ và chạy trốn những khuyết điểm của mình. Chính khi không trở về với cõi lòng, không nhìn nhận bản thân thì họ cũng không dễ nhận ra Thiên Chúa và dễ phạm những sai lầm, dần dần lương tâm sẽ ngủ vùi trong những lỗi lầm.

Thật ra, Thiên Chúa đặt để lương tâm con người không phải để hạn chế tự do hay luận phạt, nhưng là để mời gọi con người sống “nên người” hơn. Lương tâm xét cho cùng cũng chính là tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa. Bóp nghẹt hay khước từ tiếng nói lương tâm là khước từ chính tình yêu và do đó cũng là hạ thấp phẩm giá con người.

Khi không sẵn sàng lắng nghe tiếng nói và những đòi hỏi của lương tâm, con người cũng cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa. Khi con người sợ đối diện với lương tâm mình, cũng sẽ sợ đối diện với Thiên Chúa. Đây là điển hình của một cuộc sống thiếu thành thật. Vì thế, khi không dám đối diện với chính mình con người cũng không thể có một lương tâm an bình, trong sáng.

6.  Việc đào tạo lương tâm luân lý

Lương tâm luân lý cần phải được rèn luyện. Giáo Hội khẳng định tầm quan trọng của “nội tâm tính” đối với lương tâm con người:

Điều quan trọng là mỗi người phải hiện diện với chính mình, để lắng nghe và tuân theo tiếng nói của lương tâm mình. Sự đòi hỏi sống nội tâm là rất cần thiết vì đời sống thường dẫn chúng ta đến nguy cơ là chúng ta bị lôi kéo khỏi mọi suy tư, kiểm điểm hay hồi tâm (GLHTCG, số 1779).

Sự thấu triệt các thông tin và các quyết định không thể đến từ bên ngoài, chúng phải do một sự phân định cá nhân và một suy tư từ kinh nghiệm. Đức Giêsu gợi lên sự phân biệt này khi nói đến nguồn gốc của tội lỗi:

Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được, nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 14-15).

Một lúc khác, Người nói: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Lc 6, 45).

Như vậy, việc đào tạo một lương tâm luân lý tốt đòi hỏi một suy nghĩ và sự phân định nghiêm túc liên quan đến các vấn đề chạm tới đời sống của chính mình và của người khác. Giáo lý dạy chúng ta rằng:

Giáo dục lương tâm là nhiệm vụ của cả cuộc đời. Một nền giáo dục khôn ngoan dạy nhân đức, đề phòng và chữa lành con người khỏi sợ hãi, khỏi yêu mình cách mù quáng và khỏi kiêu căng, khỏi những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, phát sinh từ sự yếu đuối và những lỗi lầm của con người. Việc giáo dục lương tâm bảo đảm cho sự tự do và tạo nên sự bình an trong trái tim…Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Chúng ta phải thấm nhuần Lời Chúa vào trong đức tin và kinh nguyện, và phải đem ra thực hành;phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Đức Ki-tô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của anh em giúp đỡ, được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn (GLHTCG, các số 1784-1785).

Căn cứ vào nội dung giáo lý trên, chúng ta có thể xác định các yếu tố đóng góp vào việc đào tạo lương tâm luân lý: Lời Chúa, Thập giá của Đức Giêsu, các ơn Chúa Thánh Thần, giáo huấn của Giáo Hội và những lời khuyên, hướng dẫn của người khác.

 

Cần được hướng dẫn bởi Lời Chúa

Lời mời gọi “đi theo” của Đức Giêsu với các môn đệ không chỉ có nghĩa là bước theo Ngài đi đến nơi sắp tới mà Ngài còn mời gọi họ “đi theo” cách suy nghĩ, cách hành động, cách nói của Ngài. Trong Tin Mừng Matthêu, các dụ ngôn và các bài giảng của Đức Giêsu gợi lên suy nghĩ và đưa ra những phương hướng về cách sống. Các vấn đề được đặt ra với Đức Giêsu, hay do chính Ngài đặt ra và các câu trả lời của Ngài giúp đào sâu ý nghĩa thật sự của đời sống con người. Đức Giêsu, Đấng đã chọn trở nên “con người” để chỉ cho chúng ta con đường của một nhân loại đích thực, là người hướng dẫn tuyệt hảo cho việc đào tạo một lương tâm luân lý lành mạnh. Ngài đòi hỏi sự chú ý và sự dấn thân của chúng ta.

Có thể nói, Kinh Thánh hàm chứa đựng hai bộ luật chính về cách xử sự: Mười điều răn (x. Xh 20, 2-17) và các Mối Phúc (x. Mt 5, 2-12). Mỗi bộ luật, theo cách của mình, trình bày các thái độ quan trọng nhất của một đời sống con người. Ý nghĩa không đơn giản là “hãy làm điều này” và “không làm điều kia” nhưng một lời kêu gọi suy nghĩ về đời sống của mình và sự cần thiết để sống trung thành với Thiên Chúa và trong tương quan với anh chị em mình. Những bộ luật này đưa ra chất liệu về việc đào tạo lương tâm luân lý và có thể dùng làm điểm xuất phát cho việc đào tạo lương tâm nhờ có Lời Chúa.

Hướng sự chú ý đến Thập giá

Thập giá là biểu tượng của người Kitô hữu, là sức mạnh giúp sẵn sàng gánh vác và đồng thời, vượt qua các thử thách mà chúng ta phải đối diện khi sống các giá trị của Tin Mừng, là dữ kiện giúp mọi suy tư Kitô giáo có nền tảng.

Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá (1 Cr 2, 1-2).

Thập giá không chỉ là dụng cụ của việc hành quyết Đức Giêsu, nó tượng trưng cho sự vâng lời trung thành của Ngài để thực hiện ý muốn của Chúa Cha, cho đến sự thương khó và cái chết của Ngài. Không có gì làm cho Đức Giêsu lãng quên sứ mạng của Ngài. Việc suy niệm về con đường thập giá của Đức Giêsu là tâm điểm của việc đào tạo một lương tâm tốt: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi” (Lc 9, 23).

Trong đời sống của một Kitô hữu, thập giá được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nó luôn thể hiện sự thách thức để sống với tư cách là môn đệ của Chúa. Điều đó đưa chúng ta đến một định nghĩa của một lương tâm tốt: nó dẫn một người bước theo Đức Giêsu trong sự trung thành và trong niềm vui. Thập giá bao hàm cả sự phó thác và đồng ý. Vì thế, Giáo Hội một lần nữa lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Thập giá trong việc đào tạo lương tâm, đó là phải luôn “kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập giá Đức Ki tô và nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp” (Dignitatis Humanae, số 14).

Xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn

Chúa Thánh Thần một vị trí quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Thánh Thần là Đấng giúp chúng ta đọc Kinh Thánh với một tâm hồn cởi mở để lắng nghe sứ điệp mà Thiên Chúa muốn truyền đạt. Ngài giúp chúng ta giải thích giáo huấn của Giáo Hội để áp dụng vào đời sống và đưa ra những quyết định cần thiết. Thánh Thần ban cho chúng ta sự thận trọng để đọc những “dấu chỉ thời đại”, mặc khải những gì còn ẩn giấu đối với trí tuệ con người và ban sự chắc chắn về một đường hướng để sống một đời sống luân lý và tin vào những xác tín của mình và Ngài luôn làm việc để củng cố và hướng dẫn việc đào tạo lương tâm Kitô giáo.

Vậy khi gặp trường hợp khó phán đoán, khó quyết định, phải thế nào?

Chúng ta phải cố gắng giải thích đúng đắn kinh nghiệm của mình và các dấu chỉ thời đại, nhờ vào đức khôn ngoan, lời khuyên bảo của những người hiểu biết cũng như sự trợ lực của Chúa Thánh Thần và ân sủng của Người (GLHTCG, số 1788).

Chúng ta luôn phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, là Đấng ban sự thật và là Đấng Bảo Trợ, như lời Đức Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trong nhà Tiệc Ly:

Khi nào Thần khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em ta thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng là những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em (Ga 16, 13-14).

Những giáo huấn có thẩm quyền của Giáo Hội

Còn có một nguồn đào tạo lương tâm luân lý khác, đó là giáo huấn của Giáo Hội. Công đồng Vaticanô II đưa ra những chỉ dẫn quý báu về tầm quan trọng của phương thế này đối với việc đào tạo lương tâm người Công giáo:

Nhờ cảm thức đức tin do chính Thánh Thần Chân Lý khơi dậy và nâng đỡ, khi tuân phục theo sự hướng dẫn của Huấn Quyền Giáo Hội, Dân Thiên Chúa đón nhận không phải lời của người phàm, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa, trung thành gắn bó với đức tin đã được truyền lại cho các thánh chỉ một lần là đủ, thấu hiểu cách sâu xa hơn với một nhận thức chính xác và thực thi đức tin cách hoàn hảo hơn trong đời sống hằng ngày (Lumen Gentium, số 12).

Huấn quyền được giao cho Đức Giáo Hoàng và các giám mục:

Các Giám mục khi dạy dỗ trong sự thông hiệp với Giám mục Rôma, phải được mọi người kính trọng như những chứng nhân của chân lý thần linh và Công giáo; phần các tín hữu phải tùng phục phán quyết của Giám mục về đức tin và phong hoá được công bố nhân danh Đức Kitô, cũng như phải gắn bó với ngài bằng thái độ tuân phục trong tinh thần đạo đức. Thái độ tuân phục trong tinh thần đạo đức này về mặt ý chí cũng như lý trí phải được đặc biệt dành cho huấn quyền đích thực của vị Giám mục Rôma (Lumen Gentium, số 25).

Lương tâm luân lý sẽ được soi sáng bằng nỗ lực hiểu biết những giáo huấn của truyền thống và Giáo Hội. Những người đã nhận trọng trách đặc biệt này có quyền được kính trọng và chú ý đặc biệt, về phần chúng ta, sẽ được thể hiện trước tiên, bằng thái độ khiêm nhường và vâng phục những lời giáo huấn này.

Những chứng từ và các lời khuyên của người khác

Các chứng từ và lời khuyên là một nguồn lợi dồi dào cho việc đào tạo lương tâm luân lý. Gương mẫu của bạn bè hoặc gia đình, những lời khuyên của một người đồng hành thiêng liêng hoặc một Bề trên, lời từ một bài giảng hoặc một buổi nói chuyện, một bài về thời sự, một tài liệu và thậm chí một vở kịch có thể mang lại một sự khuyến khích cho đời sống luân lý. Nếu chúng ta mở mắt và tai, chúng ta có thể phân định nhiều giáo huấn trong đời sống thường ngày của cộng đoàn ngay tại chính địa phương hoặc trên thế giới.

Chúng ta cũng có thể nhìn các thánh mà đời sống của họ trình bày cho chúng ta những bài học sống động về lương tâm luân lý được đào tạo tốt. Thánh Phaolô không ngần ngại nói với các Kitô hữu Côrintô rằng: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11, 1).

Để giúp ích cho việc đào tạo lương tâm luân lý, chúng ta có thể đọc các bút tích thiêng liêng: Gương Chúa Giêsu của Thomas a Kempis, Lâu đài nội tâm của Têrêxa Avila, Dẫn vào đời sống đạo đức của François de Sales… là những tác phẩm đã được công nhận là có giá trị trong việc đào tạo lương tâm luân lý. Chúng ta có thể xem một đoạn mẫu trong bài nói chuyện của thánh Vinh Sơn Phaolô đề nghị về việc đào tạo lương tâm như sau:

Qua từ ngữ tĩnh tâm thiêng liêng hoặc các việc thiêng liêng, ta phải hiểu một sự thoát khỏi mọi việc và lo lắng trần thế để chuyên chú nghiêm túc vào việc biết rõ nội tâm của mình, xem xét kỹ tình trạng lương tâm của mình, suy gẫm, chiêm niệm, cầu nguyện và như vậy chuẩn bị tâm hồn của mình để được thanh tẩy mọi tội lỗi, mọi tình cảm và thói quen xấu, chất đầy sự ước muốn những nhân đức, tìm kiếm và biết ý muốn của Thiên Chúa, và, biết điều ấy rồi, phục tùng, thuận theo, kết hiệp với điều ấy, và như thế nhắm tới, tiến bước
và cuối cùng đạt đến sự hoàn hảo của chính mình
(Coste, tập XIII, tr. 143-144).

Tạm kết

Thư mục vụ năm 2006 mang tựa đề Sống đạo hôm nay (8-9-2006) có đoạn viết: 

Trước những thay đổi hiện thời của xã hội làm ảnh hưởng không nhỏ đến cách nghĩ và lối sống của nhiều người, nhất là người trẻ, chúng tôi đề nghị một lộ trình sống đạo khởi đi từ việc đổi mới bản thân. Điểm căn bản trong việc xây dựng con người mới này là làm sao để bản thân mỗi người ý thức và sống đúng phẩm giá của mình; bởi lẽ phẩm giá con người là quà tặng Thiên Chúa ban (…). Ngoài ra, mỗi người cũng cần được huấn luyện để có lương tâm ngay chính. Thật vậy, một trong những điều cấp thiết người Công giáo phải nêu gương là tìm hiểu giá trị của lương tâm và thực hành theo tiếng nói lương tâm của mình” (số 5) 

Tại sao phải quan tâm tới vấn đề lương tâm? Hội đồng Giám mục trả lời: “trong xã hội hiện nay, đôi khi nhu cầu sinh sống và phát triển đã kéo theo những hệ lụy làm cho lương tâm con người bị sai lệch hoặc bị mất phương hướng”. Có lẽ do tình trạng suy thoái lương tâm hay ý thức đạo đức là rất nghiêm trọng. Con người ở đâu và thời nào cũng có kẻ tốt người xấu, nhưng khi cái xấu không những tìm cách lấn át cái tốt mà còn xuất hiện và lan rộng khắp nơi như chuyện bình thường thì vấn đề đã trở thành nghiêm trọng.

Đối với người Công giáo, rèn luyện lương tâm và nhất là sống theo lương tâm ngay chính là một bổn phận thường xuyên bất kể ở đâu, lúc nào và trong hoàn cảnh nào. Vì:

Tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia. Quả thật con người có lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy nữa. Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ.[5]




[1] Notker Labeo, Notker III, hay Notker the German (950-1022), tu sĩ dòng Biển Đức, thuộc tu viện St Gall, Thuỵ Sĩ. Ông là nhà dịch thuật nổi tiếng thời Trung cổ, là người đầu tiên dịch các tác phẩm của triết gia Aristotle và các tuyệt tác khác ra tiếng Latin.

[2] Gaudium et Spes, số 16.

[3]CN Nguyễn Thị Minh Tâm, “Bạn hiểu gì về…phá thai”, “https://tudu.com.vn/vn/y-hoc-thuong-thuc/ke-hoach-gia-dinh/bien-phap-tranh-thai/ban-hieu-gi-ve-pha-thai/ (truy cập ngày 2/4/2021).

[5] Gaudium et Spes, số 16.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn