Phêrô Lâm Phước, OP. thực hiện
Thông thường ai cũng thích được tặng quà, nhất
là những dịp lễ sinh nhật, bổn mạng, Valentine, Tết Nguyên Đán, lễ Giáng sinh
hoặc ngày lễ kỷ niệm nào đó. (Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II và song thân )
Khi nhận được quà,
thiết nghĩ ai cũng cảm thấy vui, hạnh phúc, dù không kéo dài bao lâu, mặc dù là
món quà vật chất bên ngoài. Thế nhưng, mỗi ngày bạn được nhận món quà “vô hình”
còn quý giá hơn cả những món quà vật chất trên gấp bội phần mà nếu không có, bạn
không thể sống được trên đời, đó là hơi thở.
Theo
quy tắc số 3: người ta không ăn trong vòng 3 tuần có thể chết; không uống 3
ngày có thể chết và không thở 3 phút
sẽ chết.[1] Hơi thở đó chính là sự sống con người. Nói cách khác, sự sống chính là quà tặng Thiên
Chúa ban cho con người. Kinh thánh cho chúng ta biết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí
vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Khi đọc tới đây,
tôi nhớ tới bài hát “Thà như giọt mưa” của nhạc sĩ Phạm Duy. “Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá / thà như
giọt mưa khô trên tượng đá / thà như mưa gió đến ôm tượng đá / có còn hơn
không, có còn hơn không/ có còn hơn không, có còn hơn không”… Tác giả cho
thấy mỗi người chúng ta được hiện hữu trên cõi đời là một con người chứ không
phải một động vật hay thực vật nào đó. Điều này quá tuyệt vời!
DOCAT số 6- 9 diễn
tả rằng:
Tôi được tạo dựng để
thực hiện một điều đặc biệt, để trở nên một người độc đáo; Thiên Chúa đã dự tính
cho tôi một vị trí trong kế hoạch của Ngài; dù tôi giàu hay nghèo, dù được người
đời khen ngợi hay bị họ khinh thường, Thiên Chúa vẫn biết đến và gọi chính tên
tôi, là một con người.
Đức giáo hoàng Bênêdictô
XVI đã nói:
Tuy chúng ta nhờ
cha mẹ mà được sinh ra và là con cái của họ, nhưng chúng ta cũng bắt nguồn từ
Thiên Chúa vì chính Ngài đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài và gọi
chúng ta là con cái của Ngài. Do đó, mỗi người không có mặt trên đời một cách
ngẫu nhiên tình cờ, mà trong cội nguồn của mỗi con người chính là kế hoạch yêu
thương của Chúa.
Thế nhưng trớ trêu
thay trong cuộc sống có người đã không ý thức sự sống là quà tặng Thượng Đế ban
mà còn lạm dụng và phá hủy nó. Đó là hành động vô ơn, thậm chí là hành vi tội
ác mà Giáo lý Hội thánh Công giáo không chấp nhận được: phá thai và tự sát.
Vậy đâu là nền tảng
của việc tôn trọng sự sống, quà tặng Thiên Chúa ban? Nhất là nền tảng luân lý
Kitô giáo trước sự việc rất nhức nhói và đau lòng xã hội ngày nay mà chúng ta
phải đối diện: nạo phá thai và trợ tử.
Xin
gởi đến quý độc giả vài đoạn trích, tập trung vào hai khía cạnh “phá thai và
trợ tử”, trong buổi tọa đàm với cha Giuse Ngô Sĩ Đình, OP., giáo sư môn Thần
học Luân lý trong Chương trình Giáo lý trực tuyến : “Các Anh Tìm Gì?” được phát
sóng trên gxdaminh.net hoặc youtube tối thứ Sáu hàng tuần lúc 19g30.
MC: Thưa cha Giuse, sự sống là
một trong những quà tặng cao quý mà Thiên Chúa ban cho con người. Cha cảm nghĩ
thế nào về quà tặng này?
Cha Giuse:
Đúng như Cha
nói, sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người, quà tặng vô giá. Theo
tôi, sự sống là một trong những quà tặng mà đúng hơn sự sống là quà tặng duy
nhất hay là quà tặng căn bản mà Thiên Chúa ban cho con người. Có thể anh chị em
nghĩ tới những quà tặng khác, như tài năng của người này người kia, người có
tài hát, người có tài thể thao… có những người có tài nổi bật mà người ta gọi
là “thiên tài” nữa. Những tài năng đó (talents) đều là những quà tặng từ Thiên
Chúa. Nhưng những quà tặng này đều phát xuất từ món quà đầu tiên, căn bản nhất,
đó là sự sống, tất cả đều được xây dựng trên nền tảng là món quà tặng sự sống.
Mất sự sống là mất hết. Dân gian hay nói “chó chết hết chuyện” cũng có ý nghĩa
tương tự.
Để minh họa cho
món quà quí báu này, chúng ta có thể nghĩ đến câu chuyện một đại gia nhận con
nuôi và cho người con đó được hưởng mọi quyền lợi như con cái của họ. Việc nhận
con là món quà cha mẹ nuôi dành cho đứa con, từ món quà đó, đứa con mới có được
các món quà khác, như áo quần, xe cộ, sự chăm sóc nói chung.
Con người không
phải được Thiên Chúa nhận làm con nuôi, đúng hơn Thiên Chúa sáng tạo nên chúng
ta. Tuy nhiên chúng ta không ngang hàng với Ngài nên tạm sử dụng hình ảnh trên.
Từ ý nghĩa món
quà đó, chúng ta hiểu sự sống có giá trị cao cả như thế nào, Thiên Chúa cho
chúng ta có sự sống, sự sống của con người cao quý hơn sự sống của các loài
sinh vật khác. Ta có thể rút ra ra ba kết luận như sau:
1. Sự sống quí
báu nên Thiên Chúa truyền không ai được xúc phạm đến sự sống. Thực vậy Thánh
Kinh cho thấy ngay từ đầu lịch sử loài người, Thiên Chúa qua câu chuyện Cain
giết Aben em mình, đã ghê tởm việc con người hủy diệt sự sống của nhau như thế
nào. "Ngươi đã làm gì? Máu
của em ngươi từ mặt đất kêu thấu đến Ta. Thì bây giờ, ngươi bị nguyền rủa, bị
lưu đày khỏi mặt đất đã banh miệng uống máu em ngươi, do tay ngươi làm đổ ra"
(St 4,10-11). Cựu Ước vẫn coi máu là dấu chỉ linh thánh của sự
sống (x. Lv 17,14). Trong 10 giới răn (Xh 20) có điều răn thứ năm là không được
giết người. Giáo lý Công giáo luôn khẳng định việc cấm giết người (SGL 2259).
2. Trong 10 giới
răn, giới răn thứ năm nói tới việc giết người. Người Dothái hiểu là phải tước
mạng sống của người khác mới là giết người. Nhưng Đức Giêsu đã giải thích rõ
hơn ý nghĩa của giới răn này: “Ai
giận anh em mình thì cũng đáng đưa tòa” cho thấy sự
sống không phải chỉ là sự sống cụ thể của thân xác, nhưng còn là sự sống tinh
thần.
3. Mục đích của món quà: có lẽ có người hỏi lại, cuộc sống của tôi
chẳng thích thú gì cả, tôi chẳng thích món quà này. Nhưng thưa bạn, có bao giờ
chúng ta được quyền trách móc cha mẹ đã cho chúng ta sự sống không. Món quà đẹp
hay không, không phải do chúng ta đánh giá, nhưng là do người tặng quà nữa.
Chúng ta có nên xem xét giá trị vật chất món quà người bạn tặng chúng ta hay
không. Một bài học mà trẻ em được học ngay từ nhỏ, là phải biết trân trọng món
quà, đừng bao giờ nhận xét giá trị vật chất của món quà, nhất là trước mặt
người tặng quà. Ở đây cũng vậy, nếu chúng ta biết được mục đích của Thiên Chúa
khi tặng chúng ta món quà sự sống là để chúng ta được hưởng hạnh phúc trên
thiên đàng thì chúng ta trân trọng món quà này (SGL 2258).
MC: Một trong vấn đề rất nhạy cảm, nhưng sự thật thì vẫn phải cần
phải trình bày: phá thai. Xin cha cho biết quan điểm Hội thánh về vấn đề rất
nhạy cảm và nhức nhói này?
Cha Giuse:
Quan
điểm của Hội Thánh rất rõ ràng: “Sự sống
con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai. Ngay từ
giây phút bắt đầu hiện hữu, con người phải được kẻ khác nhìn nhận các quyền làm
người, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô
tội” (x. CDF, instr. "Donum vitae" 1,1 - SGL 2270).
Như
vậy phá thai: coi là phạm tội giết người. Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy.
Trên kia chúng ta đã nhắc tới hành vi hai hiệu quả. Theo nguyên tắc đạo đức,
con người phải bảo vệ mạng sống của mình và có thể kéo theo hậu quả là gây ra
cái chết của người khác.
Thường
người ta có hai lập luận chính để bảo vệ cho việc phá thai.
Một
là bào thai chưa phải là người, mới chỉ là một phần của mẹ nó. Do đó người mẹ
có quyền. Vấn đề này chúng ta sẽ có dịp trao đổi sau.
Lập
luận thứ hai có lẽ phổ biến hơn, đó là đứa trẻ sẽ sinh ra đó sẽ gây phiền phức
cho người khác. Cụ thể là người mẹ, những thành viên khác trong gia đình, và xã
hội. Gây phiền phức cho người mẹ vì danh dự người mẹ, hay khiến người mẹ phải
vất vả chưa được hưởng thụ cuộc sống, gây phiền phức cho các thành viên khác
trong gia đình, hay xã hội vì gia đình và xã hội không đủ khả năng cung cấp
điều kiện sống. Bào thai đó đang đe dọa những người đã sinh ra, thậm chí có
người còn tưởng tượng là nó đang tấn công các anh nó !
Vì
thế họ bênh vực cho quan điểm phá thai, khi cho rằng mục đích chính của chúng
tôi là bảo vệ những người đang sống chống lại những kẻ tấn công. Nhưng có thật
các bào thai đang tấn công người khác hay không. Các bào thai không có một khả
năng nào trong tay thì làm sao có thể tấn công người khác được. Những lo lắng
như thế đều là kết quả của trí tưởng tượng. Luật không cho phép tự vệ để giết người
khác chỉ vì sợ hãi, như trường hợp gần đây có những bạn trẻ “ngáo đá” có ảo
giác người khác tấn công mình nên mình phải ra tay trước!
Về
phía xã hội cũng vậy. Nhiều quốc gia dựa vào quyền phát triển nên chấp nhận cho
phép, thậm chí buộc phá thai! Dĩ nhiên nói như vậy không có nghĩa là Giáo hội
khuyến khích sinh sản bất chấp hoàn cảnh gia đình. Không, các bậc cha mẹ phải
có trách nhiệm trong việc cộng tác với Chúa để có thêm thành viên nhân loại.
Do
đó ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một tội ác. Trực
tiếp phá thai, dù là mục đích hay phương tiện, đều vi phạm nghiêm trọng luật
luân lý: "Không được phá thai cũng như không được giết trẻ sơ sinh".
Công
đồng Vatican II khẳng định rằng: “Thiên Chúa là chủ sự sống, đã trao cho con người
nhiệm vụ cao cả là bảo tồn sự sống, và họ phải chu toàn bổn phận đó như chính
Người đã làm. Do đó, sự sống phải được bảo vệ hết sức cẩn thận ngay từ lúc thụ
thai: phá thai và giết trẻ sơ sinh là những tội ác ghê tởm (x. GS 51,3).
Cũng
vì thế ngay cả việc cộng tác vào việc phá thai cũng là tội nặng. Theo Giáo
luật, "Ai thi hành việc phá thai, và
việc phá thai có kết quả, thì mắc vạ tuyệt thông tiền kết" (x. CIC,
can. 1398) Khái niệm Vạ tiền kết có nghĩa là không cần tuyên bố đã bị phạt vạ,
khác với trường hợp những vạ phải có tòa xét xử và tuyên bố. Trong trường hợp
phá thai ai vi phạm điều luật này là đương nhiên bị phạt vạ.
MC: Vậy ai có quyền giải vạ này, thưa cha?
Cha Giuse:
Thưa: thuộc thẩm quyền của vị Thường Quyền Sở Tại, tức là Đức
giám mục giáo phận và vị Tổng đại diện của ngài; hoặc các vị được Giáo luật xem
là tương đương với Đức giám mục giáo phận. Đức Giám Mục giáo phận thường chỉ
định một số linh mục lo việc giải vạ trong những trường hợp tương tự.
Linh mục giải tội bình thường có thể tha vạ này, nhưng chỉ
trong Toà Giải Tội (Toà Trong) mà thôi, nếu tội phạm này chưa bị Đức
Giám Mục công bố (Giáo Luật điều1357). Đồng thời, vị linh mục giải tội này phải
buộc hối nhân xin Đức Giám Mục tha vạ chính thức (Toà Ngoài) trong thời
gian ngắn nhất.
Trong trường hợp nguy tử, bất kỳ linh mục nào cũng có thể tha
tội và vạ này (Giáo Luật điều 976).
Ngày 20.11.2016, trong Tông thư kết thúc Năm Thánh, Đức giáo
hoàng Phanxicô quyết định: “Tôi trao cho mọi linh mục năng quyền xá giải cho
những ai phạm tội phá thai…”; dù Ngài vẫn xác định “phá thai là một tội trọng,
vì chấm dứt một sinh mạng vô tội.” Như vậy, từ nay, tất cả các linh mục có năng
quyền Giải Tội, đều có thể xá giải vạ tuyệt thông tiền kết cho những người phạm
tội phá thai.
MC: Đối với một số quốc gia, hoặc một số nhà y khoa nói rằng,
việc phôi thai chưa phải là con người, nên nếu ngăn cản theo kiểu can thiệp thì
không thành tội giết người. Cha nghĩ sao về vấn đề này?
Cha Giuse:
Thưa
cha, đây là vấn đề khá rắc rối. Rắc rối vì như cha đã nêu lên trong câu hỏi, có
những người cho rằng phôi thai chưa phải là người. Vậy lúc nào phôi thai là
người?
Một
định nghĩa đơn giản là lúc nào phôi thai có linh hồn thì là người. Vậy lúc nào
phôi thai có linh hồn? Ở đây thì vấn để trở thành rắc rối. Ai biết được chính
xác lúc nào phôi thai có linh hồn? Một giây, một phút? Khoa học có thể xác định
giây phút hai tế bào truyền sinh gặp nhau, nhưng việc lúc nào bào thai có linh
hồn lại hoàn toàn ngoài khả năng và thẩm quyền của khoa học. Cũng tương tự như
vấn đề lúc nào linh hồn ra khỏi xác? Cả hai trường hợp khoa học đều chịu thua.
Giáo
lý trả lời thế nào? Có thể nói rằng ở đây giáo lý cũng gặp khó khăn. Ai dám
khẳng định. Vì linh hồn là do Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng, chứ không phải một
cách máy móc của vật lý như chúng ta nói rằng 2 nguyên tố Hydro và 1 oxy sẽ có
nước!
Vì
thế, SGL 2274 cũng nói rất cẩn thận: “Ngay
từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một nhân vị, nên phải được
hết sức bảo vệ toàn vẹn, chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác.” Xin
lưu ý ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một nhân vị… điều
này có nghĩa rằng bởi vì chúng ta không biết chính xác thời điểm Chúa ban cho
bào thai một linh hồn, nên phải đối xử với bào thai ngay từ giây phút thành
thai như một nhân vị.
Ý
thứ hai là can thiệp trên bào thai. Về mặt luân lý, khám thai là điều được phép làm, nếu nó tôn trọng sự sống và sự
toàn vẹn của phôi thai và của thai nhi, và nếu nó được nhắm tới sự bảo tồn hay
chữa trị chính phôi thai hay thai nhi. Nhưng nếu việc khám thai để căn cứ vào kết
quả có thể dẫn đến phá thai, thì nghịch với luật luân lý cách nghiêm trọng.
Huấn thị Hồng ân sự sống nói rằng “Khám thai không thể trở thành phiên tòa
tuyên án tử hình” (1,2).
"Sản xuất những phôi thai con người
với dụng ý khai thác như một vật liệu sinh vật học tiện dụng ("Donum
vitae" 1,5) là phản đạo đức". "Ðã có một vài thử nghiệm can thiệp
trên bộ nhiễm-sắc-thể hoặc gien di truyền không phải để trị liệu, nhưng muốn
tạo ra những con người được tuyển lựa theo phái tính hoặc với những tính chất
định sẵn. Những hành vi đó nghịch lại với phẩm giá của nhân vị, sự toàn vẹn và
căn tính "duy nhất, không trùng lắp" của con người ("Donum
vitae" 1,6).
MC: Một vấn đề khác cũng khá tế nhị, xảy ra ở tại một số quốc gia
bên phương Tây, nhưng ít xảy ra tại Việt Nam, đó là cái chết êm dịu, còn gọi là
trợ tử. Có nhiều lý do, nhưng lý do mạnh nhất: vì một số người già, bị bệnh quá
nặng, tai biến nằm liệt, á khẩu, thậm chí họ chỉ sống theo cách gọi: sống thực
vật. Nếu việc chữa trị quá tốn phí, làm cho người nhà như một gánh nặng về điều
kiện kinh tế. Đồng thời, việc trợ tử cũng là một cách giải thoát cho chính bệnh
nhân. Xin cha cho biết quan điểm của Hội thánh về vấn nạn này?
Cha Giuse:
Quan điểm Hội thánh rất rõ trong vấn đề này: Phải đặc biệt
tôn trọng sự sống của những người tàn tật, yếu ớt. Những người bệnh hoạn tật
nguyền phải được nâng đỡ để sống một cuộc sống càng bình thường càng tốt. Không
thể chấp nhận việc trực tiếp giết người để giải quyết sự đau đớn cho họ hay cho
người khác (SGL 2276). “Với bất cứ lý do nào
và bất cứ phương thế nào, việc trực tiếp giết chết để tránh đau vẫn là nhằm
chấm dứt sự sống của những người tật nguyền, đau yếu hoặc hấp hối là không thể
chấp nhận” (SGL 2277).
Do
đó, có ý làm hoặc bỏ không làm một việc tự nó đưa đến cái chết, để chấm dứt sự
đau đớn của một người, là một tội cố ý giết người, tội nghiêm trọng nghịch với
phẩm giá con người. Một phán đoán sai lầm cách ngay tình không thay đổi bản
chất của hành vi sát nhân, một hành vi cần phải bài trừ và cấm chỉ về mặt luân
lý.
Nhưng
vẫn có thể áp dụng nguyên tắc thực hiện một hành vi để nhằm đến hiệu quả tốt,
trong trường hợp này là giảm đau cho bệnh nhân. SGLHT 2279 viết:
Dù
bệnh nhân sắp chết, vẫn phải tiếp tục chăm sóc bình thường. Về mặt luân lý,
việc sử dụng các loại thuốc giảm đau, để làm dịu bớt sự đau đớn của người hấp
hối, ngay cả khi có nguy cơ rút ngắn cuộc sống vẫn được xem là xứng hợp với
nhân phẩm, miễn là không nhắm đến cái chết như mục đích hay như phương tiện,
nhưng chỉ được tiên đoán và chấp nhận như điều không thể tránh.
- Tuy nhiên Hội
thánh cũng có trù liệu (SGL 2278): “Có thể ngưng các phương thức trị bệnh quá tốn kém, mạo hiểm,
dị thường hoặc không tương xứng với những kết quả mong muốn”. Luân lý không
đòi buộc phải chữa bệnh với bất cứ giá nào. Chúng ta không muốn giết người,
nhưng chấp nhận không thể ngăn cản được sự chết. Chính bệnh nhân phải quyết
định nếu họ có thẩm quyền và khả năng; nếu không, việc quyết định phải do những
người có quyền theo luật pháp nhưng luôn phải tôn trọng ý muốn hợp lý và các
quyền lợi chính đáng của người bệnh.
Chân thành cám ơn cha Giuse đã giải
đáp thắc mắc liên quan đến nạo phá thai và trợ tử thể hiện quan điểm của Giáo
hội.
Kính thưa quý độc giả,
Để kết thúc, xin được chia sẻ một
thông tin quan trọng có thể một số người chưa được biết:
Thân mẫu của thánh
Gioan Phaolô II từ chối phá thai và nhờ đó Giáo hội có thánh Gioan Phaolô II
Trong một cuốn sách mới xuất bản ở
Ba Lan, tác giả Milena Kindziuk cho biết thánh Gioan Phaolô II được chào đời
sau khi bà Emilia Wojtyla, thân mẫu của ngài, chấp nhận những nguy hiểm đến sự
sống, từ chối lời khuyên phá thai của bác sĩ.
Trong cuốn sách “Emilia và Karol
Wojtyla. Thân sinh của thánh Gioan Phaolô II”, tác giả Kindziuk trưng dẫn lời
chứng của một nữ hộ sinh, bà Tatarowa, và lời kể của hai người bạn của bà, cũng
như những hồi ức của các cư dân thành phố Wadovice, sinh quán của thánh nhân. Những
chứng từ này cho thấy thân mẫu của thánh Giáo hoàng đã đau buồn khi bác sĩ Jan
Moskala khẳng định rằng bà phải phá thai.
Khi mang thai vào tháng thứ hai, thân
mẫu của thánh Gioan Phaolô II đến gặp Jan Moskala, một bác sĩ nổi tiếng về phụ
khoa và sản khoa để khám thai. Ông thấy việc mang thai của bà rất nguy hiểm và
không có khả năng mang thai đến khi sinh hoặc đứa trẻ khó sống và khỏe mạnh, và
điều tệ hơn là tính mạng của chính người mẹ sẽ bị nguy hiểm.
Tác giả cuốn sách viết: “Bà Emilia đã phải chọn lựa giữa sự sống của
chính bà và sự sống của hài nhi bà đang mang trong bụng, nhưng đức tin mạnh mẽ
đã không cho phép bà chọn phá thai. Tự sâu thẳm tâm hồn bà đã sẵn sàng hy sinh
vì sự sống đứa con bà đang cưu mang.”
Cả hai vị thân sinh của thánh Gioan
Phaolô II đã can đảm quyết định rằng dù cho chuyện gì xảy ra, đứa con đang được
thụ thai phải được chào đời. Và họ đã đi tìm một bác sĩ khác. Cuối cùng họ chọn
bác sĩ Samuel Taub, một bác sĩ gốc Do Thái sinh sống ở Cracovia. Bác sĩ này cũng
khẳng định rằng có nguy hiểm, phức tạp khi bà Emilia sinh đứa bé, thậm chí bà
có thể chết. Nhưng ông không đề nghị phá thai. Trong thời gian mang thai, bà Emilia
thường phải nằm và yếu hơn bình thường.
Thánh
Giáo hoàng Gioan
Phaolô II chào đời giữa lời kinh cầu Đức Mẹ
Đến ngày
18/05/1920, bà Emilia được một nữ hộ sinh giúp để sinh con, trong khi ông Karol
cha và cậu anh Edmund tham gia giờ cầu nguyện, đọc kinh cầu Đức Mẹ Loreto trong
nhà thờ giáo xứ ở đối diện. Bà Emilia yêu cầu mở cửa sổ để âm thanh đầu tiên mà
con trai bà nghe được là một bài hát kính Đức Mẹ. Bà đã sinh cậu bé Karol, sau
này là thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II khi tai nghe kinh cầu Đức Mẹ.
Bà Emilia qua đời khi cậu bé Karol
mới được 9 tuổi. Án phong chân phước cho hai vị thân sinh của thánh Gioan
Phaolô II đã được chính thức bắt đầu vào ngày 07/05 vừa qua (ACI 18/05/2020) – Hồng
Thủy - Vatican News
Đăng nhận xét