Phong Trần
DẪN NHẬP
Con muốn tỏ cho mẹ
cha được biết
Con đã là người với
tim óc, tứ chi
Mẹ cha đừng nghĩ,
con chẳng biết gì
Chỉ có nói là con
chưa biết nói!
[…]
Cho con ra đời –
dù không hoan hỷ
Bỏ con nơi bố thí,
viện tế bần
Dù cùng cực, sống
khốn khổ bần dân
Con muốn sống muôn
ngàn lần hơn chết!
[…]
Con lạy mẹ cha
trăm ngàn lạy nữa
Hãy để con – cho
con được sinh ra!
Ngày chào đời bằng
tiếng khóc oa oa
Chính là ngày con
vô cùng sung sướng![1]
Lời khẩn nài thống thiết trên như thay cho bao tiếng kêu cứu, van xin của những thai nhi vô tội bị tước đi quyền được sinh ra trên trái đất này. Bài thơ trên đã gióng lên một hồi chuông báo động về vấn nạn phá thai đã và đang lan rộng ra trên thế giới từ hơn hai mươi năm trước, đã từng làm thổn thức biết bao những tâm hồn có lòng trắc ẩn. Những người phò sinh thì cho rằng cần phải tôn trọng và bảo vệ sự sống con người, phá thai là một hành vi vô đạo đức, là hành động giết người nên cần phải bị lên án và nghiêm cấm. Những kẻ ủng hộ phá thai thì cho rằng đó là quyền tự do của phụ nữ, và bào thai chưa phải là một con người thật sự nên không cần phải nghĩ ngợi gì về đạo đức, luân lý…
Cùng với nạn
phá thai, an tử cũng là một vấn đề thách đố và nan giải trong thời đại hôm nay.
Những cuộc tranh luận về an tử luôn là một chủ đề nóng được nhắc đến nhiều trên
các diễn đàn đạo đức sinh học. Nhưng phải nhìn nhận rằng, việc tranh luận về
việc an tử đã và đang diễn ra trong bối cảnh mà chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa
cá nhân, và trào lưu tục hóa đang bành trướng khắp nơi, đặc biệt ở phương Tây.
Do đó, các khái niệm như quyền tự quyết cá nhân, quyền được chết, hành vi giết
người vì nhân đạo, tính chất luân lý của việc kết liễu mạng sống con người vô
tội đang có nguy cơ gây ngộ nhận và làm lung lạc những nguyên tắc luân lý cơ
bản cho con người thời đại.
Là một người
Kitô hữu, chúng ta cần phải tìm hiểu những quan điểm chính thức của Giáo hội về
hai vấn đề phá thai và an tử sao cho chính xác và rõ ràng nhất để không chỉ
giúp bản thân mình mà còn giúp cho người khác hiểu được ý nghĩa và bản chất của
hồng ân sự sống, là một món quà và là ý định của Thiên Chúa chứ không phải tuỳ
thuộc vào quyết định của con người.
I.
VẤN ĐỀ PHÁ THAI
1. Một vài số liệu
Hiện nay não trạng phá thai đã và
đang lan tràn khắp nơi. Mỗi năm trên thế giới có khoảng trên bốn mươi
hai triệu ca phá thai,
tức là bốn mươi hai
triệu em bé bị tước đoạt quyền sống, tương đương với một nửa dân số Việt Nam bị
tiêu diệt.
Chỉ riêng ở Việt Nam, dù chưa có
luật tự do phá thai vậy mà tỉ lệ phá thai cao gấp ba lần nước Mỹ, mặc dù tổng
số dân chỉ bằng 1/4 nước họ (nước Mỹ hơn 350 triệu dân, với tỉ lệ phá thai
khoảng một triệu
ca/năm). Thậm chí, con số này còn cao hơn cả tổng số ca ở các nước thuộc Liên
Minh Châu Âu cộng lại.
Theo giáo sư bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc
Phượng, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ,
TP. HCM - cho biết: thực trạng nạo phá thai rất đáng lo ngại. Mỗi năm,
tại Việt Nam, có khoảng bảy trăm ngàn phụ nữ nạo phá thai. Riêng ở TP. HCM, với khoảng bảy triệu dân, mỗi
năm có khoảng hơn một trăm ngàn ca sinh, nhưng số ca nạo phá thai cũng tương
đương. Tại Bệnh viện Từ Dũ, mỗi năm tổng số sinh khoảng 45.000 người nhưng nạo
phá thai hơn 30.000 người và tổng số 1,2-1,6 triệu ca mỗi năm. Cả nước có 5% em
gái sinh con trước 18 tuổi và 15% sinh con trước hai mươi tuổi”. Còn theo bác
sĩ Mai Hoa, Trung tâm Sức khỏe sinh sản Hà Nội cho biết, nhóm đối tượng đến phá
thai tại trung tâm khoảng 150-180 người/tháng, trong đó, số thanh niên chưa lập
gia đình chiếm khoảng 30%. Dù tất cả các trường hợp đến phá thai đều được tư
vấn, nhưng rất nhiều người quay trở lại phá thai lần hai… Còn tại khoa Kế hoạch
hóa gia đình - Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, trung bình mỗi năm có từ 12.000-15.000
ca nạo hút thai các loại. Trong số ca nạo phá thai ở tuổi vị thành niên có
60-70% là học sinh, sinh viên.
2. Vấn đề phá
thai theo quan điểm Giáo hội
Luân lý Kitô giáo không được phép
nạo phá thai. Ta hãy nhìn lại nền luân lý này, khởi đi từ Kinh thánh rồi tới Giáo
huấn của Giáo hội.
Cựu ước
Giá trị của con người được đề cập trước hết trong Sách Sáng Thế. Trong đó, ta có thể thấy tiến trình và thứ tự qua đó Thiên
Chúa sáng tạo vũ trụ, ánh sáng, bầu trời và muôn vật muôn loài. Khi đã có mọi thứ trên trái đất,
Thiên Chúa nhận thấy rằng, cần phải có con người để điểu khiển mọi loài và
Người sáng tạo con người là một sinh vật cao quý nhất trong vũ trụ.
Thiên
Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng
ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất
và mọi giống vật bò dưới đất. Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con
người có nam có nữ (St 1,26-27).
Chúng ta thấy, Thiên Chúa sáng tạo
con người giống hình ảnh Chúa để con người là hiện thân của Thiên Chúa trên
trái đất, để điều khiển những sinh vật khác. Hình ảnh của Thiên Chúa nói lên
rằng, con người có một giá trị nội tại lớn lao, luôn luôn cho thấy ân sủng của
Thiên Chúa bất kể điều gì xảy ra. Không một sinh vật nào có được đặc ân là hình
ảnh của Thiên Chúa. Điều này làm cho con người có giá trị hơn nhiều những sinh
vật khác.
Vì con người là hình ảnh của Thiên
Chúa, họ luôn luôn có giá trị “là người” tại bất cứ lúc nào. “Ai đổ máu
con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người
theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 9,6). Câu Kinh Thánh trên nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của hình ảnh Thiên Chúa trong con người. Có thể hiểu thêm rằng,
mặc dù đứa trẻ chưa được sinh ra, nó đã có
giá trị trọn
vẹn của một con người.
Trong suốt thai kỳ, đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng sức sống của người mẹ truyền cho
nó, từ khi còn là một cái phôi chưa có đủ hình ảnh của một con người, dù chưa
có đủ não, tim, tay chân… thì
nó vẫn là một sự sống. Nó đã là hình ảnh của Thiên Chúa rồi.
Trong một gia đình, đứa con là một
sợi dây liên kết giữa vợ chồng. Người chồng có thể tìm thấy trong đứa con mang
nhiễm sắc thể của mình và người vợ cũng thế. Họ nhận ra hình ảnh của mình
trong chính đứa con của họ. Đứa con sẽ mang những đặc điểm của cha mẹ, và đứa
con không những phản ánh cha mẹ nó, nhưng còn là hình ảnh của Thiên Chúa. Tình
mẫu tử là một sự thánh thiêng của chức năng làm mẹ và chức năng này thực sự là
một ân ban. Lý trí và ý chí đã có trong hình ảnh của Thiên Chúa và không cần
đợi đến khi được sinh ra để cho hình ảnh của Thiên Chúa được xác nhận rõ ràng
hơn.
Thiên Chúa ban cho con người có một
ơn trổi vượt ngay từ ban đầu: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên
Chúa phán với họ: Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị
mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St
1,28). Con người có thể tiếp tục tồn tại và họ tôn vinh Thiên Chúa bằng sự cộng
tác của mình trong việc sáng tạo. Thiên Chúa muốn con người lãnh nhận ân huệ
của Người để làm chứng cho tình yêu của Người trong vũ trụ này. Bởi đó, khi phá
thai, con người đã đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa.
Thiên Chúa chúc lành và thánh hóa
đứa trẻ từ khi nó còn trong bụng mẹ: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ
lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi” (Tv
139,13-14). Một đứa trẻ chưa được sinh ra thì đã được xem là khởi đầu cho một
sinh vật mới. Trong sách Gióp, chúng ta cũng thấy một đoạn nói về việc tạo dựng của
một thai nhi:
Chính
tay Ngài đã tạo tác nên con, chẳng lẽ Ngài đổi ý mà huỷ diệt? Xin Ngài nhớ cho:
Ngài đã tạo ra con bằng đất sét, rồi lại đưa con trở về cát bụi. Há chẳng phải
Ngài đã tạo nên con như sữa lỏng, rồi làm con đặc lại như bơ? Ngài đắp lên con
bằng da bằng thịt, rồi lấy gân lấy cốt mà dệt mà thêu. Ngài đã ban cho con tình
thương và sự sống, quan tâm đến từng hơi thở của con (G 10,8-12).
Như vậy, Thiên Chúa đã quan phòng
con người từ khi con người chưa lọt lòng mẹ. Một cách cụ thể hơn, Nicanor Pier
Giorgio Austriaco nhận định rằng “Từ giây phút thụ thai, phôi người là
con người duy nhất”[2]. Những
nghiên cứu khoa học gần đây cũng cho thấy có những dấu chỉ đáng kể về cuộc sống
con người ngay từ giây phút thụ thai. Điều này có nghĩa là một đứa trẻ chưa
được sinh ra đã thực sự là người dù cho nó còn trong bụng mẹ. Austriaco cho biết:
“Từ giây phút thụ thai, hợp tử là một con người riêng biệt”[3] và
John Rziha nói rằng: “Một người thì được xem như là người ngay từ giây
phút đầu tiên của việc thụ thai”[4].
Chúng ta biết rằng, Thiên Chúa thì
“vô thuỷ vô chung”,
nghĩa là không phụ thuộc vào thời gian. Vì
vậy, giá trị của con người cũng không phụ thuộc thời gian. Điều này muốn nói
rằng, tuổi thọ của một người không quyết định giá trị của người đó. Một đứa trẻ
hai tuổi không có hề có giá trị “người” hơn so với đứa một tuổi, bởi vì: “Trước
khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi, trước khi ngươi lọt
lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (Gr
1,5). Vì vậy, ta không thể nói phôi thai mới một tuần tuổi thì ít giá trị
“người” hơn đứa bé một tuổi.
Những suy tư triết học cũng bổ túc
cho ý tưởng này là con người đáng được tôn trọng ngay khi trong bụng mẹ.
Charles Camosy nói rằng, bất cứ hữu thể nào có bản chất lý trí thì được xem như
là người vì hữu thể đó có tiềm thể chủ động cho việc trở thành người. Một cái
cây có tiềm thể để trở thành một cái bàn, nhưng cần có một ngoại lực để làm
điều đó. Một người thợ mộc có thể làm một cái bàn từ cây, còn cái cây có tiềm
năng thụ động trở thành chiếc bàn. Trái lại, một hạt bắp có tiềm năng chủ động
trở thành cây bắp mà không cần ngoại lực. Vì thế, đứa trẻ chưa được sinh ra có
tiềm năng chủ động để trở thành một con người hoàn chỉnh[5]. Mặc dù phôi chưa là
một người hoàn chỉnh theo nghĩa có đủ chi thể, não, tim và thân mình, nhưng nó thực
sự là một con người. Một đứa bé trai không có râu, nhưng nó sẽ trở thành một
người đàn ông trưởng thành và sẽ có râu. Chúng ta không thấy râu của đứa bé đó,
không có nghĩa là nó không thể trở thành một người đàn ông trưởng thành. Khi
một đứa trẻ được sinh ra, nó chưa thể nói, nhưng chúng ta không thể kết luận là
nó bị câm. Con người cần có thời gian để phát triển và họ luôn mang hình ảnh
của Thiên Chúa dù ở bất cứ giai đoạn nào trong cuộc đời.
Tân Ước
Tin Mừng Luca cho thấy rằng, sự
sống thực sự bắt đầu từ khi Thiên Chúa có ý định, và Thánh Thần thực hiện điều
đó. Đức Maria thực sự đã cưu mang Đấng Cứu Thế khi Đức Maria thưa lời
“xin vâng” khi nhận
được sứ điệp từ Sứ thần: “Thánh Thần sẽ
ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng
Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Từ đó trở đi, Đức Maria đã
trở thành Thân mẫu của
Thiên Chúa mà không cần phải đợi tới khi Đức Giêsu được sinh ra.
Chúng ta có thể thấy điều đó với sự
xác tín rằng, phôi thai thì đã là con người trong bụng mẹ qua trình thuật Đức
Maria đi thăm viếng bà Elisabet:
Bà
Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà
được đầy tràn Thánh Thần liền kêu lớn tiếng và nói rằng: Em được chúc phúc hơn
mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (Lc 1,41).
Rõ ràng là thánh Gioan Tẩy Giả đã nghe tiếng
chào của Đức Maria và nhảy lên trong bụng mẹ. Danh từ “đứa con” đã được dùng ở
đây chứ không phải là từ “phôi thai” hay một từ nào khác. Chúng ta thấy rằng
đứa trẻ đã có cảm nghiệm được tương quan xã hội trong trình thuật này. Nếu như
“phôi thai” chỉ được xem như là một tài sản thì nó không có hành vi nhân linh
và sự cảm nhận. Sự cảm nhận của Gioan Tẩy Giả khẳng định rằng, ngài đã thực sự
là người hoàn chỉnh dù chưa lọt lòng mẹ. Đức Maria muốn viếng thăm bà Elisabet
để chúc mừng đứa con của bà chứ không phải để chúc mừng một tài sản hay bất cứ
cái gì khác. Tác giả Tin Mừng nói rõ ràng rằng, đứa trẻ đã “nhảy lên” để chào
đón Đức Maria. Điều này cũng cho thấy đứa trẻ Gioan đã hành động như một con
người, có một chiều kích xã hội với mọi người và với môi trường xung quanh dù
chưa được sinh ra.
Chương đầu của Tin Mừng Luca cũng
cho ta thấy việc con người được tạo thành là hoàn toàn do thánh ý của Thiên Chúa:
khi Thiên Chúa muốn Đức Maria thành Thân mẫu của Đấng Cứu Thế thì người lập tức trở nên
một người mẹ và Đức Giêsu trở thành một con người. Đứa trẻ không cần phải đợi
tới khi được sinh ra để được gọi là con người. Vì vậy, một đứa trẻ trước khi
sinh ra là một hồng ân của Thiên Chúa, một giao ước Thiên Chúa thực hiện với
con người.
Một đứa trẻ, dù chưa chào đời vẫn
được xem như một con người thực sự rồi. Chúng ta có thể nhận ra điều đó ngay
trong cuộc sống đời thường. Khi một phụ nữ mang thai, những người bạn và họ
hàng của cô thường hỏi thăm đứa trẻ như thế nào, con trai hay con gái, là con
thứ mấy trong gia đình... Người ta không hỏi đó là “cái phôi” hay “hợp tử thứ
mấy” nhưng hỏi là “đứa con thứ mấy” trong gia đình. Các cặp vợ cũng chồng
thường nói với nhau: “Chúng ta phải chuẩn bị một số thứ để chăm sóc đứa con của
chúng ta” chứ không nói: “chúng ta chăm sóc cái phôi…”. Mặc dù đứa bé vẫn ở
trong bụng mẹ, nhưng người ta thường dùng chữ “đứa trẻ” hay “đứa con” để nói về
nó. Như thế, ngay cả trong ngôn ngữ hằng ngày cũng phản ánh một thực tại là
“phôi thai” đã thực sự là một đứa trẻ, là sự sống.
Theo Giáo huấn của Hội Thánh
Giá trị của sự sống rất đáng quý và
giáo lý Giáo hội Công giáo khẳng định điều này:
Sự
sống con nguời phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai.
Ngay từ giây phút bắt đầu hiện hữu, con người phải được kẻ khác nhìn nhận các
quyền làm người, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi
người vô tội (GLHTCG, số 2270).
Con người, đặc biệt là những người
Công giáo, phải tuân theo điều luật này và tôn trọng sự sống để hoàn thành những
điều mà Thiên Chúa muốn con người thực hiện.
Giáo hội Công giáo dạy rằng, con
người có linh hồn và thân xác. Tuy nhiên, Giáo hội không trả lời chắc chắn là
khi nào thì một người có linh hồn. Mặc dù khoa học cũng không thể chứng minh
thực nghiệm khi nào thì linh hồn được phú vào trong con người. Kết luận của
khoa học về phôi người cũng cho thấy những dấu chỉ đáng kể về việc sử dụng lý
trí của phôi ngay từ lúc mới thụ thai. Làm sao một người có thể trở thành một
con người nếu trước đó anh ta đã không phải là người? Thật vậy, một cái phôi
không thể là một con người nếu nó không phải là con người trước đó. Người ta
phải cần đối xử với những cái phôi như những con người thực sự. Người ta có thể
gây ra một cái chết oan uổng cho một phôi người nếu người ta chỉ xem chúng
không phải là những con người. Nói cách khác, thậm chí chúng ta không biết
chính xác khi nào chúng ta có linh hồn thì chúng ta vẫn phải tôn trọng sự sống.
Có thể là một cái phôi có linh hồn có nghĩa là chúng ta phải tôn trọng sự sống
của nó.[6]
Trong Thông điệp Tin Mừng
về sự sống, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nhận định rằng, nghiên cứu của
khoa học trên phôi người cũng cho những bằng chứng rằng sự sống của con người
bắt đầu từ lúc thụ thai. Tuy nhiên, Giáo hội cũng khẳng định rằng, nghiên cứu khoa
học thì chưa đủ quyết định khi nào sự sống bắt đầu vì con người còn có linh hồn
ngoài thân xác. Khoa học không thể nói về linh hồn. Đó là tại sao chúng ta
không thể chỉ dựa vào khoa học để kết luận khi nào sự sống con người bắt đầu (Xc. Thông điệp Tin Mừng sự sống,
số 60).
II. VẤN ĐỀ AN TỬ
3. An tử là gì?
Thuật
ngữ Euthanasia, Euthanasie bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp (“Eu”nghĩa là cao quý, còn “thanatos” nghĩa
là chết), Euthanasie được hiểu là “cái
chết êm ái” hay “cái chết hạnh phúc, chết
không đau đớn”, nhằm nói đến cái chết của những người già yếu, bệnh tật, chết
bằng cách uống thuốc độc.
Từ điển Công
giáo thì giải thích: “An: sự thư thái ; Tử: chết. An tử: chết một
cách thư thái, nhẹ nhàng. Vậy, an tử còn gọi là chết êm dịu, là hành vi chủ
động (làm cho chết) hay thụ động (không dùng các phương tiện khả dĩ) nhằm kết
thúc sự sống của những người bệnh không còn hy vọng được chữa lành, chấm dứt sự
đau khổ do bệnh tật gây nên”.[7]
Đức Gioan Phaolô
II thì định nghĩa:
Chết
êm dịu nghĩa là một hành động hay một sự bỏ qua mà tự nó và ý hướng gây ra cái
chết, với mục đích xóa bỏ mọi đau khổ. Đó là hành vi làm cho người nào đó chết
một cách không đau đớn do những bệnh tật nan y vô phương cứu chữa.[8]
Ý nghĩa “chết êm dịu” thay đổi vào thế kỷ
XVII, thuật ngữ euthanasia chỉ
những hành vi của thầy thuốc để làm giảm đau đớn cho bệnh nhân đang hấp hối. Vì
thế, an tử còn gọi là chết êm dịu (euthanasia) mặc lấy nghĩa là trợ giúp cho cá
nhân được chết sớm hơn hoặc tự tử. Sang thế kỷ XX, ngoài việc trực tiếp làm cho một bệnh nhân mắc bệnh nan y chết êm dịu
theo ý muốn của người ấy, từ euthanasia
còn mang một ý nghĩa rộng hơn, tiêu cực hơn và ám chỉ việc trực tiếp làm cho
những bệnh nhân mắc bệnh nan y hoặc bị điên phải chết ngoài ý muốn của họ. Phương
pháp này đã được Đức Quốc Xã thực hiện rộng rãi, cho đó là hợp lý và hợp pháp.
Hậu quả là Đức Quốc Xã tàn sát tập thể những người già yếu, thiểu năng tâm lý
và khuyết tật thể lý. Kể từ đó, ý niệm về cái chết tự nguyện và không tự nguyện
trở nên quan trọng hơn cho việc định nghĩa hai từ “an
tử” (chết êm dịu).
Vì thế, để có
định dễ hiểu ta cần phải phân biệt: an tử chủ động và an tử thụ động.[9]
An tử chủ động: nghĩa là bệnh
nhân còn tỉnh táo để quyết định xin được chết sớm hơn, thường là bác sĩ, y tá hay người nhà bệnh
nhân giúp bệnh nhân tìm đến cái chết. Luân lý và truyền thống Giáo hội Công
giáo còn phân biệt chết êm dịu chủ động tự
nguyện (voluntary active euthanasia) và chủ động
không tự nguyện (non- voluntary active euthanasia).
An tử chủ động tự nguyện: là việc “cố ý
giết chết bệnh nhân hấp hối” theo yêu cầu rõ ràng và sự ưng thuận hoàn toàn của
bệnh nhân. Trường
hợp này còn gọi là tự tử với sự trợ giúp của thầy thuốc (physician assisted
suicide). Thí dụ: bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, không còn hy vọng điều trị
hồi phục, không muốn kéo dài tình trạng đau đớn, và yêu cầu bác sĩ tiêm cho
mình liều cao thuốc morphine để chết. Bác sĩ đồng ý và thực hiện điều này.
An tử chủ động
không tự nguyện: là những người không còn có khả năng bày tỏ sự ưng thuận cách
tự do và không hiểu biết về những gì sẽ xảy ra cho mình, như người bệnh tâm
thần, bệnh nhân tình trạng thực vật, hôn mê sâu. Thí dụ bệnh nhân ở trạng thái
thực vật vài năm, gia đình yêu cầu bác sĩ tiêm thuốc cho bệnh nhân chết, bệnh
nhân không hề biết cái chết đang xảy ra cho mình.
An tử thụ động: là việc mà
khi bệnh nhân hôn mê, trẻ sơ sinh chưa có ý thức được bác sĩ, ý tá hay một
người nào đó giúp đỡ để cái chết được đến sớm hơn. Có nghĩa là “để cho chết”,
tức là không điều trị hoặc đình chỉ điều trị nhằm kéo dài sự sống, vì thế bệnh nhân
sẽ chết vì bệnh hoặc vì chấn thương. Với ý nghĩa hiện đại của nó, an tử thụ động còn được định
nghĩa là một hành vi cố ý giết chết những người bị bệnh hoặc bị chấn thương ở
mức vô vọng vì lý do nhân đạo. Cuối cùng, thuật ngữ euthanasia còn được dùng với ý nghĩa đặc biệt để nói việc “giết
người vì thương xót”, có nghĩa là nhằm chấm dứt nỗi đau hay giúp trẻ sơ sinh
bất thường, những người tâm thần và những bệnh nhân vô phương cứu chữa được
chết sớm.
Khái niệm trên cho ta thấy rằng,
hành vi giết người cách êm dịu là một hành động hay một sự bỏ sót với ý định
gây ra cái chết cách nhanh chóng cho một người để tránh mọi đau đớn cho người
ấy.[10]
An tử khác với
quyết định khước từ việc “bám riết điều trị”. Không phải là an tử khi từ chối
các can thiệp của y khoa khi nhận thấy những can thiệp này không còn tương hợp
với tình trạng thực tế của bệnh nhân, không cân xứng với bất cứ kết quả nào mà
người ta có thể chờ mong, và tạo ra gánh nặng quá mức trên bệnh nhân và gia
đình. Giáo hội dạy trong những trường hợp như thế, khi biết cái chết đang gần
kề và rõ ràng không tránh khỏi, với lương tâm có thể khước từ những biện pháp
điều trị vốn chỉ bảo đảm kéo dài đời sống nặng nhọc và mong manh, nhưng vẫn
phải tiếp tục những chăm sóc bình thường phải có cho bệnh nhân, phải cung cấp
cho họ những phương tiện điều trị thông thường. Thật vậy, bỏ qua các can thiệp
hay điều trị ngoại thường thì không phải là an tử, việc này “có thể xem là hợp
pháp” và “theo cách này, ta không
muốn đưa đến cái chết, nhưng chấp nhận vì không thể ngăn cản được cái chết” (GLHTCG, số 2278).
An tử khác với trợ tử
(physician-assisted suicide: tự tử với sự trợ giúp của bác sĩ). Cũng giống như
an tử là sự trợ giúp của bác sĩ trong việc kết liễu mạng sống của người bệnh,
nhưng khác biệt ở mức độ tham gia của bác sĩ. Với an tử, bác sĩ là người thực
hiện “hành vi cuối cùng”, thường là một mũi tiêm; họ đóng vai trò chính yếu, là
nguyên nhân gây ra cái chết cho bệnh nhân. Còn với trợ tử, bệnh nhân đóng vai
trò chính yếu khi họ là người thực hiện việc tiêm thuốc hay uống thuốc để gây ra cái chết, vai trò của bác sĩ chỉ là phụ
thuộc. Dù có khác biệt về chủ thể hành động, nhưng cả hai trường hợp đều có sự
yêu cầu trợ giúp của bệnh nhân và ý hướng nhắm đến là kết thúc mạng sống của người
bệnh để loại bỏ đau khổ do bệnh tật gây ra[11].
Theo nghĩa này, an tử và trợ tự cũng không khác biệt nhau về bản chất.
4.
Quan
điểm của Giáo hội về vấn đề an tử
Về phần mình, Giáo hội cho rằng, an tử là hành vi trái luân lý và
không thể được đề nghị làm giải pháp kết thúc sự đau khổ của bệnh nhân vô
phương chữa trị hoặc của người hấp hối. Đây là hành vi cần phải được gạt bỏ.
Để chống lại quan điểm ủng hộ chết
êm dịu và bác bỏ việc hợp thức hoá nó, trước hết, Giáo hội căn cứ trên nhân
phẩm con người và giá trị của sự sống như đã được nói tới trong Kinh Thánh. Sau
nữa, Giáo hội cũng tái khẳng định rằng, mạng sống con người là một “tài sản
được Thiên Chúa tín thác” chứ không phải là “tài sản sở hữu” thuộc quyền kiểm
soát của con người.
Sự sống của con người là do Thiên
Chúa tặng ban và phải được nuôi dưỡng, phát triển và bảo vệ như ý Chúa muốn.
Giáo lý Hội Thánh Công giáo cho biết: “Chỉ có Thiên Chúa là Chúa của sự sống,
từ khi sự sống khởi đầu cho tới khi kết thúc: không ai, trong bất cứ hoàn cảnh
nào, có thể dành cho mình quyền trực tiếp đem cái chết đến cho một thụ tạo nhân
linh vô tội” (GLHTCG, số
2258). Phát xuất
từ cội nguồn và định mệnh cao cả ấy, quyền được sống của con người là một thực
tại bất khả nhượng và bất khả xâm phạm.
Đứng trước những tranh luận, đặc
biệt khi phải đối diện với những tổ chức hay cá nhân tán thành hành vi làm chết
êm dịu, Bộ Giáo lý Đức tin giải thích cách rõ ràng rằng:
Cần
phải khẳng định mạnh mẽ một lần nữa, rằng, không ai hoặc không
điều gì bằng bất cứ cách thức nào, có thể cho phép việc giết chết
con người vô tội, dù đó là phôi, thai, hài nhi, người trưởng
thành, người già, người khổ đau vì bệnh nan y vô phương cứu chữa
hay người hấp hối. Ngoài ra, không ai được phép yêu cầu hành vi
giết người này, dù là cho chính mình hay cho người được ủy thác
cho mình coi sóc. Cũng không được chấp thuận hành vi này, dù là
minh nhiên hay mặc nhiên. Không một quyền bính nào được lấy pháp
luật mà khuyên làm hoặc cho phép làm một hành vi như thế. Bởi lẽ
đây là sự vi phạm thiên luật, là sự xúc phạm phẩm giá con người,
là tội ác chống lại sự sống và là sự tấn công vào cộng đồng nhân
loại[12].
Tính thánh thiêng của sự sống được
diễn tả như sự “tôn trọng sự sống”, “phẩm giá của sự sống con người”, “giá trị
của sự sống con người”, thậm chí là “quyền được sống”. Vậy, những nguyên tắc
này có nguồn gốc từ đâu? Quả thật, mặc khải của Thiên Chúa đã trả lời cho ta
vấn nạn này khi nói: “Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa”
(St 1, 26-27). Huấn thị Donum vitae cho biết: “Sự sống con người là
thánh thiêng, bởi vì ngay từ nguồn gốc, nó bao hàm hành động sáng tạo của Thiên
Chúa và mãi mãi nằm trong một mối quan hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, cứu cánh
duy nhất của nó.”[13]
Sự sống là một thực tại thánh thiêng, do đó nó cũng mang tính
bất khả xâm phạm. Giết chết con người, dù ở trong tình trạng nào và bằng cách
thế nào cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đàng khác, theo giáo huấn của
Kitô giáo, khi nói đến tính thánh thiêng của sự sống là nhấn mạnh đến khía cạnh
thụ tạo của con người. Là vật được tạo thành, tuyệt nhiên, con người không có
quyền làm chủ mạng sống và thân xác mình. Con người chỉ giữ nó như tài sản tín
thác dành cho những mục đích của Thiên Chúa. Cũng trong tinh thần ấy, Paul
Ramsey nhấn mạnh rằng, sự thánh thiêng của
sự sống không phải là những giá trị tốt đẹp mà con người gán cho sự sống, nhưng
giá trị tiên vàn của nó hệ tại ở mối liên hệ giữa sự sống với Thiên Chúa.[14]
Đức Gioan Phaolô II cũng cho biết:
Sự
sống trên trần thế vẫn là một thực tại thánh thiêng được trao phó cho chúng ta,
để chúng ta giữ gìn với ý thức trách nhiệm và để chúng ta đưa nó đến mức hoàn
thiện trong tình yêu và trong sự hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa và cho anh
chị em chúng ta
(Thông điệp Tin Mừng sự sống, số 2).
Thánh Augustinô khẳng định:
Không
bao giờ được giết kẻ khác, dù chính họ muốn thế hoặc nhất là do chính họ yêu
cầu, bởi vì bị chới với giữa sống và chết, họ van xin được giúp đỡ để giải
phóng linh hồn đang đấu tranh chống lại các mối giây ràng buộc với thân xác và
muốn thoát khỏi nó, cả đến bệnh nhân trong tình trạng không hy vọng sống được
nữa, tự sát vẫn không được phép”[15].
Tính thánh thiêng của sự sống không
tuỳ thuộc vào sự đánh giá về phẩm chất sống hay dựa vào thành tích của con
người, nhưng đó là vì tình thương yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Phẩm
giá con người là không thể chuyển nhượng, không thể thương lượng, không bắt nguồn
từ thành tựu cá nhân hay phẩm chất xã hội, nhưng từ chính tình yêu Thiên Chúa,
Đấng tác tạo chúng ta theo hình ảnh Người (Xc. St 1, 26-27).
Theo nguyên tắc luân lý, mọi người,
dù trong hoàn cảnh nào, cũng không được tiếp tay với người khác để làm một việc
vô đạo đức. Cũng vậy, lòng thương hại không cho phép chúng ta tiếp tay với
người bệnh để thực hiện một hành vi “suy đồi” về mặt luân lý, vì khi làm chết
êm dịu là chúng ta giúp người bệnh chạy trốn cách ích kỷ trách nhiệm đối với
cuộc sống và chống lại sự thánh thiện của sự sống con người. Biết rằng, khi đối
mặt với đau khổ ai mà chẳng lo sợ! Thế nhưng, ai có thể lẫn trốn được khổ đau?
Bởi vì đau khổ thuộc về bản tính con người. Cũng biết rằng trên thực tế, sự đau
khổ của con người tự nó không phải là một giá trị, thậm chí nó cần phải được đào
thải sớm bao nhiêu có thể, nhưng với những kẻ tin, nó lại có ý nghĩa cao siêu
khi sự đau khổ ấy được nối kết trong đức tin; vì thế, đau khổ không hề làm giảm
giá trị nhân phẩm con người. Cũng trong đức tin, người Kitô hữu còn được phép
được chết, cái chết này không phải để tránh né đau khổ hay trốn tránh trách
nhiệm đối với cuộc sống, nhưng vì cái chết bây giờ đã trở nên như con đường
phải đi qua để được kết hợp với Đức Kitô Tử nạn và Phục sinh và để được tháp
nhập sâu hơn vào mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa.
Sống và chết đều thuộc về Thiên
Chúa, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban
sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý” (Ga 5,
21). Như thế, ai can thiệp để làm cho cái chết mau đến hay ngưng điều trị để
cho bệnh nhân chết là vi phạm đến quyền của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tác
giả sự sống và sự chết. Do đó, thời điểm kết thúc sự sống thuộc về Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Chúa của sự sống và
sự chết. Xác tín này khẳng định rằng,
Giá
trị tột đỉnh và tính thánh thiêng của sự sống con người là từ Thiên Chúa mà
đến. Tuyên xưng Thiên Chúa là chúa của sự sống và sự chết, tức là khẳng định sự
phân biệt nền tảng giữa Tạo Hoá và thụ tạo, đồng thời khẳng định rằng con người
nhờ Thiên Chúa mới có được sự hiện hữu.[16]
Nhà luân lý Bernard Haering cũng
nói rằng:
Sự
sống con người là tặng vật thiêng liêng của Thiên Chúa; sự sống được ký thác cho
sự tự do và đồng trách nhiệm của con người. Con người không phải là chủ nhân
độc lập của sinh mạng mình, nhưng là người quản lý dưới quyền chủ tể của Thiên
Chúa.[17]
Paul Ramsey nói thêm rằng:
Chúng
ta phải tôn trọng sự sống của mình và của người khác, không chỉ vì sự sống được
đặt nền tảng nơi Thiên Chúa mà còn vì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống
như một giá trị tín thác để sử dụng theo ý của Ngài.[18]
Nguyên tắc quyền làm chủ và quyền
quản lý sự sống cũng được tìm thấy nơi thánh Tôma Aquinô, thánh nhân dạy rằng:
Duy
Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, có quyền chủ tể đối với sự sống và sự chết. Về phương
diện luân lý, việc hủy hoại sinh mạng con người không thuộc quyền phán đoán tự
do của con người. Con người chỉ có quyền sử dụng chúng như “tài sản tín thác”
hay như “tặng vật” từ Thiên Chúa, chứ không có quyền làm chủ nó như “tài sản sở
hữu riêng”. Vì thế, trách nhiệm của chúng ta đối với sự sống là trách nhiệm của
người quản lý.[19]
Tôn trọng sự
sống chính là cùng đồng hành với bệnh nhân chứ không phải là loại trừ họ; giúp
họ ý thức rõ hơn về phẩm giá của sự sống cho dù họ đang phải chịu đau đớn tột
cùng, chứ không phải thương hại bằng cách tìm đến cái chết. Giáo hội không thể
chấp nhận lối cắt nghĩa giết chết vì thương hại; và mọi hình thức giết người
đều xúc phạm đến Tạo Hóa. Đó là điều đã được nói tới trong Công đồng Vaticanô
II:
Tất
cả những hình thức xâm phạm đến mạng sống, như giết người với bất cứ hình thức
nào, diệt chủng, phá thai, giết chết êm dịu, hoặc tự tử trực tiếp… tất cả những
điều nói trên và những điều tương tự đều thực sự ô nhục… Trong khi làm thối nát
nền văn minh nhân loại, tất cả những điều trên lại bôi nhọ chính những kẻ chủ
động hơn là bôi nhọ những kẻ phải chịu sự nhục mạ, đồng thời xúc phạm nặng nề
đến uy danh của Đấng Tạo Hoá” (Hiến chế Gaudium et Spes, số 27).
Mặc dù không nói đến những hình phạt,
nhưng Công đồng vẫn tiếp tục lên án hành vi này là: “những tội đi ngược với
chính sự sống như giết người, diệt chủng, phá thai, an tử và trợ tử trực tiếp.”
Đề cập đến vấn đề này, Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 2276 đưa ra một giáo huấn rất rõ
ràng là phải chăm sóc và bảo vệ sự sống: “Phải đặc biệt tôn trọng sự sống
của những người tàn tạ, yếu ớt. Những người bệnh hoạn hoặc khuyết tật phải được
nâng đỡ để sống một cuộc sống bình thường, bao nhiêu có thể”.
Trước vấn đề làm chết êm dịu, Đức
Gioan Phaolô II đã nêu lên một số nét đặc trưng của “nền văn hoá sự chết” như
thói quen tìm cách can thiệp vào lúc khởi đầu của sự sống con người, xu hướng
chỉ đánh giá sự sống con người theo chiều kích kinh tế và sinh lý, xu hướng tôn
thờ của cải vật chất và khoái lạc, xem đau khổ và sự chết như những thực tại
phi lý. Ngài kêu gọi cấp
bách cần phải có những phản ứng đúng đắn về phía Giáo hội, đó là phải tái khám
phá các khái niệm Kitô giáo về sự sống, đau khổ, cái chết, Nước Thiên Chúa, ơn
gọi và sứ mạng làm người cũng cần tái xác nhận các giá trị Kitô giáo cơ bản về
con người, gia đình, nghề nghiệp trong tinh thần cộng tác với mọi người thiện
chí. Với tinh thần ấy, trong Thông điệp Tin Mừng Sự Sống, ngài long trọng xác quyết:
Am
hợp với quyền giáo huấn của các vị tiền nhiệm của tôi và trong mối hiệp thông với
các giám mục của Giáo hội Công giáo, tôi xác nhận rằng việc làm chết êm dịu vi
phạm nghiêm trọng Lề luật của Thiên Chúa, xét như nó là việc giết chết một con
người cách cố ý và không thể chấp nhận về mặt luân lý. Đạo lý này đã được viết
ra dựa trên cơ sở lề luật tự nhiên và trên Lời của Thiên Chúa; nó được truyền
thống Giáo hội truyền lại và được quyền giáo huấn thông thường phổ quát giảng
dạy. Tuỳ theo trường hợp, một cách làm như thế bao hàm tính độc hại đặc thù của
việc tự sát hoặc là việc giết người (Thông điệp
Tin Mừng sự sống, số 65).
Mặt khác, Đức Giáo hoàng còn khẳng
định rằng, làm chết êm dịu là lỗi phạm nặng nề luật của Thiên Chúa, trái với
luân lý. Tuyên bố của ngài cũng loại bỏ sự cộng tác mô thể hay việc tham gia ý
kiến vào quá trình thực hiện hành vi chết êm dịu (Xc. Thông điệp Tin Mừng sự sống,
số 66-74).
Truyền thống Giáo hội luôn mạnh mẽ
và kiên định trong lập trường của mình, sẵn sàng lên án mọi hành vị xúc phạm tới
mạng sống vô tội, bất kỳ đó là ai và ở trong hoàn cảnh nào, trong đó có trường
hợp làm chết êm dịu, dù là chủ động hay thụ động. Tất cả hành vi làm chết êm
dịu, dù dưới danh nghĩa nào, cũng đều có tính chất hủy hoại sự sống đã được
Thiên Chúa ủy thác, nhất thiết phải được loại bỏ.
TẠM KẾT
Giáo hội không chấp nhận bất cứ
hình thức phá thai nào trừ khi có lý do chính đáng phù hợp, và nguyên tắc song
hiệu được áp dụng ở đây. Khi đứa trẻ ở trong bụng mẹ, Thiên Chúa đã sáng tạo và
phó thác nó cho người mẹ. Vì thế, nó là sự thánh thiêng của tình mẫu tử mà
người phụ nữ cần giữ gìn và họ nên hợp tác với Thiên Chúa trong việc duy trì sự
sống.[20] “Quyền được sống và
được toàn vẹn thân thể mà mỗi thụ tạo nhân linh được hưởng, từ lúc tượng thai
cho đến khi chết.”[21]
Đây là quyền bất
khả nhượng của nhân vị phải được xã hội dân sự và công quyền nhìn nhận và tôn
trọng, quyền này thuộc về bản tính con người và gắn liền với nhân vị do chính
hành động tạo dựng, là nguồn gốc của con người. Thật vậy, một đứa trẻ dù chưa
được sinh ra thì đã là một người vô tội và nó có quyền sống.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
cũng nêu rõ:
Mọi
người, từ trong lòng mẹ, đã thuộc về Chúa là Đấng tìm kiếm và biết họ… Đấng dõi
theo họ ngay từ khi họ mới chỉ là những phôi chưa thành hình dạng, đã nhìn thấy
nơi họ những con người của tương lai với năm tháng ngày giờ, và ơn gọi của họ
đã được viết trong Sách sự sống.” (Thông điệp Tin Mừng sự sống, số 61).
Còn về vấn đề an tử (euthanasia), GLHTCG dạy rằng: “Cái chết êm dịu trực tiếp, với bất
cứ lý do nào hoặc dùng phương tiện nào, cốt tại chấm dứt sự sống của những
người tật nguyền, bệnh hoạn hoặc hấp hối. Về phương diện luân lý, việc này
không thể chấp nhận được”
(số 2277) và “Tội này nghịch lại cách nghiêm trọng với phẩm giá của nhân vị,
và với sự tôn trọng Thiên Chúa hằng sống, Đấng Tạo Hoá của con người” (số
2324); “Cái chết êm dịu
(euthanasia) có chủ ý, với bất cứ hình thức và lý do nào, đều là tội giết
người. Tội này nghịch lại cách nghiêm trọng với phẩm giá và nhân vị, và với sự
tôn trọng Thiên Chúa hằng sống, Đấng Tạo Hoá của con người” (số 2324).
Đó là những quan điểm rất rõ ràng
của Hội Thánh về vấn đề bảo vệ sự sống con người, thụ tạo đã được Thiên Chúa
dựng nên giống với hình ảnh Thiên Chúa.
[1] Xuân Vũ Trần
Đình Ngọc, “Tiếng
kêu cứu của thai nhi”, https://www.vanthoconggiao.net/2019/10/tho-song-ngu-tieng-keu-cuu-cua-thai-nhi.html,
truy cập ngày 01/8/2021.
[2] Nicanor Pier Giorgio Austriaco, Biomedicine
and Beatitude: An Introduction to Catholic Bioethics (Washington, DC: Catholic
University of America Press, 2011), 51.
[3] Ibid, 53.
[4] John Rziha, The
Christian Moral Life: Directions for the Journey to Happiness, 1 edition
(Notre Dame, IN: University of Notre Dame Press, 2017), tr. 244.
[5]Charles C.
Camosy, Peter Singer and Christian Ethics: Beyond Polarization (Cambridge:
Cambridge University Press, 2012), 34-39.
[6] Austriaco, Biomedicine
and Beatitude, 69-70.
[7] Ủy Ban Giáo lý Đức tin- Hội đồng
Giám mục Việt Nam, Từ Điển Công giáo, “An tử”, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2016.
[8] Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Salvifici Doloris, 9.
[9] Lm. Phêrô Trần Mạnh
Hùng, An tử và Trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân Lý,
Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2004, trang 56.
[10] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên
ngôn về An Tử, AAS 72 (1980), 542-552.
[11]Xc. Lm. Phêrô Trần Mạnh
Hùng, An tử và Trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân Lý,
Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2004, trang 80.
[12] Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên
ngôn về An Tử, AAS 72 (1980), 554.
[13] Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn
thị Donum vitae, số 5.
[14]Paul Ramsey, The
Morality of Abortion, New York 1982, 78
[15] Thánh Augustinô, Thư 204, 5; CSEL 57, 320
[16] Lm. Phêrô Trần Mạnh
Hùng, Sđd., trang 114
[17] B. Haring, Free and
Faithuful in Christ, Vol. III. 1981, 5.
[18] Paul Ramsey, The
Morality of Abortion, trong Lm. Phêrô Trần Mạnh Hùng, Sđd.,
trang 115.
[19] Thomas Aquinas, Summa
Théologica, II-II,q. 64, a. 5.
[20] Bayertz, Sanctity of
Life and Human Dignity, 1-18
[21] Bộ Giáo lý
Đức Tin, Huấn thị Donum Vitae, 3: AAS 80 (1988), 98-99.
Đăng nhận xét