Lương tâm & tiếng nói chính mình

Không dựa vào tiếng nói của lương tâm

phát xuất từ Thiên Chúa nhưng nại vào chính con người

thì rồi mọi sự cũng đổ bể. Đức Gioan Phaolô II cho thấy,

con người là hữu thể bất toàn, không tự túc

nên mọi ảo tưởng tự lập tách biệt khỏi Thiên Chúa

đều dẫn con người đến sự tự hủy hoại ghê gớm ý nghĩa nhân sinh.

Ts. Nguyễn Ninh, OP.

Ngày 16/10/2020, cả nước Pháp rung động vì một vụ án giết người đẫm máu. Một thầy giáo người Pháp bị một phần tử Hồi giáo cực đoan chặt đầu, vì trước đó, trong một tiết học về tự do ngôn luận, thầy đã cho các em học sinh xem những bức biếm họa về nhà tiên tri Mohammad từ tờ báo Charlie Hebdo. Sau vụ việc, tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã cật lực lên án những kẻ khủng bố, đồng thời lên tiếng bảo vệ người thầy giáo với quyền tự do ngôn luận và tuyên bố sẽ bảo vệ quyền được vẽ biếm họa nhà tiên tri Mohammad. Điều này đã dấy lên một làn sóng biểu tình phản đối tổng thống Pháp khắp thế giới Hồi giáo. Trong một bài phát biểu[1], thủ tướng Pakistan Imran Khan, cho rằng tổng thống Pháp đã tấn công và làm tổn thương đến cảm xúc tình cảm của hàng triệu người Hồi giáo. Ông không nói rằng tổng thống Pháp xúc phạm nhà tiên tri Mohammad, mà nói rằng tổng thống Pháp đã xúc phạm những người Hồi giáo, những con người cụ thể chứ không phải những vị thần thánh. Mặt khác, điều ông lên án, không phải vì ông Macron xúc phạm đến linh hồn, danh dự hay kinh tế của những người Hồi giáo nhưng là xúc phạm đến cảm xúc tình cảm của họ.

Đây có thể xem là một câu chuyện điển hình mô tả gần như một bức tranh toàn cảnh về thẩm quyền của con người trong thế kỷ XXI hôm nay. Nơi chủ nghĩa nhân văn tự do hiện đại, con người là điểm quy chiếu cho mọi giá trị, mà cụ thể là cảm xúc của cá nhân, như một thẩm quyền tuyệt đối để quyết định cho mọi hành động trong cuộc sống. Điều này tác động và ảnh hưởng đến lương tâm, vốn có vai trò dẫn dắt và định hướng cho con người, nhất là những người trẻ Công giáo Việt Nam hôm nay như thế nào?

1. Đôi nét về lịch sử chủ nghĩa nhân văn

Chủ nghĩa nhân văn là gì? Có thể có nhiều cách hiểu và áp dụng về chủ nghĩa nhân văn, tuy nhiên nội dung chính của chủ nghĩa nhân văn vẫn xoay quanh vấn đề tôn trọng con người, đặt con người ở một vị thế quan trọng với những giá trị, sở thích và phẩm giá của con người. Và do vậy, nguồn gốc của chủ nghĩa nhân văn đã có từ thời xưa, khi con người, nhất là các hiền nhân cổ đại vẫn luôn đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi về ý nghĩa và bản chất của con người. Chẳng hạn, cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Chúa có tồn tại không? Điều gì tốt điều gì xấu, nên và không nên làm? Tuy nhiên trên bình diện tư tưởng, để lấy một cột mốc cho cuộc cách mạng mang tên Chủ nghĩa nhân văn thì phải đợi đến thế kỷ XV, trong sự xuất hiện phong trào Phục hưng. Hạn từ nhân văn được các nhà phê bình thế kỷ XIX dùng để nói về thời kỳ Phục hưng với tên gọi Renaissance Humanism.[2]

Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng (XIV – XVII) khởi phát từ Italy, đặt trọng tâm nghiên cứu về các lĩnh vực lịch sử, thi ca, tu từ, nghệ thuật, lẫn đạo đức trong các bản văn Hy Lạp và La Mã nhằm phản ứng lại lối biện chứng triết học suy lý đơn thuần, nền đạo đức và siêu hình học được cho là trừu tượng, xa rời thực tế đời sống con người. Nhân văn thời Phục hưng là một bước biến chuyển lớn trong việc nhìn nhận và tìm về với các giá trị truyền thống cổ xưa trong các nền văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhằm làm nổi bật vấn đề phẩm giá của tâm trí và thân thể con người. Chẳng hạn nếu thời trung cổ, nghệ thuật ảnh tượng và văn chương miêu tả Đức Kitô và Mẹ Maria như một hình tượng đầy tính thần thiêng uy nghi cao cả thì trong thời Phục hưng, hình ảnh của các ngài được nhấn mạnh hơn trong nhân cách, trong những hình ảnh rất đời thường, gần gũi cuộc sống sinh động của con người.[3]

Có nhiều người nghĩ chủ nghĩa nhân văn là vô thần hoặc bất khả tri về Thiên Chúa. Tuy nhiên, thực tế, không chỉ có một hướng đi khác của chủ nghĩa nhân văn gắn liền với niềm tin vào Thiên Chúa, mà ngay cả chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục hưng cũng không hề loại trừ Thiên Chúa. Thời kỳ Phục hưng tuy phục hồi cách thức học hỏi truyền thống và nghiên cứu các nguồn tư liệu ngoại giáo xung khắc với hình thức tư tưởng kinh viện nhưng nói chung nó vẫn bao hàm trong nền móng Kitô giáo. Tuy nhiên, song song với quá trình diễn tiến thời kỳ Phục hưng, khoa học vật chất bắt đầu bước vào thời kỳ tự trị với tiếng hô lớn của Roger Bacon, như một khởi điểm xuất phát trên con đường tuyệt đối của lý trí, cùng với sự ra đời của kỹ thuật in ấn trong thế kỷ XV, triết học tự nhiên thu nhỏ trong những mô tả khoa học toán và giảm trừ thần học ra vô tín. Phong trào khai sáng từ thế kỷ XVII-XIX cuối cùng đưa quyền tự trị của lý trí lên như một chuẩn mực tuyệt đối cho đời sống con người. Mặc dù có nguồn gốc trong dòng tư tưởng bén rễ nơi tôn giáo như S. A. Kierkegaard và sự ủng hộ của của những nhà nhân văn tán đồng tôn giáo như Gabriel Marcel, nhưng tư tưởng hiện sinh của F. W. Nietzsche, Albert Camus và Jean Paul Sartre đã đánh dấu khởi đi hành trình nhân văn vô thần.[4]

Cuộc cách mạng nhân văn thực sự đi sang một ngã rẽ quyết liệt khi nó loại trừ mọi vấn đề liên quan đến các khía cạnh siêu hình, đến sự hiện hữu của Thiên Chúa. Con người giờ đây là trung tâm và mang tính tuyệt đối. Thiên Chúa không còn can hệ gì đến con người. Thậm chí Thiên Chúa phải bị loại trừ bởi vì chủ nghĩa nhân văn này cho rằng chính ngài là nguyên cớ khiến con người không tự do phát huy hết được mọi giá trị nhân phẩm của chính mình. Triết gia J. P. Sartre trong tác phẩm Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa nhân bản, đã than vãn về sự bất khả của Thiên Chúa, vì không có Chúa thì mọi trật tự và hậu quả sẽ không xuất hiện để con người được tự do sáng tạo nên bản tính của nó và như vậy chịu toàn bộ trách nhiệm về định mệnh của nó.[5] Nietzsche thậm chí còn cho rằng Thiên Chúa đã chết và do đó không có một lương tâm nào cả. Lương tâm là biểu hiện của sự thoái hóa văn minh, do đó ông kêu gọi con người hãy trở nên mạnh mẽ như những siêu nhân không cần đến lương tâm. Còn nhà tâm lý Sigmon Freud lại coi lương tâm cũng chỉ như một nỗ lực đè nén dục tính. [6]

2. Chủ nghĩa nhân văn trong thế giới đương đại

Trong thời kỳ Khai sáng, phong trào nhân văn đã đưa con người lên một vị thế tuyệt đối. Điều đó đồng thời xảy ra với quá trình loại trừ tôn giáo, gạt bỏ Thiên Chúa. Thậm chí xem Thiên Chúa là một thế lực cản trở sự tiến bộ, để con người đạt được sự thành toàn nơi phẩm giá của chính mình. Thế thì trong thời kỳ hiện đại quá trình tục hóa khử thiêng đó sẽ diễn ra như thế nào?

Ngày nay con người dường như không còn xem Thiên Chúa là một thế lực đối lập phải quyết liệt loại trừ, ít là so với thời kỳ Khai Sáng. Phải chăng con người sau một vòng nỗ lực đặt mình vào vị trí mà họ tưởng chừng là xứng đáng với nhân phẩm thì nay đã nhận ra những hệ lụy sai lầm khi không tìm thấy một sự vững chắc ổn định với vị thế mới của nó? Hay họ nhận ra những sai lầm từ những hệ quả khôn lường về các cuộc chiến tranh diệt chủng trong thế kỷ XX và nay đang dần tìm cách nối lại tương quan với Thiên Chúa mà họ đã từng cắt đứt? Không hẳn như vậy, đúng hơn, con người ngày nay, như Đức Gioan Phaolô II than thở, “rất nhiều người suy nghĩ và sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu.”[7] Quả là con người thời nay đang quá bận rộn với những vấn đề trong cuộc sống hiện đại đến nỗi họ không còn để tâm nghĩ đến Thiên Chúa. Thiên Chúa có hiện diện hay không đều không liên quan, không ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Do đó mọi quyết định của con người không dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn dựa vào chính mình như một nền tảng để quy chiếu.

Bàn về vấn đề sự hiện diện của Thiên Chúa hay là tiếng nói của lương tâm trong thế giới ngày nay đối với chủ nghĩa nhân văn tự do hiện đại, tác giả Yuval Noal Harari phân biệt hai bản thể trong nội tâm con người[8], bản thể kể chuyện và bản thể trải nghiệm. Theo đó, những niềm tin tôn giáo, các nền văn hóa bản địa, truyền thống gia đình.v.v. tất cả đều chỉ đơn thuần được thêu dệt nên từ những câu chuyện hư cấu, không có thật. Từ đó, hình thành nên niềm tin của con người trong tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa cộng đồng. Do vậy những tiếng nói mà ta vẫn gọi là tiếng nói lương tâm chỉ là tiếng nói của một bản thể kể chuyện. Bản thể đó với những câu chuyện hư cấu đã định hình nên tiếng nói nội tâm của chúng ta. Mỗi khi đưa ra một quyết định, chúng ta đã chỉ dựa trên những tiếng nói của lương tâm, đúng ra là tiếng nói của một bản thể được hình thành từ những câu chuyện hư cấu. Ngày nay thì khác, những bản thể thể kể chuyện mất giá, người ta không còn tin vào những cái gọi là tiếng nói lương tâm đó nữa, chỉ đơn giản vì đó chỉ là những câu chuyện hư cấu, không xác thực nên không đáng tin. Thay vào đó người ta tin vào tiếng nói nội tâm của chính mình vốn được xây dựng trên những cảm xúc và trải nghiệm, gọi là bản thể trải nghiệm. “Khi con người ngày càng tin vào bản thân, một công thức mới để thu thập tri thức về đạo đức xuất hiện: Tri thức = Trải nghiệm x Sự nhạy cảm.[9]

Theo đó, người trẻ ngày nay tin vào tiếng nói nội tâm của chính mình khi dựa vào những trải nghiệm và mong muốn của cá nhân. Thay vì dựa vào tiếng nói của lương tâm, tìm kiếm câu trả lời trong Kinh Thánh hay các giá trị văn hóa truyền thống, họ tìm kiếm câu trả lời qua một chuỗi dài liên tục những trải nghiệm và cảm xúc. Càng nhiều kinh nghiệm sống, thành công hay thất bại, nhiều lần trải qua những mong muốn của bản thân, càng dễ hiểu được chính bản thân mình mà đưa ra các phán quyết hành động.

Không chỉ dừng lại ở cảm xúc trải nghiệm bản thân, nhiều người trẻ khi gặp khủng hoảng trong cuộc sống, hay tìm đến các nhà tư vấn tâm lý mong nhận được sự hỗ trợ, tư vấn để tìm ra giải pháp cho vấn đề. Trong các vấn đề luân lý, thay vì tìm đến linh mục để được hướng dẫn thì họ tìm đến các nhà tư vấn tâm lý. Các nhà tư vấn tâm lý, với tinh thần đề cao cảm xúc và trải nghiệm của chính đương sự, sẽ cố gắng phân tích lý luận để giúp cho đương sự có một cái nhìn đa chiều và thấu đáo hơn trong vấn đề của họ và từ đó, chính họ sẽ đưa ra quyết định. Ngoài ra, các lược đồ điều trị sinh học tâm thần cũng là một phương pháp chi phối đến các quyết định của con người trong cuộc sống hôm nay.

Nếu chủ nghĩa nhân văn trước đây nhấn mạnh đến những quyền phổ quát của con người như quyền được sống, quyền bình đẳng, quyền bầu cử ... thì ngày nay, chủ nghĩa nhân văn tự do đặc biệt nhấn mạnh tôn sùng cái tôi cá nhân và khuyến khích thể hiện những yếu tố ưu việt và đặc tính riêng nơi chính chủ thể riêng biệt. Chẳng hạn, các sinh viên đại học thường được dạy rằng hãy biết chọn lựa một ngành học mà mình thích hơn là đi theo định hướng của gia đình, xã hội. Hãy sẵn sàng khởi nghiệp nếu đó là ước mơ mà mình ấp ủ, hơn là cứ cắm đầu vào một cộng việc đơn điệu, nhàm chán. Hãy làm những việc mà mình thích, bởi cuộc đời này chỉ có một lần sống. Hãy lắng nghe lời thì thầm của trái tim, lắng nghe tiếng nói trong cõi lòng mình và làm theo nó. Hãy là chính mình, bạn sinh ra là một nguyên bản thì đừng chết như một bản sao. Những diễn ngôn xem ra rất cảm động, thành thực và có một tác động sâu sắc đến tâm trí của người trẻ trong thế giới hôm nay.

Cũng trong chiều hướng đề cao giá trị của chính mình, thời hiện đại khuyến khích người trẻ hãy can đảm để từ bỏ. Thật vậy, có một lối truyền thông cổ vũ những người trẻ phải biết cản đảm từ bỏ những vùng an toàn để phiêu lưu đến những nơi thử thách, để thể hiện bản lĩnh, để đạt được những giá trị tiềm tàng mà mình chưa khám phá hết được giá trị của bản thân mình. Nếu trước đây người trẻ cố gắng học hành thành tài, mua nhà, cưới vợ, sắm xe, tìm kiếm một cuộc sống ổn định thì nay đã có một xu hướng chuyển dịch. Nhiều người trẻ ngày nay cảm thấy tự chủ độc lập trong vấn đề kinh tế, đồng thời họ lại cảm nhận sự nhàm chán, đơn điệu, hữu hạn của cuộc sống nên thay vì an cư lạc nghiệp thì họ dành hết những tháng ngày tuổi trẻ để đi đây đi đó, du lịch trải nghiệm và hưởng thụ cuộc sống.

Tuy nhiên không dừng lại ở đó, với quan điểm mọi quyết định dựa vào chính những trải nghiệm và cảm xúc của chính mình đã dẫn dắt con người trong những quyết định hệ trọng liên quan đến cả luân lý đạo đức, như J. J. Rousseau cho rằng “trong tầng sâu thẳm trái tim tôi, do tự nhiên ghi khắc bằng những nét chữ không thể xóa nhòa, tôi chỉ cần tham vấn bản thân xem mình muốn làm gì; thứ nào tôi cảm thấy tốt là tốt, thứ nào tôi cảm thấy xấu là xấu.”[10] Chủ nghĩa nhân văn tự do ngày nay, với việc đề cao quyền uy tối thượng của con người, thần thánh hóa cảm xúc cá nhân, đã dẫn dắt con người đi đến những quyết định hoàn toàn mang tính chủ quan. Điều đó dẫn đến những hệ lụy khôn lường trong các vấn đề thuộc đời sống luân lý đạo đức.

Thực vậy, bị cuốn theo lối sống đề cao chính mình, nhiều bạn trẻ trở nên sống thoải mái, tự do nếu không nói là vô trách nhiệm. Cảm xúc và mong muốn của cá nhân, nghe thì thật cao đẹp, nhưng khi đề cao thẩm quyền con người, nhất là coi thẩm quyền nơi cá nhân là tối thượng thì cũng thật nguy hiểm. Nếu ai cũng xem mình là tối thượng, là chuẩn mực đúng đắn thì giữa mọi xung đốt trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, đâu là chuẩn mực đúng, đâu là sai lầm? Chẳng hạn, một người chồng cảm thấy có một tiếng nói bên trong tâm trí mình bảo phải chia tay người vợ gắn bó với mình để đến với một tình nhân mới, tiêu chuẩn nào cho rằng thẩm quyền nơi cảm xúc, tri thức của anh là đúng? Thế còn cảm xúc của người vợ, vốn vẫn còn yêu anh và không muốn vợ chồng chia lìa, gia đình đổ vỡ là sai? Chưa kể điều đó còn có thể gây ra đau khổ cho người vợ, cho những đứa con. Vậy thì giá trị nhân văn mà chủ nghĩa nhân văn nơi anh nhân danh sẽ có còn nhân văn? Đó chỉ là một trong vô vàn những hậu quả tiêu cực trong cách con người lấy chính mình làm tiêu chuẩn cho mọi hành động.

Cũng chịu ảnh hưởng bởi các trào lưu nhân văn đề cao cái tôi cá nhân, xem chính mình là tiêu chuẩn và giá trị cho mọi hành động mà nhiều người trẻ Công giáo Việt Nam hôm nay đang sống một cách xa lạ thậm chí đối nghịch với đức tin Công giáo. Chẳng hạn, trước đây chuyện ly dị vợ chồng là một điều rất ít khi xảy ra và khó chấp nhận được đối với nhiều tín hữu thì ngày nay ngày càng nhiều trường hợp các đôi vợ chồng Công giáo ly dị, không chỉ ở thành thị mà cả nơi những miền quê hẻo lánh, vốn còn đậm nét đạo nghĩa truyền thống. Tình trạng sống thử, buông thả tình dục, phá thai, xâm phạm nhân phẩm cùng các tệ nạn xã hội khác cũng gia tăng.

Xảy ra tình trạng đó, như chúng ta đã nói, vì quá đề cao chính mình, tự do cá nhân, lấy chính con người làm tiêu chuẩn cho mọi hành vi chứ không dựa trên một lương tâm có sự soi sáng của Thiên Chúa. Bên cạnh đó là cám dỗ chạy theo lối sống hưởng thụ, tìm kiếm thỏa mãn dục vọng nơi chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa tiêu thụ. Chính sự xa rời cội rễ là tiếng nói lương tâm, đồng thời điên cuồng chạy theo dục vọng đam mê khiến lương tâm con người trở nên chai lỳ, vô cảm, không còn ý thức về những việc làm sai trái trong những hành vi của chính mình hoặc cố tình biện minh cho hành động sai trái của mình. Và như vậy, con người ngày càng lún sâu trong sự tha hóa bản chất nơi chính mình. Đó là tình trạng bi thảm của con người trong vũng lầy của thời đại mà Đức Piô XII đã cảnh báo: “tội của thế kỷ là sự mất cảm thức về tội.”[11]

Không dựa vào tiếng nói của lương tâm phát xuất từ Thiên Chúa nhưng nại vào chính con người thì rồi cũng đổ bể. Đức Gioan Phaolô II cho thấy, con người là hữu thể bất toàn, không tự túc nên mọi ảo tưởng tự lập tách biệt khỏi Thiên Chúa đều dẫn con người đến sự tự hủy hoại ghê gớm ý nghĩa nhân sinh. Ngài khuyến cáo: “Quả thật chính việc loại bỏ Thiên Chúa, là nguồn gốc tất cả mọi sự dữ hiện nay, từ việc phá hủy sự sống ngay lúc khởi đầu cho đến tất cả những bất công xã hội, qua việc mất ý thức về luân lý.”[12]

Những hành vi nghịch với lương tâm không chỉ gây xúc phạm tha nhân nhưng còn khiến người trẻ rơi vào một cuộc sống bất an, vô nghĩa, bế tắc. Thật vậy, thế giới văn minh hiện nay đang được cho là phát triển và an toàn nhất trong các giai đoạn lịch sử loài người. Tuy nhiên đó cũng là một thế giới bất an và khủng hoảng của nhân loại trong việc định hình căn tính và ý nghĩa sống của con người. Theo báo cáo của tổ chức Y tế Thế giới WHO[13] ngày 09 tháng 9 năm 2019, cứ mỗi 40 giây trên thế giới lại có một người tự tử. Tình trạng chết vì tự tử còn cao hơn nhiều so với số người chết vì chiến tranh. Chúng ta cũng nghe nói nhiều trên các diễn đàn trong nước bàn về tình trạng và giải pháp cho các vấn đề xã hội tiêu cực ngày càng gia tăng nơi thế hệ trẻ. Tuy nhiên, người ta cũng chỉ bàn về vai trò cá nhân, gia đình, nhà trường và xã hội trong những khía cạnh tâm lý, thể lý, môi trường vốn cũng chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

3. Lương tâm, nền tảng chắc chắn của luật tự nhiên

Bị ảnh hưởng bởi lối sống đề cao chính mình, nhiều người trẻ Công giáo Việt Nam hôm nay do cố tình hoặc mất đi nhận thức đúng đắn đã đồng hóa tiếng nói của lý trí và cảm xúc thông qua các trải nghiệm nơi chính mình là tiếng nói của lương tâm. Có người còn cho rằng lương tâm là một điều gì đó có tính tương đối, tùy thuộc và thậm chí thay đổi theo thời gian, không gian. Tuy nhiên đó hoàn toàn là những ngộ nhận đầy sai lầm về bản chất của lương tâm. Thật vậy, Công đồng Vaticanô II đã khẳng định một cách chắc chắn và xác tín về lương tâm:

Nơi tận sâu thẳm của lương tâm, con người khám phá ra một lề luật không do chính mình đặt ra nhưng lại phải tuân theo, và tiếng nói của luật lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải sống yêu thương và thi hành điều thiện cũng như tránh xa điều ác. Trong tâm hồn con người, tiếng nói ấy luôn vọng lên đúng lúc: hãy làm điều này, hãy tránh điều kia. Thiên Chúa đã khắc ghi sẵn trong tâm hồn con người một lề luật, phẩm giá con người có được nhờ tuân giữ lề luật ấy và con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy[14].

Như vậy, điều mà nhiều người trẻ ngộ nhận là tiếng nói từ chính mình, phát xuất từ một cuộc đối thoại của con người với nội tâm chính mình, phải là cuộc đối thoại giữa chính mình với Thiên Chúa. Trong sự đối thoại đó, con người kín múc được ánh sáng, sự khôn ngoan của Thiên Chúa để tìm thấy những nguyên tắc hành động cho chính mình. Do vậy, kết nối, gắn bó với Thiên Chúa là điều kiện tiên quyết quan trọng để con người có thể nhận ra thánh ý của Thiên Chúa qua tiếng nói của lương tâm. Mặc dù con người có thể còn bị giới hạn bởi một lương tâm sai lầm bất khả thắng nhưng nó buộc phải luôn nỗ lực tìm kiếm và thi hành theo tiếng nói của lương tâm. Nếu không thi hành đúng với lệnh truyền của lương tâm thì lương tâm với tư cách là “nhân chứng bên trong con người” sẽ lên án tố cáo điều dữ đã gây ra, tuy vậy vẫn mở ngỏ mời gọi con người nhìn nhận lỗi lầm mình đã phạm và sự hoán cải triệt để quay về với sự thiện.[15]

Một số người trẻ Công giáo lựa chọn luân lý có tính cách tương đối, nhưng đối nghịch với lương tâm chân thật tìm cách biện minh hoặc xoa dịu lương tâm của chính mình, cho rằng đó là tiếng nói của lương tâm. Tuy nhiên Đức Gioan Phaolô II đã phản bác thái độ này khi khẳng định cách mạnh mẽ để tránh những ngộ nhận về lương tâm:

Lương tâm không phải là nguồn độc lập và độc quyền để quyết định điều nào là tốt điều nào là xấu: ngược lại, nơi cõi thâm sâu của lương tâm đã được ghi tạc một nguyên tắc  tuân phục đối với chuẩn mực khách quan, là chuẩn mực làm nền và tạo điều kiện cho các quyết định của lương tâm được phù hợp với các giới răn và với các lệnh cấm vốn là căn bản cho hành vi ứng xử nhân linh.[16]

Nhiều người trẻ Công giáo Việt Nam hôm nay chạy theo lối sống đề cao cái tôi cá nhân, lấy chính mình làm quy chiếu cho mọi hành động. Với họ, tiếng nói lương tâm là một sự cản trở và khiến họ không được tự do để có thể khám phá và xây dựng thành toàn cuộc đời họ. Họ nghĩ rằng thời đại bây giờ đã thay đổi, đã khác trước nên không thể cứ mãi sống cuộc sống như thế hệ trước mà họ nghĩ là cam chịu, là hy sinh, là kìm kẹp. Bây giờ là thời đại nhân văn, đề cao giá trị con người, họ phải tự do sống cho chính mình, đảm nhận cuộc đời mình và sống hết mình với cuộc đời đó. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ có quyền gạt bỏ, bất chấp tiếng nói của lương tâm phát xuất từ Thiên Chúa. Bởi như Đức Bênêdictô XVI cảnh cáo: “một nền nhân bản không có Thiên Chúa là nền nhân bản phi nhân.”[17] Thêm nữa, dù thời đại có biến đổi đến mức nào thì tiếng nói lương tâm vẫn nguyên giá trị, không thay đổi. Chính lương tâm luôn vang vọng trong tâm khảm ý thức con người để định hướng con người sống đúng phẩm giá của chính mình. Tiếng nói lương tâm đó không là tiếng nói khiến con người trở nên nô lệ, giam hãm khiến con người không phát huy được các giá trị của chính mình. Ngược lại, tiếng nói lương tâm là lời cảnh tỉnh giúp con người thoát ra khỏi mù quáng u mê bởi dục vọng để hoàn toàn được tự do tìm kiếm và thi hành điều thiện, hầu đạt được sự thành toàn sung mãn phẩm giá của một con người nơi sự thiện tuyệt đối là Thiên Chúa.

Tạm kết

Ngày càng nhiều người trẻ bế tắc trong cuộc sống hôm nay. Đó là lời chứng kết án của lương tâm đối với con người trong đời sống. Và điều đó cũng cho thấy một tâm thế khao khát tìm kiếm quay về với tiếng nói lương tâm, nhưng vì không biết đường lối nên đi đến những kết cục bế tắc, đau thương. Các lĩnh vực tâm lý, chữa trị tâm thần, thậm chí những phong trào tín ngưỡng mê tín dị đoan ngày càng sôi động để đáp ứng nhu cầu chữa trị cho căn tâm bệnh của thời đại. Tại sao những người trẻ Công giáo lại tìm đến một nhà tư vấn tâm lý, một bác sĩ tâm thần hay một thầy bói chứ không phải là linh mục, tu sĩ hay một người đồng đạo? Câu hỏi là lời chất vấn cho mỗi người Kitô hữu trong thế giới hôm nay, đặc biệt đối với những người có vai trò dẫn dắt đồng hành trong Giáo hội.

Tác giả Samuel Huntington trong tác phẩm Sự va chạm của các nền văn minh[18] cho rằng nhiều người Mỹ La Tinh đã rời đạo Công giáo để sang Tin Lành vì họ không còn cảm nhận được nhu cầu tâm linh và mong mỏi sâu xa của họ được đáp ứng trong một thế giới hiện đại quá nhiều thay đổi và thay đổi quá nhanh. Trong khi đó, đạo Tin lành dù đến sau nhưng mang một tâm thế an ủi, sẻ chia và thấu hiểu của những người đồng đạo nên đã dễ dàng được họ tiếp nhận hơn. Dù người trẻ hôm nay, đang tự đánh mất lương tâm của mình bằng cách buông mình trong những dục vọng bản thân, nhưng Giáo hội cũng không thể xem mình vô can, đứng ngoài sự tha hóa đó nơi người trẻ. Giáo hội, trước hết là những vị chủ chăn, những người có trách nhiệm và sau là mọi thành phần dân Chúa, vẫn luôn phải ý thức về trách nhiệm của mình như một người cha, người mẹ tìm cách để gần gũi, đồng hành và dẫn dắt người trẻ quay về ngôi nhà Giáo hội. Sự đồng hành dấn thân với người trẻ thời đại đã được Giáo hội khẳng định cách rõ nét nơi công đồng Vaticanô II, các vị Giáo hoàng tiếp sau đó, và giờ đây, như Đức Phanxicô tiếp tục thống thiết kêu gọi: “Tôi muốn có một Giáo hội bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Giáo hội bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám víu vào sự an toàn riêng của mình.”[19]




[1] X. Huyền Lê, “Thủ tướng Pakistan tố Tổng thống Pháp 'tấn công đạo Hồi,” truy cập ngày 27-04-2021, https://vnexpress.net/thu-tuong-pakistan-to-tong-thong-phap-tan-cong-dao-hoi-4182072.html.

[2] X. “Humanism” New Catholic Encyclopedia, Vol 07, Bt. Thomas Carson và tgk, (Washington D.C: Gale, 2003), p. 182.

[3] X. Ibid., p. 182

[4] X. “Humanism” New Catholic Encyclopedia, Vol 07, p. 197 Sđd, p. 197

[5] X. Ibid., p. 197

[6] X. “Conscience” New Catholic Encyclopedia, Vol 04, p. 140

[7] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ánh rạng ngời chân lý, 1993, số 88.

[8] X. Yuval Noah Harari, Lược sử tương lai, Dg. Dương Ngọc Trà (Hà Nội: Thế Giới, 2019), tr. 350.

[9] Ibid., tr. 283.

 

[10] Yuval Noah Harari, Lược sử tương lai, tr. 266.

[11] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Hòa giải và sám hối, (1984), số 18.

[12] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin tưởng và hy vọng, số 8.

[13] X. Duy Tiến, “WHO cảnh báo tình trạng tự tử đáng báo động trên toàn thế giới,” truy cập ngày 27-04-2021, http://cand.com.vn/The-gioi-24h/WHO-canh-bao-tinh-trang-tu-tu-dang-bao-dong-tren-toan-the-gioi-560895/.

 

[14] Vatican II, Hiến chế Vui mừng và hy vọng, số 16.

[15] X. Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Ánh rạng ngời chân lý, số 61.

[16] Sđd, số 60.

[17] Đức Bênêdictô XVI, Thông điệp Tình yêu trong chân lý,  2009, số 78.

[18] X. Samuel Huntington, Sự va chạm của các nền văn minh. Dg. Nguyễn Phương Sửu và tgk (Hà Nội: Lao Động, 2005), tr. 120

[19] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, số 49

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn