Duy chỉ Thiên
Chúa là chủ tể sự sống
từ khi nó bắt
đầu cho đến lúc nó kết thúc, nên không ai
trong bất cứ
trường hợp nào, có thể đòi cho
mình
quyền trực
tiếp hủy diệt một con người vô tội.[1]
Phêrô
Nguyễn Văn Diệu, MSA.
Sự sống là một hồng ân cao quý nhất mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Qua trình thuật sáng tạo, Thiên Chúa đã lấy bụi từ mặt đất và làm ra con người; Ngài đã thổi sinh khí để con người có được sự sống, để từ đây sự sống của con người được nối kết với sự sống của Thiên Chúa, được tồn tại và phát triển. Quả thật, sự sống của con người rất quan trọng đến nỗi nó được xếp trên cả quyền sống tự do và quyền được sống hạnh phúc mà mỗi người có được: “Mọi người đều có quyền sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.[2]
Tuy nhiên đối diện với
đời sống thực tế của con người đang diễn ra, thì sự sống ấy đang bị đe dọa một
cách nghiêm trọng qua việc tàn sát mạng sống con người trong các cuộc chiến
tranh, khủng bố, phá thai, làm chết êm dịu, tự sát. Đứng trước những hoàn cảnh
cấp bách ấy, nhân loại phải nhìn lại cách “ứng xử” của mình đối với sự sống của
con người khác một cách nghiêm túc; vì ở dưới bầu trời này tất cả mọi người đều
có quyền “được sống” và “sống bình đẳng với nhau”. Không ai có thể cho mình
quyền định đoạt sự sống của chính mình cũng như của người khác một cách bất
công chỉ vì những lợi lộc về kinh tế, về tôn giáo, về chính trị, vì mạng sống
con người hết sức cao quý. Sự sống ấy được Thần Trí của Thiên Chúa sáng tạo từ
đời đời trong thánh ý quan phòng của Ngài, Ngài muốn con người tự do đón nhận
và gìn giữ sự sống của chính mình cũng như của người khác như một bảo đảm cho
sự sống Nước Trời.
Chàng thanh niên giàu có
đến hỏi Đức Giêsu về những việc phải làm để đạt được sự sống đời đời, và khi
được hỏi những điều răn nào, Ngài đã liệt kê một số điều răn, nhưng bắt đầu
bằng điều răn: “Ngươi không được giết người” (Mt 19,18). Đức Giêsu đã cho thấy
tầm quan trọng của điều răn này đối với sự sống đời đời, vì nó là một điều kiện
mà người ta không thể chối từ để có thể bước vào cõi sống. Lời dạy của Thầy Chí
Thánh cũng được thánh Gioan tông đồ nhắc lại: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát
nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1Ga 3,15).
I. THỰC TRẠNG
SỰ SỐNG
CON NGƯỜI TRONG THẾ GIỚI NGÀY NAY
1. Sự sống
con người đang bị
xâm phạm
Theo
sự nhận định của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong thông điệp Tin Mừng về Sự Sống, những tội ác xâm
phạm đến sự sống con người “không những chưa kết thúc mà còn đang lan rộng mãi
trên thế giới và với đà tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, ngày càng làm phát
sinh thêm nhiều hình thức mới xâm phạm phẩm giá và sự sống con người.”[3]
Thực trạng đau lòng đó đã hình thành những tội phạm chống lại sự sống với một
bộ mặt chưa từng có. Nhiều người tự biện minh cho một số tội ác họ phạm chống
lại sự sống, nhân danh những quyền tự do cá nhân, đến độ cho rằng không những
họ được miễn tố, mà còn phải được nhà nước cho phép, để thực hiện những việc ấy
trong sự tự do tuyệt đối và, hơn thế nữa, phải được các dịch vụ y tế can thiệp
miễn phí.
Tất
cả những điều ấy gây ra một sự thay đổi sâu xa trong cách nhìn sự sống và các
quan hệ giữa người với người. Nhiều quốc gia chẳng những không ngăn chặn, mà
còn cho là hợp pháp. Sự kiện ấy là nguyên nhân phát sinh sự sụp đổ về luân lý.
Ngay cả y học vốn có sứ mệnh bảo vệ sự sống con người, thì cũng sẵn sàng tiếp
tay trong việc thực hiện các hành vi chống con người. Làm như vậy, y học đã tự
bóp méo khuôn mặt của mình, mâu thuẫn với chính mình và làm tổn thương phẩm giá
những người thực hiện các hành vi ấy.
Quả thế, việc phá thai
đang đâm rễ sâu trong tâm lý hưởng thụ khoái lạc và sự vô trách nhiệm trong vấn
đề tính dục. Những hành động này là hình bóng của sự ích kỷ về tự do, chỉ thấy
trong sự sinh đẻ một trở ngại cho sự thoải mái của mình. Như thế, sự sống đã có
thể nảy sinh từ quan hệ tính dục lại trở thành kẻ thù cần phải tuyệt đối tránh
xa; và phá thai trở nên giải pháp duy nhất có thể và là phương cách xử lý trong
trường hợp bị “vỡ kế hoạch”. Sự việc càng trở nên nghiêm trọng hơn khi lương
tâm con người không còn xem hành động phá thai là một tội ác nữa, mà chỉ là một
sự tự vệ đối với quyền lợi chính đáng của mình, đến độ họ đòi hỏi luật pháp
phải công nhận hay hợp thức hóa quyền tự do phá thai, đòi nhà nước phải trả
tiền cho các chi phí phá thai. Ác tính của các hành động xâm phạm sự sống con
người càng trở nên đáng kinh tởm hơn nữa, khi mà phần lớn những xâm phạm này
được thực hiện ngay giữa lòng gia đình và do tác động của gia đình, nơi được
coi như “cung thánh của sự sống”.
Chủ nghĩa hưởng thụ ích
kỷ ấy đã tạo nên một nền văn hóa trái nghịch với tình liên đới, và trong nhiều
trường hợp đã tự biểu lộ như là một nền văn hóa của sự chết, hay một cuộc chiến
của những người quyền lực chống lại những kẻ yếu đuối, trong đó sự sống đáng lý
cần được tiếp đón, yêu thương và chăm sóc, thì bị xem là vô tích sự, hoặc bị
coi như một gánh nặng không thể kham nổi, và do đó đã bị khước từ bằng nhiều cách. Tuy nhiên, nếu nhìn
một cách sâu xa hơn, chúng ta thấy những hình thức xâm phạm sự sống con người
phát xuất từ nhân loại ngày nay đánh mất về ý thức Thiên Chúa. Không tin vào sự
hiện hữu của Thiên Chúa và mầu nhiệm sáng tạo, con người sẽ không coi sự sống
là một hồng ân Chúa ban, để từ đó con người biết tôn trọng sự sống của mình và
người khác. Vì thế, đứng trước sự sống sắp được sinh ra và sự sống sắp sửa chết
đi, con người không còn khả năng nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời mình,
họ đã bất chấp tiếng lương tâm khi dùng khoa học để kiểm soát, khống chế sự
sinh và sự tử.
Khi đánh mất ý thức về
Thiên Chúa, người ta lao tới chỗ đánh mất cả ý thức về con người, về phẩm giá
và sự sống con người; điều này dẫn đến sự vi phạm có hệ thống luật luân lý đặc
biệt trong vấn đề quan trọng là quý trọng sự sống và tôn trọng phẩm giá con
người. Vì phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, nên người
ta không thấy những hành động ấy của mình là tội lỗi, bởi vì con người có thể
nhìn nhận ra tội của mình và hiểu được sự nặng nề của tội khi họ ở trước nhan
Thiên Chúa (x. 2Sm 11,12; Tv 50,5-6).
Đứng trước mối hiểm họa
của những tội ác xúc phạm đến sự sống và phẩm giá con người như thế, Giáo Hội
không những không ngừng lên tiếng bảo vệ sự thánh thiêng và bất khả xâm phạm
của sự sống con người, bằng cách tố cáo các tội ác ấy, mà còn tìm cách đẩy lùi
chúng bằng điều mà Giáo Hội gọi là rao giảng Tin Mừng về sự sống cho nền văn
minh hiện nay đang bị đánh giá là một nền văn hóa của sự chết.[4]
2. Con người
phạm tội và đau khổ
Con người phạm tội
“Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi cứ làm”
(Rm 7,15). Tại sao ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm sâu sắc sự giằng co xâu xé
trong nội tâm của mình như điều mà thánh Phaolô vừa diễn tả? Kitô giáo trả lời:
chính do tội nguyên tổ mà sự ác đã xâm nhập thế giới và làm cho con người dễ
nghiêng chiều về sự tội. Qua trình thuật về sa ngã, chúng ta không thể xác định chi
tiết tội nguyên thủy là gì, mà cũng không cần thiết, chỉ biết con người phạm
tội bằng cách phản nghịch ý muốn của Thiên Chúa, khi con người không chấp
nhận thân phận thụ tạo của mình. Con người muốn trở thành Thiên Chúa bằng sức
riêng mình. Con người theo sở thích riêng của mình, lấy mình làm mẫu mực
tối cao, làm thước đo chân lý. Tội không nằm trong vật chất, không nằm trong
nguồn gốc vũ trụ, song nằm ngay trong ý thức nội tâm của con người.
Có thể nói khi Thiên
Chúa tạo dựng con người có tự do và trí thông minh là Thiên Chúa đã liều mình
chấp nhận sự tôn thờ hay phản bội của con người, và do đó, nguồn gốc của sự dữ
ở ngay trong ý thức tự do trách nhiệm của con người, chứ không nằm trong nguồn
gốc vũ trụ. Thánh Kinh cho thấy nguồn gốc của tội là do ma quỷ, mà ma quỷ nguyên thủy
cũng là thụ tạo của Thiên Chúa, không ngang hàng với Thiên Chúa, bất trung, chống đối Thiên Chúa và
lôi kéo con người theo mình. Vì thế, tội lỗi cũng là do con người nghe theo lời
xúi giục của ma quỷ. Tóm lại, con người phạm tội, muốn tự mình định đoạt về
điều lành và điều dữ mà không cần lệ thuộc Thiên Chúa. Nói cách khác, bản chất
của nguyên tội là muốn sống mà bất cần đến Chúa.[5]
Con người đau khổ
“Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu
cho anh em dõi bước theo Người” (1Pr 2, 21). Đứa bé vừa thoát thai khỏi lòng mẹ đã cất tiếng
khóc chào đời, phải chăng như dấu hiệu nói lên “đời là bể khổ”? Dù muốn hay không, sự
đánh dấu đau khổ cũng đã gắn liền với kiếp nhân sinh ngay từ giây phút đầu đời.
Đau khổ kiếp người được ví như cái gai trong thịt. Ta không thấy đau vì ta đã
tự rào kín cõi lòng, vì ta không lưu tâm đến sự đau khổ của người khác, đến
tiếng rên siết trong các bệnh xá, các trung tâm trẻ mồ côi, trẻ khuyết tật, bại
liệt, trong các trại giam, nơi nhà mở, các trung tâm cai nghiện, những xứ sở
lạc hậu đầy dẫy những cảnh đói khổ và bất công…
Trước khi có cái nhìn bao quát, ta cần bàn đến đau khổ trên nền
tảng nhân bản và tự nhiên. Ta không có ý phân biệt con người làm hai thành phần
theo kiểu nhị nguyên để xem xét. Con người là duy nhất xác hồn, là nhân linh,
không thể tách rời, nhưng trước tiên ta muốn nhìn từ một góc độ trên nhiều bình
diện để tiến tới cái nhìn toàn diện. Đau khổ: con đường thành nhân. Sống là
khổ, trở thành là khổ. Một hòn đá chỉ đứng trơ trơ, không thể thêm thắt gì cho
bản thân. Nhưng con người thì khác, trải qua quá trình tiến hoá, từ thời tiền
sử đến nay, con người không ngừng tự thêm thắt để phong phú hóa chính mình,
không ngừng vượt qua gian nan trắc trở, để phát triển và kiện toàn.
Đối với chúng
ta, sống là trở thành, trở thành là hủy diệt cái đã hình thành để sáng tạo
cái sắp hình thành. Điều đó đúng cho cả nhân loại : phong thái cổ điển
đang chết dưới mắt chúng ta. Điều đó đúng cho từng cá nhân : trưởng thành là
lúc tuổi thơ đã hết. Con người chỉ là con vật không hoàn hảo, còn dang dở, họ
phải sống và tiệm tiến từng bước giữa thế giới còn thô lậu, có khi thù nghịch
với họ, trong một thế giới hữu thân hữu khổ. Sự thay đổi xảy ra không ngừng,
cũng chỉ là sự hủy bỏ cái này, để thay lại bằng cái khác.
Nhờ kiên trì vượt khổ
ta mới có thể phát huy sâu rộng mọi khả năng đang tiềm ẩn trong con người. Có
từng trải trong gian khổ, người ta mới vững vàng, bản lãnh, lão luyện, tự tin,
có kinh nghiệm và năng lực dấn bước tiền phong, dẫn lối cho lớp người đi sau.
Do đó, đau khổ không thể thiếu trong tiến trình thành nhân. Tuy nhiên, đừng vội
coi mọi trắc trở đều là đau khổ, mọi thử thách đều là khổ đau, để rồi than vãn,
ngậm đắng nuốt cay, chán nản buông xuôi, đánh mất khả năng phấn đấu và làm chủ
đời mình.[6]
II. TẦM QUAN TRỌNG
CỦA VIỆC
TÔN TRỌNG SỰ SỐNG CON NGƯỜI
1. Sự sống
là một hồng ân của Thiên Chúa
Trong Thánh Kinh, sự
sống con người như chóp đỉnh của công trình tạo dựng ( x. St 1,26). Con
người nhận
được sự chúc lành của Thiên Chúa và trổi vượt trên mọi hình thức khác của sự
sống (x. St 1,28). Đối với dân Israel, sự sống là quà tặng lớn nhất mà Thiên
Chúa ban cho con người ở trần gian. Quà tặng ấy không chỉ giới hạn nơi sự tồn
tại thể lý nhưng còn trải rộng đến mọi phương diện của cuộc sống. Được hưởng
một cuộc sống lâu dài trên cõi đời này: đó là một lý tưởng mà mọi người Israel
đều mong ước, như các tổ phụ đã từ giã cõi đời sau một tuổi già hạnh phúc, cao
niên và năm tháng đầy tràn (x. St 25,8; 35,29; G 42,17).
Trong
cuộc sống trường thọ ấy, con người phải dùng sự sống của mình để tôn vinh Thiên
Chúa và phải sống cho Chúa: “Được sống
lâu tôi sẽ làm vui lòng Người” (Tv 91,16; Xh 20,12; Cn 10,27; Ep 6,2t). “Không ai trong chúng ta sống cho chính mình,
nếu chúng ta sống, chúng ta sống cho Chúa”
(Rm 14,7t).
Vì
thế, không được coi sự sống là một giá trị tuyệt đối, tối thượng, nhưng phải
đặt nó trong sự phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Người Kitô hữu còn phải hy sinh
mạng sống mình vì Đức Kitô và vì anh em, như một biểu lộ tối thượng của tình
yêu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình
yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13). Sở dĩ như thế là vì sự sống,
trần gian chỉ là một hình bóng, một sự chuẩn bị cho sự sống đích thực và dồi
dào (x. Ga 10,10), tức sự sống vĩnh cửu mà Đức Kitô mang lại cho con người, vì
đó chính là cứu cánh tối hậu của con người. Sự sống vĩnh cửu ấy đã bắt đầu ngay
từ bây giờ, tuy còn ẩn giấu (x. Rm 6,11; G 3,3).
2. Sự sống
là một điều thánh thiêng
Sự sống là một điều
thánh thiêng bởi vì nó xuất phát từ Thiên Chúa. Tính thánh thiêng của sự sống
là điều đầu tiên dẫn vào suy tư về sự hiện hữu của con người. Trong Thánh Kinh,
sự sống có một ý nghĩa siêu việt: sự sống trước hết là chính Thiên Chúa, vì
Người là Thiên Chúa hằng sống (x. Gs 3,10; 1Sm 19,6; 1V 18,10.15; Tv 42,3; Đn
6,21). Tiếp đến, sự sống chính là phẩm tính riêng biệt của Thiên Chúa (x Ga
5,26; 14,6) và Người thông truyền nó cho con người (x. St 2,7; Đnl 6,24; Ga
3,35; 5,26). Thiên Chúa “không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống” (Mc 12,27), Người tạo dựng
con người để họ sống (x. Kn 1,13-14; 2,23). Khác với các thụ tạo khác, con
người tham dự vào Thiên Chúa một cách đặc biệt, vì họ mang trong mình một dấu
ấn sáng ngời của sự sống mà Thiên Chúa ban cho họ: con người mang hình ảnh của
Thiên Chúa, được tạo dựng để trở nên giống Đấng Tạo Hóa. Vì thế, sự sống mà họ
mang trong mình không thể hiểu được trong toàn bộ của nó nếu không qui chiếu
cách chặt chẽ vào Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự sống (x. Cv 17,25).
Như thế, “sự sống của con người là thánh thiêng, bởi vì ngay từ
nguồn gốc, nó bao hàm hành động sáng tạo của Thiên Chúa và mãi mãi nằm trong
một mối quan hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, cứu cánh duy nhất của nó”.[7] Bản văn
Thánh Kinh đã cẩn thận nhấn mạnh rằng tính cách thánh thiêng của sự sống con
người có cơ sở nơi Thiên Chúa và nơi hành động sáng tạo của Người: “Vì con người được tạo nên theo hình ảnh của
Thiên Chúa” (St 9,6). Sự sống là một thực tại thánh thiêng, do đó nó cũng
mang tính bất khả xâm phạm. Giết chết con người là hình ảnh của Thiên Chúa tức
là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đứng ra bảo vệ sự sống của
con người và nghiêm cấm việc sát nhân (x. St 9,5; Xh 20,14). Vì thế, tính bất
khả xâm phạm đến sự sống được Thiên Chúa long trọng công bố trong mười điều
răn, ràng buộc tất cả mọi người (x. Xh 20,13).
Phải
nhìn nhận rằng trong Cựu Ước, việc tôn trọng sự sống con người, dù được khẳng
định rõ ràng và được quy định thành một điều luật, nhưng vẫn chưa đạt tới nét
tinh vi như trong Tân Ước; như ta thấy trong một số bộ luật hình sự thời ấy,
trong đó đã qui định những hình phạt nặng nề trên thân thể, có khi còn có án tử
hình. Quả thế, trong Tân Ước, sự sống của con người được đặt trong tương quan
với sự sống của Đức Kitô là chủ tế của sự sống, là Đấng đã chiến thắng sự chết
và là đường dẫn đến sự sống đích thực; chính trong Người mà chúng ta đạt đến sự
sống dồi dào. Vì thế, trong giáo huấn Tin Mừng được trình bày trong bài giảng
trên núi, Đức Kitô đã hoàn thiện luật cũ không những bằng lời kêu gọi khẩn
thiết phải tôn trọng tính bất khả xâm phạm của sự sống và sự toàn vẹn nơi con
người, mà Người còn đòi buộc mỗi người phải có trách nhiệm đối với tha nhân như
đối với chính mình. Thậm chí Người còn đòi hỏi các môn đệ của Người phải đạt
đến một sự công chính cao hơn mức độ công chính của các luật sĩ và biệt phái cả
trong bổn phận đối với sự sống: “Các
ngươi đã nghe bảo người xưa rằng: chớ giết người, kẻ giết người sẽ bị can án.
Còn Ta, Ta bảo các ngươi, phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ bị can án”
(Mt 5,21-22).
Tính bất khả
xâm phạm tuyệt đối của mạng sống người vô tội là một sự thật luân lý được chỉ
dạy cách rành mạch trong Thánh Kinh, được luôn luôn duy trì trong Giáo Hội và
được huấn quyền nhất trí đề ra.[8]
3. Chỉ có
Thiên Chúa mới là chủ tể của sự sống
Tính thánh thiêng và
bất khả xâm phạm của con người còn xuất phát từ việc chỉ Thiên Chúa mới là chủ
tể duy nhất của sự sống và sự sống con người phản ánh tính thánh thiêng và bất
khả xâm phạm của chính Thiên Chúa. Sự sống và sự chết của con người ở trong bàn
tay Thiên Chúa, ở trong quyền năng của Người. Ông Gióp đã kêu lên: “Chính Chúa nắm trong tay hồn của mọi sinh linh
và hơi thở của mọi xác thịt người phàm” (G 12,10). “Giavê làm cho chết và làm cho sống, Người
đày xuống âm phủ rồi lại đưa lên” (1Sm 2,6). Chỉ có Người mới có quyền
phán: “Chính làm cho chết và làm cho sống”
(Đnl 32,39).
Giáo
hội khẳng định: “Duy chỉ Thiên Chúa là chủ tể sự sống từ khi nó bắt đầu cho đến lúc
nó kết thúc, nên không ai trong bất cứ trường hợp nào có thể đòi cho mình quyền
trực tiếp hủy diệt một con người vô tội”.[9]
Vì vậy Thiên Chúa sẽ tỏ
ra là Đấng Thẩm Phán rất nghiêm khắc đối với mọi vi phạm đến sự sống của con
người. Người là Đấng bênh vực người vô tội (St 4,9-15, Is 41,14; 50,34; Tv
19/18, 15). Chính Thiên Chúa đã nhắc lại cho Noê sau hồng thủy: “Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu, Ta sẽ
đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình” St 9,5). Tuy nhiên,
bởi vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên họ cũng được
Người mời gọi và cho tham dự quyền chủ tể của Người đối với sự sống bằng cách
yêu mến, tôn trọng, bảo vệ và thăng tiến sự sống trong toàn thể vũ trụ mà Thiên
Chúa đã giao phó cho con người quản lý: “Thiên
Chúa đã chúc lành cho họ và bảo họ rằng: hãy sinh sôi nảy nở đầy dẫy trên mặt
đất và bá chủ nó. Hãy cai trị trên cá biển chim trời và mọi loài sinh vật bò
trên đất” (St 1,28). Con người được Thiên Chúa trao quyền chủ tể không
những trên vạn vật, nhưng trước hết trên chính mình, trên sự sống được ban cho
mình. Nhưng quyền “chủ tể của con người không mang tính tuyệt đối, mà chỉ là
một thừa tác vụ”,[10] vì nó phản ánh và thể
hiện quyền chủ tể duy nhất và vô cùng của Thiên Chúa. Do đó con người phải thực
thi quyền chủ tể ấy đối với sự sống bằng tất cả sự khôn ngoan và tình yêu, và
như thế họ tham dự vào khôn ngoan và tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Điều ấy
được thực hiện qua việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa đối với sự sống.
“Không được giết người”
rõ ràng là một mệnh lệnh, nó biểu thị giới hạn cuối cùng con người không bao
giờ được phép vượt qua. Con người phải tuyệt đối tôn trọng sự sống, thăng tiến
sự sống và tiến tới trên con đường của tình yêu tự hiến tiếp nhận và phục vụ sự
sống. Trong mọi ân huệ Chúa ban, sự sống là quý nhất, vì nó là căn nguyên và
điều kiện của mọi điều thiện hảo khác:
Con người được
gọi tới sự sống sung mãn vượt xa chiều kích của cuộc sinh tồn trên trái đất
này, bởi vì đó là sự tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa. Quả vậy, sự sống
trong thời gian là một điều kiện căn bản, là thời điểm khởi đầu và là một bộ
phận cấu tạo cho sự phát triển toàn vẹn và thống nhất của cuộc sống con người.[11]
Vì thế, mỗi người có
bổn phận bảo vệ sinh mạng, sức khỏe và sự toàn vẹn thân thể của mình như của kẻ
khác. Về bổ phận bảo vệ mạng sống:
Đó là một đòi buộc nặng, nếu không tuân giữ thì mắc tội nặng, về việc
bảo vệ sức khỏe và sự toàn vẹn thân thể thì có thể có chất liệu và trường hợp
giảm khinh. Mỗi người phải buộc quan tâm đến những gì cần thiết để bảo vệ sinh
mạng và sức khỏe: của ăn, áo mặc, nhà ở, thuốc men.[12]
Thiên Chúa tạo dựng con
người để họ được sống: Thiên Chúa không tạo nên sự chết, cũng chẳng vui vì các
sinh vật được diệt vong; Người dựng nên muôn vật, cốt cho chúng được tồn tại.
Thật vậy, Thiên Chúa tạo dựng con người để nó sống mãi, Người dựng con người
theo hình ảnh Người. Chính bởi ác qủy ghen tương mà sự chết đã xâm nhập thế
gian; những ai thuộc về nó đều kinh nghiệm điều đó (Kn 1,13-14, 2,23-24).
III. ÁP DỤNG
TÍNH LUÂN
LÝ SỰ SỐNG CHO CON NGƯỜI NGÀY NAY
Sự sống là điều thánh
thiêng, là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người để họ gìn giữ và phát huy. Do
đó bất cử hành động nào của con người khiến cho sự sống của chính mình hay của tha nhân bị giảm suy hay hủy diệt đều
là tội ác.
1. Tội sát
nhân nói chung
Ngay từ những trang đầu
của Thánh Kinh, việc Cain giết em mình là Abel đã bị Thiên Chúa lên án: “Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu
lên Ta. Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu
em ngươi, do tay ngươi đổ ra” (St 4, 10-11). Đối với người Israel, điều răn
thứ năm chỉ có thể được tuân giữ cách nghiêm túc khi con người ý thức rằng
Thiên Chúa của giao ước luôn lắng nghe và nhậm lời những người yếu ớt, những kẻ
bị áp bức và bị bách hại. Điều răn thứ năm chủ yếu nhắm đến việc cấm giết người
vô tội, vì đó là một tội bất công. Thánh Kinh xác định luật cấm của điều răn
thứ năm: “Ngươi không được giết kẻ vô tội
và người công chính” Xh 23,7). Có ý giết kẻ vô tội là một trọng tội phạm
đến phẩm giá con người, phạm đến luật vàng của Đức Kitô và sự thánh thiện của
Đấng Tạo Hóa. Luật “cấm giết người có giá trị phổ quát, buộc mọi người và mỗi
người, mọi lúc và mọi nơi.”[13]
Giết người trực tiếp
Giết
người trực tiếp là khi hành vi của ta nhắm đến cái chết của một người như mục
tiêu hay như phương tiện để đạt đến một mục tiêu khác. Ví dụ: bắn một người để
giết chết họ và bắn một người để họ khỏi khai báo một tội nào đó của mình, cả
hai trường hợp đều là giết người trực tiếp. Không những không được có hành vi
tấn công nhằm trực tiếp giết chết người vô tội, mà còn không được để người vô
tội phải chết khi ta có thể và có bổn phận phải nuôi dưỡng và cứu giúp người
ấy. Chẳng hạn khi một người mẹ từ chối không cho con bú, không cho con uống
thuốc, khiến nó phải chết, thì việc đó cũng mang ác tính của hành động giết
người trực tiếp. Giết người trực tiếp và có chủ ý là một tội trọng. Kẻ sát nhân
và đồng lõa phạm cùng một tội kêu thấu tới trời đòi báo thù (x. St 4,10). Tội giết
trẻ thơ (x. GS 51), giết anh em, giết cha mẹ, giết người phối ngẫu, là những
tội ác đặc biệt nghiêm trọng, vì các dây liên kết tự nhiên bị phá hủy.
Giáo lý HTCG số 2268 dạy rằng: “Sự quan tâm tới
nòi giống hoặc tới sự chăm sóc sức khỏe cộng đồng không thể biện minh cho bất
cử việc giết người nào, dù do công quyền ra lệnh”. Tôn
trọng sự sống của người khác là một giới luật bất thành văn được ghi khắc trong
lương tâm mỗi người và mỗi người có thể biết được nhờ ánh sáng của lý trí (Rm
2,14-15), đồng thời
cũng là một luật thành văn được Thiên Chúa ban truyền và
được ghi chép trong Thánh Kinh, được truyền thống
Giáo Hội lưu truyền và được huấn quyền thông thường và phổ quát của Giáo Hội
minh thị giảng dạy.[14]
Theo Giáo huấn của Thánh Kinh và của Giáo Hội, trực tiếp và cố ý giết một người
vô tội luôn luôn là một điều vô luân nghiêm trọng, luôn luôn là một điều xấu tự
bản chất về phương diện luân lý và do đó không bao giờ được phép làm như mục
đích hay như phương tiện để đạt đến mục đích tốt. Vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II dạy rằng: “Giết người là điều không bao giờ chấp nhận được về phương
diện luân lý.”[15]
Giết người là một sự
bất tuân phục lề luật luân lý, và hơn nữa còn là sự bất tuân phục chính Thiên
Chúa là tác giả và là chủ tể của sự sống, là xúc phạm đến chính hình ảnh của
Thiên Chúa, vì thế “ai đổ máu con người,
thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình
ảnh Thiên Chúa” (St 9,6). Ngoài ra, đó cũng là tội nặng nghịch với các nhân
đức cơ bản là công bằng và bác ái, vì phát xuất từ lòng ghen ghét, hận thù,
tham lam. Sát nhân là tội nghịch với đức công bằng vì xâm phạm đến quyền căn
bản nhất của con người là quyền được sống; khi cướp đi sự sống của một người,
người ta không những lấy đi những gì người ấy có trên trần gian, mà còn lấy mất
của người ấy khả năng lớn lên trong đức ái. Sát nhân là tội nghịch với đức bác
ái bởi vì mọi người là con một Cha trên trời, là anh em với nhau trong tình
huynh đệ phổ quát.
Vì
thế, không gì và không ai có thể cho phép giết người vô tội (x. Xh 23,7; Đnl
32, 39). Không ai được đòi hỏi cho mình hoặc cho người thay mặt mình quyền giết
người vô tội. Không một uy quyền nào của con người có thể áp đặt điều đó một
cách chính đáng. Thậm chí, không ai có quyền đồng ý hoặc cho phép làm việc đó.[16]
Cuối cùng, không ai có quyền giết người vô tội bị tàn tật, bệnh hoạn về tâm lý,
thể lý, cho dù họ có trở nên gánh nặng cho quốc gia và xã hội. Không được giết
con tin, vì họ vô tội. Sở dĩ như thế là vì mọi người vô tội đều có quyền tuyệt
đối bình đẳng, nhất là trong những gì liên quan đến sự sống:
Không có đặc quyền hay ngoại lệ nào cho bất cứ ai, cho dù là chúa tể cả
thế giới hay người cuối cùng trong những kẻ khốn cùng trên mặt đất, thì vẫn
chẳng có gì khác biệt cả trước những đòi hỏi về mặt luân lý, tất cả chúng ta
tuyệt đối bình đẳng.[17]
Giết người gián tiếp
Giết người gián tiếp là
khi ta hành động nhắm đến một điều khác, nhưng hành động ấy lại đi kèm hậu quả
là khiến cho người nào đó phải chết. “Tôn trọng sự sống của người khác cũng cấm
những hành động cố ý gây chết người cách gián tiếp. Nếu không có lý do nghiêm
trọng, luật luân lý cấm không được phép đặt một người vào chỗ nguy tử, cũng như
không được phép từ chối giúp đỡ một người đang lâm nguy”.[18] Như
thế, giết người vô tội một cách gián tiếp không phải lúc nào cũng là tội sát
nhân, nhưng có những trường hợp người ta được phép làm như vậy để bảo vệ một
giá trị cao hơn, nhất là sự an sinh chung. Dĩ nhiên, một hành vi càng chắc chắn
đưa đến cái chết của người vô tội thì lý do để biện minh cho hành vi ấy càng
phải nghiêm túc. Ví dụ trường hợp tài xế lái xe khách thấy thắng xe bị đứt,
chiếc xe đang lao xuống dốc, hơn nữa một bên là vực thẳm và một bên là sườn núi
và nếu cứ tiếp tục chạy như vậy thì tất cả những người trong xe sẽ chết hết nếu
rơi xuống vực thẳm; vì vậy trong trường hợp này người tài xế có thể lái xe tông
vào sườn núi, dù có thể gây tai nạn hay tử vong cho một số người trên xe, nếu
không có cách nào khác. Như vậy, chỉ được phép hy sinh gián tiếp một người vô
tội để cứu các sinh mạng khác hay các giá trị khác, khi các sinh mạng và các
giá trị ấy quan trọng hơn hay ít ra quan trọng bằng những sinh mạng hay giá trị
bị hy sinh, trong trường hợp họ không còn tìm được cách nào khác tốt hơn.
Ngoài ra, theo giáo
huấn trên đây của Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo, từ chối giúp một người
đang lâm nguy cũng được kể là giết người cách gián tiếp. Thầy thượng tế và thầy
Lêvi trong dụ ngôn “Người Samari nhân hậu” đã bị Chúa Giê-su kết án, vì đã từ
chối cứu giúp người bị nạn dở sống dở chết mà họ gặp thấy trên đường đi (x. Lc
10,25-37). Tội này đang lặp đi lặp lại mỗi ngày trên trái đất khi những nước
giàu không có hành động cứu giúp những người đang chết đói tại các nước nghèo;
khi những người có của cải dư thừa chỉ biết tiêu xài phung phí và dửng dưng đối
với những người lân cận đang giãy chết vì bệnh tật nghèo đói; hoặc khi bác sĩ
từ chối cấp cứu bệnh nhân chỉ vì họ không có tiền, hoặc nạn chặt cây phá rừng
gây lũ lụt, sạt lở đất làm chết người khác, v.v… đó cũng là những hành
vi giết người một cách gián tiếp.
2. Tội phá
thai
Nếu
điều răn cấm giết người
có giá trị tuyệt đối khi nó liên quan đến người vô tội, thì điều này lại càng
tuyệt đối hơn nữa khi người vô tội ấy lại là những thai nhi yếu ớt vốn chỉ tìm thấy trong tính cách tuyệt đối của lề
luật Thiên Chúa một sự bảo vệ triệt để trước sự độc đoán và lạm quyền của kẻ
khác. Ngày nay, ý thức về tính nghiêm trọng của việc phá thai đang ngày càng lu
mờ đần trong tâm thức và trong lương tâm của nhiều người. Thêm vào đó luật pháp
của nhiều nước còn cho phép hay hợp pháp hóa việc phá thai và coi đó như một
quyền công dân. Đó là một dấu hiệu đáng lo ngại về một cơn khủng hoảng trầm
trọng trong lãnh vực luân lý khiến người ta không còn có khả năng phân biệt sự
thiện và sự ác.
Bối
cảnh hiện nay còn trở nên đen tối và vô luân hơn nữa khi người ta càng ngày
càng nhân danh quyền lợi của mình để tiến hành nhiều hình thức phá thai trên quy mô lớn. Từ xưa nhân loại tội lỗi đã biết đến tội giết trẻ
con, kể cả những đứa con do mình sinh ra, để hiến tế quỉ thần hay vì một lý do
nào đó. Đó là một tội ác hết sức man rợ. Ngày nay, nhân loại tự hào là văn
minh, nhưng vẫn còn man rợ không kém khi tội phá thai ngày càng trở thành phổ biến, thậm
chỉ nhiều nơi còn được luật pháp cho phép. Vì thế có thể coi phá thai là tội ác
đặc trưng biểu lộ sự suy đồi của thế giới hiện nay.
Phá thai là gì?
Phá thai là tìm cách
trục xuất phôi hoặc thai nhi còn non ra khỏi lòng mẹ, trước khi nó có khả năng
sống sót ngoài tử cung người mẹ, tức là trước 28 tuần kể từ lúc thụ thai, và vì
thế nó phải chết; hoặc bằng cách giết chết bào thai trước khi lấy ra khỏi bụng
mẹ. Nếu vì tự nhiên hay rủi ro mà thai bị chết và bị trục xuất ra ngoài ý muốn
của người mẹ thì gọi là sẩy thai. Gọi là phá thai trực tiếp khi ta nhắm đến
việc giết chết bào thai như mục tiêu của hành vi hay như phương tiện để đạt đến
một mục tiêu nào đó, chẳng hạn như phá thai vì không muốn đứa con ấy ra đời
hoặc vì để cứu vãn danh dự của người mẹ. Gọi là phá thai gián tiếp khi cái chết
của bào thai không được nhắm tới như mục tiêu hay như phương tiện, nhưng chỉ là
hậu quả đi kèm theo một điều ta trực tiếp nhắm đến, chẳng hạn như cắt bỏ tử
cung bị bệnh ung thư của người mẹ đang mang thai và do đó bào thai phải chết.
Phá thai có phải là tội sát nhân không?
Các
lập trường bênh vực việc phá thai: Nhiều lý thuyết biện minh và cho việc phá
thai chủ trương rằng thành quả của việc phá thai ít ra là cho đến một số ngày
nào đó chỉ là một tập hợp những tế bào, chưa thể được coi là một con người cá
vị. Vì thế, phá thai trong thời gian đó không phải là tội sát nhân. Hơn nữa,
trong những thập niên gần đây, dưới ảnh hưởng của phong trao tục hóa và giải
phóng phụ nữ, bào thai chỉ được nhìn dưới khía cạnh sinh học như một phần phụ
thêm trong thân thể người phụ nữ và thuộc quyền sở hữu của người phụ nữ, chứ
không được nhìn nhận như một con người, như là một nhân vị thực sự. Do đó,
người phụ nữ có toàn quyền quyết định đối với bào thai.
Nhiều người muốn che
giấu thực chất của tội phá thai và tính nghiêm trọng của nó trong dư luận quần
chúng bằng cách sử dụng một thuật ngữ chơi chữ: “sự ngừng có thai”. Thực ra
việc tìm cách che giấu như thế đã bộc lộ một sự bất ổn trong lương tâm con
người. Trước tình hình nghiêm trọng này
nhân loại cần phải có can đảm nhìn thẳng vào sự thật và dám gọi điều
thiện, điều ác bằng chính tên của chúng, về vấn đề này, lời quở trách của ngôn
sứ Isaia vang lên một cách dứt khoát: “Khốn
cho những ai gọi điều ác là thiện và điều thiện là ác, lấy tối tăm làm ánh sáng
và ánh sáng làm tối tăm” (Is 5,20).
Ngày nay, những người
bênh vực việc phá thai thường đưa ra bốn hoàn cảnh để biện minh cho việc phá
thai và họ gọi đó là những “chỉ dẫn”:
-
Chỉ dẫn thứ nhất mang tính ưu sinh, theo đó người ta cho rằng được
phép phá thai trong những trường hợp dự đoán khá chắc chắn khi đứa trẻ sinh ra
sẽ bị những khuyết tật nghiêm trọng, như hội chứng Down chẳng hạn.
- Chỉ dẫn thứ hai có tính
đạo đức, như trường hợp mang thai do bị cưỡng hiếp, loạn luân, ngoại tình, hoặc
do hành vi tính dục ngoài hôn nhân; người ta cho rằng trong những trường hợp
như thế được phép phá thai để cứu vãn danh dự của người mẹ và của gia đình, hơn
nữa trong trường hợp bị cưỡng hiếp đứa trẻ sinh ra ngược với ý muốn của người
mẹ, nên khó lòng được mẹ yêu thương.
- Chỉ dẫn thứ ba có tính
xã hội, theo đó nếu không phá thai thì đứa bé sinh ra sẽ trở thành gánh nặng
quá lớn về mặt xã hội và kinh tế cho gia đình và cho người mẹ.
-
Chỉ dẫn thứ tư có tính y học hay trị liệu:
người ta cho rằng được phép trực tiếp phá thai nếu sức khỏe của người mẹ bị lâm
nguy vì bào thai ấy, vì trong trường hợp này bào thai được coi như một kẻ tấn
công bất chính cần phải loại trừ.
Giáo huấn Thánh Kinh:
Thánh Kinh dường như không biết đến việc phá thai cố ý. Điều này cũng dễ hiểu,
bởi vì đông con nhiều cháu vốn được người Israel coi như một phúc lành của
Thiên Chúa, nhờ đó họ trở nên một dân tộc lớn và hùng mạnh. Các bản văn Thánh
Kinh, mặc dù không minh nhiên đề cập đến vấn đề phá thai, nhưng đã nhiều lần
biểu lộ sự kính trọng đối với hữu thể người còn trong dạ mẹ và do đó mặc nhiên
nới rộng điều răn “chớ giết người” đến các thai nhi. Ngay từ trong dạ mẹ, Thiên
Chúa đã nhìn thấy con người mà Người đã tác tạo. Người nhìn thấy nó khi nó chỉ
mới là một phôi thai nhỏ chưa có hình dạng xác định và thấy trước nó sẽ như thế
nào ngày mai, vì ngay từ thuở còn là bào thai, con người đã được Thiên Chúa ghi
vào “sách sự sống” và những ngày giờ của nó đã được đếm: “Khi con người mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời đã dành
sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con
khởi sự” (Tv 139,16).
Cũng theo Thánh Kinh,
ngay khi còn trong dạ mẹ, con người đã là đối tượng tình yêu quan phòng và hiền
phụ của Thiên Chúa (x. Gr 1,4-5; Is 46,3; G
10,8-12; Tv 22,10-11; 71,6). Trong trình thuật của Tin Mừng về cuộc gặp
gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabeth, tác giả Luca đã cho thấy hai bào thai trong
dạ hai bà mẹ đã là những con người thực sự với địa vị riêng: sự hiện diện của
bào thai Ngôi Hai Thiên Chúa vừa nhập thể trong lòng Đức Maria đã đem lại niêm
vui và ơn cứu độ cho bào thai Gioan Tiền Hô đã được cưu mang sáu tháng trong
lòng bà Êlisabeth, khiến Gioan Tiền Hô đã nhảy mừng, mặc dù còn nằm trong dạ
mẹ.
Lập trường của Giáo
Hội: Giáo Hội luôn luôn coi phá thai là một tội giết người thực sự: Ngay từ khi
noãn thụ tinh, đã khởi đầu một sự sống vốn không phải là sự sống của người cha,
cũng không phải là sự sống của người mẹ, nhưng là của một con người mới, phát
triển của chính mình. Nó sẽ không bao giờ thành người, nếu nó không là người
ngay từ lúc ấy. Khoa học di truyền hiện đại đem lại cho sự hiển nhiên thường
ngày những xác định quí giá. Nó chứng tỏ rằng ngay từ khoảnh khắc đầu tiên này
đã định hình chương trình của cái mà thực thể sống này sẽ là: một nhân vị, nhân
vị cá thể ấy với những điểm đặc trưng của nó.
Khi
tuyên bố tín điều Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, Giáo Hội đã khẳng định: “Đức Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu
tiên được thụ thai đã được gìn giữ khỏi mọi dấu vết nguyên tội”. Giáo Hội
cũng dạy “trong mức độ có thể phải rửa tội cho những thai nhi bị sẩy, nếu chúng
còn sống”.[19]
Điều đó muốn nói rằng thai nhi từ lúc thụ thai, đã là một con người cần được
gìn giữ cũng như phải được cứu độ. Do đó, phải tôn trọng sự sống con người ngay
từ khoảnh khắc đầu tiên trong cuộc hiện hữu của nó, một sự tôn trọng vô điều
kiện phải có đối với một con người:
Con người phải được tôn trọng và đối xử như một ngôi vị ngay từ lúc thụ
thai, và bởi vậy ngay từ lúc đó, người ta phải thừa nhận cho nó những quyền của
ngôi vị, đứng đầu là quyền được sống, một quyền bất khả xâm phạm của mọi người
vô tội.[20]
Đây
là lập trường đã có từ những thời kỳ đầu tiên của truyền thống Giáo Hội. Quả thế, khi bắt đầu hiện diện trong thế giới Hy-lạp vốn coi việc phá thai và giết trẻ em sơ sinh là những
chuyện thông thường, Kitô giáo đã coi những kẻ thực hành phá thai là những kẻ
giết người thực sự và đã triệt để chống lại thói tục đang tràn lan này, bằng
đạo lý và cách ăn ở của mình.[21]
Tertulianô
đã khẳng định: “Chỉ cần cản trở sinh ra thì đã là kẻ giết người rồi, người ta
tước đoạt sự sống đã sinh ra hay người ta hủy diệt nó trong lúc nó sinh ra thì
không có gì khác biệt nhau cả. Cái phải trở thành một con người thì đó là một
con người rồi”.[22] Trong suốt hai ngàn năm
qua Giáo Hội vẫn kiên trì giảng dạy như thế. Ngay cả những cuộc tranh luận khoa
học và triết học về thời điểm chính xác của việc phú bẩm linh hồn cũng không
bao giờ được gây ra một do dự nhỏ nhất nào cho huấn quyền Giáo Hội trong việc
kết án về mặt luân lý đối với việc phá thai. Giáo Hội quyết liệt chống lại phá
thai cho dù bị nhiều người ngày nay cho là cố chấp, cổ hủ, phản tiến bộ, không
tôn trọng quyền tự do của con người, không biết thông cảm với nhữ khó khăn của
các gia đình. Thực ra, Giáo Hội không hề độc đoán trong vấn đề này, bởi vì phá
thai là một điều ác tự nó, chứ không phải vì Giáo Hội cấm đoán.
Nguyên tắc luân lý
Phá thai trực tiếp là
cố ý giết người vô tội, do đó không bao giờ được phép với bất cứ lý do gì cho
dù vì sợ mất danh dự cho bản thân và gia đình, vì không có khả năng nuôi con,
vì sợ bị chính quyền trừng phạt, hoặc để cứu sống người mẹ. Quả thế, nhiều lần
người mẹ quyết định phá thai không phải vì những lý do thuần túy ích kỷ hay vì
nhẹ dạ, nhưng vì muốn bảo vệ những lợi ích khác, khiến người mẹ nghĩ
rằng thà nó đừng sinh ra thì hơn.
Ngày nay, có một số nhà
luân lý Công giáo nghiêng về lập trường cho phép phá thai trực tiếp trong trường
hợp đó là một phương thế trị liệu duy nhất có thể có. Đó là R.H. Springer, J.
Noonan, B. Haring, W.E. May, L. Janssens và L. Comerotte.[23] Theo
lập trường này thì khi đứng trước những trường hợp mà chúng ta chỉ có một sự
chọn lựa duy nhất, hoặc là để cả hai mẹ con cùng chết, hoặc là cứu lấy mạng
sống của người mẹ, thì việc bảo vệ sinh mạng của người mẹ do trực tiếp phá thai
là điều nên chọn hơn là để cả mẹ con phải chết. Sự lựa chọn đó không có nghĩa
là coi mạng sống của người mẹ hơn mạng sống của đứa con, nhưng là chọn lựa giữa
sự sống có thể cứu được và sự sống không thể cứu được. Nếu cứ để bào thai bị
bệnh vô phương cứu chữa trong bụng người mẹ thì cuối cùng bào thai cũng chết và
cả người mẹ cũng vậy. Vậy thì đưa cái chết của bào thai lên sớm hơn bằng việc
phá thai sẽ là một sự xấu nhỏ hơn là để cả mẹ cùng con chết. Nếu để người mẹ
chết cùng với con thay vì ít nhất cứu được người mẹ bằng cách cho phá thai trị
liệu, thì đó chẳng khác nào có nhiều điều tốt có thể làm được mà ta đã không
làm hay làm cho trở nên không thể thực hiện được, và đối với những người liên
hệ thì đó quả là điều bất hợp lý không thể chịu đựng được về mặt luân lý.
Hơn nữa, theo các nhà
khoa học thì bào thai được đưa ra khỏi dạ mẹ không thể sống được nếu chưa đủ 28
tuần tuổi. Nếu biết chắc người mẹ sẽ vì
bào thai đó mà phải chết trước thời hạn đó và lúc đó bào thai cũng chết theo,
thì tốt hơn là nên giải phẫu để đưa bào thai ra ngoài nhằm cứu sống người mẹ,
mặc dù biết rằng bào thai ấy cũng không thể sống được vì chưa đủ 28 tuần tuổi.
Như thế, theo các tác giả trên đây, phá thai trực tiếp để trị bệnh xem ra cũng
có thể chấp nhận được như phá thai gián tiếp để trị bệnh.
Thực
ra, ta cần phải rất thận trọng. Theo Tertulianô:
Chỉ cho phép
phá thai khi không làm thế thì cả mẹ lẫn con đều chết.
Nếu một trong hai người có thể còn sống thì ta nên chờ đợi và để sự việc xảy ra
theo sự quan phòng của Thiên Chúa. Đây có lẽ là một sự thận trọng đúng đắn, vì
trong trường hợp ấy ta không có cách nào để biết sự sống của ai trong hai người
ấy có giá trị hơn.[24]
Ngay từ thế kỷ thứ
nhất, Giáo Hội đã đồng thanh khẳng định rằng phá thai và giết trẻ sơ sinh là
một tội ác. Đó là giáo lý bất biến không hề thay đổi của Giáo Hội:
Việc trực tiếp
phá thai dù được nhắm đến như mục đích hay như phương tiện đều vi phạm cách
nghiêm trọng luật luân lý. Ai thực hành việc phá thai và kể cả những người cộng
tác đều mắc lỗi nặng.[25]
Ngay từ những thế kỷ
đầu, kỷ luật Giáo Hội đã trừng phạt nặng những người thực hiện việc phá thai và
việc trừng phạt ấy đã được xác nhận qua những giai đoạn lịch sử khác nhau cho
đến ngày nay. Ngay từ các công đồng Elvira (306), Ancira (313), Trullo (692),
Giáo hội đã ra vạ tuyệt thông cho những người thực hành phá thai và, nếu những
người này hối cải thì phải chịu những việc đền tội công khai và kéo dài mới
được tha thứ.
Theo Bộ Giáo Luật 1983,
ai thi hành việc phá thai có kết quả thì bị vạ tuyệt thông tiền kết do chính
hành vi phạm tội chiếu theo những điều kiện đã được giáo luật dự liệu. Vạ tuyệt
thông đánh vào tất cả nững ai phạm tội ác này trong khi biết hình phạt họ sẽ
chuốc lấy, kể cả những kẻ tòng phạm mà nếu không có họ thì việc thực hiện tội
ác không thể xảy ra. Trung thành với truyền thống đạo lý và kỷ luật Giáo Hội,
cũng như để đối phó với tình hình phá thai tràn lan trong thế giới hiện nay,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên bố:
Với uy quyền
Chúa Kitô đã trao cho Phêrô và các đấng kế vị, trong sự hiệp thông với các Giám
mục, tôi tuyên bố rằng việc phá thai trực tiếp, nghĩa là được muốn như mục đích
hay như phương thế, luôn luôn là một thác loạn luân lý nghiêm trọng xét như như
là sự cố ý giết chết một con người vô tội. Đạo lý này dựa trên cơ sở lề luật tự
nhiên và Lời của Thiên Chúa đã được viết ra, được truyền thông Giáo Hội truyền
lại và quyền giáo huấn thông thường và phổ quát giảng dạy.[26]
Theo quan điểm luân lý,
không bao giờ được minh nhiên cộng tác vào việc xấu; sẽ có sự cộng tác như thế
khi hành động được thực hiện kia, hoặc do chính bản thân nó, hoặc do tính chất
nó mang lấy trong một bối cảnh cụ thể, đã nổi bật như là một sự tham gia vào
hành vi chống lại sự sống con người vô tội, hay như một sự đồng tình với ý định
vô luân của tác nhân chính.[27]
Khi vì nhiệm vụ mà các
y tá phải giúp các bác sĩ thực hiện phá thai, nhưng không tán thành hành vi và
ý đồ xấu của bác sĩ, thì các y tá chỉ cộng tác về mặt chất thể với một số điều
kiện như sau. Trước hết, nếu có thể từ chối thì hãy từ chối. Nếu xét thấy không
thể từ chối được, nhưng có thể nói lên sự bất đồng ý kiến của mình mà không bị
thiệt hại gì, thì cứ nói. Còn nếu thấy trước hay dựa vào vào kinh nghiệm quá
khứ mà suy đoán rằng sự từ chối của mình chẳng những vô ích mà còn đem lại
những bất lợi nghiêm trọng cho mình, thì được phép cộng tác cách chất thể hoặc
miễn cưỡng và bày tỏ sự bất đồng của mình bằng cách khác. Tuy nhiên, các y tá
không nên vội cho rằng sự từ chối của mình sẽ không được tôn trọng. Những bất
lợi nghiêm trọng có thể là bị mất việc và không có hy vọng kiếm được việc khác,
hoặc nếu thấy rằng nếu mình còn tiếp tục làm việc thì sẽ có thể làm được nhiều
việc thiện cho kẻ khác, như mời linh mục cho các bệnh nhân, giúp người hấp hối
hòa giải với Chúa, rửa tội cho các trẻ em sơ sinh sắp chết, v.v… Nếu các điều
kiện vừa kể không có hay nếu bị yêu cầu cộng tác như thế quá thường xuyên, thì
các y tá có bổn phận rút khỏi bệnh viện đó và đi tìm việc ở một bệnh viện khác.
Các nhà lập pháp cũng phải chịu trách nhiệm khi xúc tiến và phê chuẩn các đạo
luật ủng hộ phá thai, viện lý do tôn trọng quyền tự do của người dân và những
nguyên tắc dân chủ.
Nếu chính quyền cho phép phá thai theo sự đòi hỏi của một
số người tức là vi phạm quyền sống của những người yếu kém nhất, như thế là phủ
nhận nguyên tắc dân chủ vì đã phủ nhận sự bình đẳng của mọi người trước pháp
luật, bởi vì ngay từ lúc thụ thai, thai nhi phải được đối xử như một nhân vị,
tức là một chủ thể có những quyền bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, khi có lý do
tương xứng thì được phép phá thai gián tiếp. Để cứu sống người mẹ, nhiều lúc
người ta buộc lòng:
Phải thực hiện một cuộc giải phẫu khẩn cấp hay một biện pháp chữa trị dẫn
đến kết quả phụ ngoài ý muốn là cái chết của bào thai, chẳng hạn cắt bỏ tử cung
bị ung thư và như thế gián tiếp làm cho thai nhi bị chết, hoặc uống thuốc để
chữa bệnh hiểm nghèo, nhưng thuốc ấy lại dẫn đến việc làm cho thai nhi bị chết.[28]
Cũng
vậy, trong trường hợp mang thai ngoài tử cung, nếu chỗ mang thai đó bị một ung
bướu nguy hiểm, người ta có thể cắt ung bướu ấy và gián tiếp làm cho bào thai
bị chết. Những biện pháp như thế có thể chấp nhận được, vì không trực tiếp giết
chết bào thai, nếu “thực sự không còn cách nào khác.”[29]
Nên lưu ý rằng những biện pháp ấy chỉ được phép nếu người ta áp dụng nó để chữa
bệnh khẩn cấp. Do đó, “không được phép cắt bỏ bào thai chỉ vì nằm ngoài tử
cung, nhưng không gây một bệnh khẩn cấp nào, bởi vì có nhiều trường hợp người
ta vẫn có thể cứu sống được đứa bé.”[30]
2. Tội giết
người cách êm dịu
Sự sống con người là
một cái gì thánh thiêng cần được bảo vệ từ chiếc nôi cho đến ngôi mộ, hay đúng
hơn, từ lúc thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Vì thế, nếu phá thai hay giết
thai nhi là một tội ác, thì giết người già yếu bệnh hoạn gần chết cũng là một
tội ác nặng nề không kém. Thế nhưng, trong bối cảnh nền văn hóa hưởng thụ hiện
nay, người ta có khuynh hướng đánh giá đời sống theo mức độ nó đem lại sự sung
sướng và khoái lạc; sự đau khổ xuất hiện như một cái gì phi lý vô nghĩa, không
thể chịu nổi, và cần phải thoát khỏi nó bằng mọi giá, ngay cả bằng cái chết.
Hơn nữa, một khi phủ nhận mỗi liên hệ căn bản với Thiên Chúa và tự cho mình có
toàn quyền trên sự sống của mình, người ta dễ bị cám dỗ tìm đến cái chết êm dịu
để thoát khỏi đau khổ khi nào mình muốn.
Giết người cách êm dịu
là thế nào?
Để
có thể đưa ra một phê phán luân lý về việc giết người cách êm dịu, trước hết
cần phải có một quan niệm đúng đắn và rõ ràng về nó. Theo nghĩa hẹp, hành vi
giết người êm dịu, tức là một hành động hay một sự bỏ sót, tự nó và ý định gây
ra cái chết cho một người để tránh mọi sự đau đớn có thể có cho người ấy. Hành
vi giết người cách êm dịu thường được thực hiện vì hai lý do. Lý do thứ nhất là
vì lòng thương xót: khi thấy một người bị bệnh nan y và quá đau khổ, người ta
muốn dùng cách ấy để giúp người bệnh thoát khỏi đau khổ, hay để chấm dứt một
cơn hấp hối kéo dài. Lý do thứ hai là vì người ta cho rằng đời sống của người
bệnh đã mất phẩm chất, không còn giá trị để sống nữa. Những kế hoạch quy mô
nhằm hủy diệt những người bị tâm bệnh và những người tàn phế, hay nói một cách
tổng quát, những người bị cho là vô dụng và gây ra gánh nặng cho xã hội, như đã
từng xảy ra ở thời Đức quốc xã, phát sinh từ lý do thứ hai này. Ngoài ra, người
ta cũng có thể xem đó là một cách thể hiện sự tự do, tự do quyết định cái chết
của mình.
Như thế, “việc gây chết
êm dịu được đặt ở tầm mức những ý định và những phương pháp sử dụng”.[31] Việc
giết người cách êm dịu khác với quyết định khước từ “sự bám riết điều trị”, tức
là không tiếp tục duy trì một sự điều trị không còn phù hợp với tình trạng
người bệnh và không cân xứng với những kết quả người ta có thể hy vọng, hoặc
tạo ra gánh nặng quá lớn cho bệnh nhân hay cho gia đình người ấy, chẳng hạn như
ngưng các phương tiện nhân tạo nhằm kéo dài sự sống. Sự khước từ những phương
thế ngoại thường hay không cân xứng không thể được coi là tự sát hay làm cho
người ta chết, nhưng đúng hơn, nó chỉ thể hiện thái độ chấp nhận thân phận con
người trước khi chết.
Nguyên tắc luân lý
Phải tôn trọng sự sống
của con người trong mọi tình huống và cho đến giờ phút chót: đó là một đòi hỏi
của đạo đức. Sự sống con người vẫn còn nguyên giá trị trong trường hợp nó bị
giảm thiểu hay suy yếu do bệnh tật, kể cả khi người ta cảm thấy cuộc sống không
còn đáng sống hoặc mất đi ý nghĩa vì quá đau khổ. Phải tôn trọng sự sống của
mọi người, ngay cả sự sống của những người tàn tạ, yếu ớt. Những người bệnh
hoạn tật nguyền cần phải được nâng đỡ để họ sống một cuộc sống càng bình thường
càng tốt. Theo quan niệm Kitô giáo, đau khổ và bệnh tật là một thành phần của
cuộc sống. Do đó, lòng yêu thương Đức Kitô dành cho những người đau yếu luôn
thôi thúc các tín hữu đón nhận tất cả những người đau khổ về thể xác cũng như
tinh thần. Tình yêu này là nguồn mọi cố gắng không ngừng để nâng đỡ những anh
em đau khổ. Săn sóc người hấp hối là một hành vi bác ái đặc biệt cần được
khuyến khích. Do đó, dù người bệnh sắp chết vẫn phải được tiếp tục chăm sóc
bình thường, ta không được tìm cách làm cho người ấy chết trước giờ Chúa định,
cho dù chết cách êm dịu.
Việc tôn trọng sự sống
cho đến giờ phút chót không thể đi đôi với việc giải quyết vấn đề đau khổ bằng
cách loại bỏ sự đau khổ qua việc giết chết cách êm dịu. Chủ trương giết chết
cách êm dịu phát sinh từ môi trường văn hóa hưởng thụ không nhận thức được ý
nghĩa cũng như giá trị nào của đau khổ, trái lại xem đau khổ là điều ác tiêu
biểu nhất phải loại bỏ bằng bất cứ giá nào. Điều này cũng thường đi đôi với
phong trào tục hóa ngày càng lan rộng khi người ta “không có một niềm tin tôn
giáo giúp họ hiểu được ý nghĩa tích cực của mầu nhiệm đau khổ. Ngoài ra, đó
cũng là thái độ của con người muốn chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa và tự phong
mình làm chủ tể sự sống và sự chết.”[32] Trực
tiếp làm cho người bệnh phải chết để khỏi đau đớn, dù với bất kỳ lý do gì hay
bằng cách nào, cũng là tội giết người không thể chấp nhận được về phương diện
luân lý. Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên bố:
Việc làm chết
êm dịu vi phạm nghiêm trọng lề luật Thiên Chúa, vì đó là việc giết chết một con
người cách cố ý và không thể chấp nhận về mặt luân lý. Đạo lý này dựa trên có
sở luật tự nhiên và trên Lời của Thiên Chúa đã được viết ra, được truyền thống
Giáo Hội truyền lại và được huấn quyền thông thường và phổ quát giảng dạy.[33]
KẾT LUẬN
Ta nhận thấy rằng chủ đề sự sống luôn chiếm một
vị trí rất lớn trong Thánh Kinh và trong Giáo huấn của Giáo Hội. Sự sống sung
mãn ấy được Thiên Chúa ban cho con người ngay từ khi sáng tạo và được tái diễn
trong suốt chiều dài lịch sử của con người. Thiên Chúa cũng tôn trọng những gì
mình đã tạo nên, Ngài đã bảo tồn và gìn giữ sự sống ấy. Chính vì lẽ đó, theo
giáo huấn của Giáo Hội, thì không ai có quyền được tước đoạt sự sống, phẩm giá
và sự toàn vẹn thể xác cũng như tinh thần của người khác dưới bất cứ hình thức nào.
Mỗi người hiện hữu trên
đời này đều là một công trình kỳ diệu của Thiên Chúa và chỉ riêng Ngài mới có
quyền lấy lại sự sống ấy. Việc lấy đi mạng sống con người trong các cuộc chiến
tranh, khủng bố, phá thai, làm chết êm dịu, tự sát… là những hình thức không
những đi ngược lại với nền luân lý sự sống của Kitô giáo, mà còn chống lại công
trình tạo dựng trong thần trí của Thiên Chúa có từ ngàn đời. Quyền được sống và
sống hạnh phúc của con người phải được đặt lên trên các quyền về chính trị,
kinh tế… Nếu một đất nước giàu mạnh về kinh tế, về chính trị, mà không có sự
tôn trọng sự sống của con người; coi mạng sống con người như cỏ rác, muốn giết
lúc nào tùy ý, thì đất nước ấy trước sau gì cũng biến động và lụi tàn. Hoặc nếu
con người không coi sự sống của người khác như chính sự sống của chính mình thì
trước sau gì họ cũng trở thành một kẻ tàn ác và cô đơn nhất. Thiên Chúa muốn
con người phải sống lệ thuộc vào nhau, người này phải liên đới với người kia.
Vì vậy “không ai có thể sống mà không liên kết với người khác.”[34]
Vì vậy, sự sống con người được bảo đảm và phát triển, khi con người
biết nhận ra phẩm giá cao quý của mọi người và mỗi người, từ đó họ biết tôn
trọng và yêu thương sự sống của người khác, hầu đem lại cho cộng đồng và xã hội
một cộng đoàn yêu thương.
[1] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Donum vitae, phần dẫn nhập, 5.
[2] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Tuyên ngôn
Quốc tế Nhân quyền”.
[3] ĐTC Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae, số 54.
[4] Xc. CĐ
Vat. II, Gaudium et spes, số 27;
Gioan Phaolô II, Evangelium, số 57.
[5] Xc.
www.simonhoadalat.com › TuSachGiaoLyGP › truy cập, 23/10/2020.
[6] Xc. www.simonhoadalat.com ›
TuDuc › 09NhungDauKhoTrongDoi,
truy cập, 24/10/2020.
[7] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Donum vitae, phần dẫn nhập, 5.
[8] ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium vitae, số
57.
[9] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Donum vitae, phần dẫn nhập, 5.
[10] ĐTC Phaolô VI, Thông điệp Humanae vitae, số 13.
[11] ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium vitae, số 2.
[12] Ibid.
[13] Giáo lý của Hội thánh Công giáo, số 2261.
[14] Xc. Cđ Vat. II, Lumen gentium, số 25.
[15] ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium vitae, số
66.
[16] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn về việc làm chết êm dịu Jura et
bona, II.
[17] Gioan Phaolô II, Veritatis splendor, số 96; tội trực tiếp
giết người: Gioan phalô II, Evangelium,
số 57.
[18] Giáo lý của Hội thánh Công giáo, số 2269.
[19] Bộ Giáo Luật 1983, điều 871.
[20] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị Donum vitae, số 1.
[21] Nguyễn Văn Khôi, Luân Lý Kitô giáo qua mười Điều răn, Hà
Nội: Tôn Giáo, 2013, tr. 132.
[22] Ibid.
[23] Xc. J. Noonan, The Mrality of Abortion (Cambridge:
Harvard University Press, 1970, p. 58.
[24] Nguyễn Đức Hòa, Thần Học Luân Lý (2012), tr. 268.
[25] ĐTC Piô XI, Diễn văn trước Liên hiệp y sinh học
(12.11.1944).
[26] ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium vitae, số 62.
[27] Xc. ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium vitae, số 74.
[28] Nguyễn Đức Hòa, Thần học Luân Lý (2012), tr. 273.
[29] Ibid.
[30] Ibid.
[31] Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn về việc làm chết êm dịu, II.
[32] ĐTC Gioan Phaolô II, Evangelium vitae, số 15.
[33] ĐTC Gioan Phaolô II, Sđd., số
65; CĐ Vat. II, Lumen gentium, số 25.
[34] Youcat, Hà Nội: Tôn Giáo, 2013, tr. 276
Đăng nhận xét