Thomas Thiện Nguyễn Văn Chiến,
Dòng Xitô Mỹ Ca
Từ đó, người ta dễ dàng đi đến phá
thai, tự sát và tìm đến an tử như một quyền lợi. Người ta dễ dàng chà đạp nhân
phẩm của nhau chỉ vì lợi ích của cá nhân mình. Con người làm như thế mà không
biết mình đang cổ xúy cho một lối sống thiếu đạo đức, thiếu tình thương, họ tự
lao vào một nền văn hóa của sự chết. Sống như vậy, chúng ta còn là một con
người nhân linh nữa chăng hay chỉ là một thú vật không hồn? Cuộc sống còn ý
nghĩa gì khi ai cũng lo tìm kiếm thỏa mãn những đòi hỏi vật chất, những cuộc
vui giả tạo và niềm hạnh phúc chóng qua? Con người dùng lý trí và ý chí tự do
Chúa ban chỉ để tạo ra những giá trị vật chất để hưởng dùng mà không biết làm
đẹp con người của mình bằng những giá trị thiêng liêng cao quý.
Công việc ưu tiên của các nhà định
hướng giáo dục là nhằm tìm khẳng định phẩm giá cao quí của con người và quyền
được sống xét con người như một ngôi vị. Cụ
thể là tôn trọng sinh mạng con người ngay từ lúc thụ thai cho đến phút nó kết
liễu tự nhiên.[1]
Như vậy, an tử sẽ ảnh hưởng đến phẩm giá con người như thế nào? Bài viết này
xin được trình bày: An tử – ảnh hưởng đến
nhân phẩm, xét con người như một ngôi vị. Bài viết đặc biệt đi sâu vào một
số trường hợp cụ thể nhằm rút ra một vài tâm lý của người bệnh khi đối diện với
an tử, tại sao đương sự muốn kết liễu sớm sự sống của mình.
I.
CON NGƯỜI XÉT NHƯ MỘT NGÔI VỊ
1.
Nhân vị
Thánh Irênê phát biểu: “Vinh quang Thiên Chúa là con người được
sống”. Không chỉ có thế, con người phải hoàn tất ơn gọi làm người với một
nhân vị hoàn bị trong tiến trình phát triển nhân bản của nhân loại. Vì thế,
chúng ta cần xác định lại, con người không phải là một con vật cũng chẳng phải
Thiên Thần, nhưng là một nhân vị cá biệt độc đáo.
Như chúng ta đã biết, lập trường
nhân vị là lập trường chủ trương lấy con người làm trung tâm và nền tảng cho
mọi thực tại. Cũng có thuyết chủ trương duy nhân quan niệm hạnh phúc con người
cốt ở chỗ làm thoả mãn tối đa những nhu cầu cho cá nhân và cho đại đa số quần
chúng, bằng cách làm gia tăng thoả mãn và sung túc tức thời cho đời sống; đồng
thời, cố gắng tìm mọi cách để giảm đi sự bất mãn, cực khổ và thiếu thốn[2].
Nếu bệnh nhân đang trong tình trạng đau khổ cũng chủ trương như thế, nghĩa là
tìm thoả mãn bản thân và tránh đau khổ thì dễ tìm đến an tử như giải pháp cuối
cùng giải quyết tình trạng khốn quẫn. Vì vậy, trên lý thuyết cũng như trong
thực tiễn, chúng ta không thể chấp nhận lập trường này. Vì như thế là phản nhân
vị, thay vì nhân vị giúp tự thể hiện chính mình lại đánh mất chính sự sống con
người là nền tảng và nguồn phát sinh nhân vị.
Thật vậy, thuyết nhân vị hiện thực,
nhìn nhận nơi mỗi nhân vị một duy nhất tính, một toàn thể hợp nhất xác hồn.
Chính cái toàn thể duy nhất ấy tạo nên giá trị khách quan mà mỗi chủ thể phải
đảm nhận và công nhận nơi chính mình hoặc nơi nhân vị khác[3].
Điều này giúp ta nhận định đúng đắn trước thực tại xem ra bất lực nơi bệnh nhân
nhưng nơi họ vẫn bảo tồn một nhân vị trọn vẹn và phải dành cho họ một sự tôn
trọng xứng đáng trong việc chăm sóc và tiếp xúc trực tiếp với họ.
Rõ ràng, con người sở hữu một bản
chất tinh thần mà tự nó hướng về vô biên. Nhưng nếu bệnh nhân tìm đến an tử thì
không phải là chọn lấy cái chết như một sự thiện hảo hơn đau khổ mà là một tình
trạng trốn tránh thực tại. Và như thế, họ đánh mất chính mình, khước từ sự hiện
hữu cá vị của bản thân, cái làm cho họ thực sự là nhân vị. Con người là hữu thể
mang giá trị cao cả, cứu cánh tự thân. Nên việc tìm đến an tử mặc nhiên bệnh
nhân tự coi thân xác mình như một phương tiện nhằm phục vụ cho một thiện ích
trá hình nào đó, trong khi thân xác được liên tục duy trì trong hiện hữu bởi
linh hồn, thân xác chỉ trung thành biểu hiện những trạng thái tinh thần. Như
thế, khi bệnh nhân tìm đến cái chết êm dịu; đồng thời, phủ nhận giá trị của
nhân vị nơi chính hữu thể mình.
Và điểm cuối cùng ta bàn đến, nhân
vị là hiện hữu và vẫn còn phải kiện toàn. Nó là một bản thể hiện hữu trong, cho
và bởi chính mình, một nguyên lý thường hằng của những hoạt động thân xác. Do
nhân vị vẫn còn phải kiện toàn nên từ lúc thụ thai đến lúc chết tự nhiên, tự nó
là một tiến trình biến đổi và hướng đến hoàn thiện. Đã hẳn, hoàn thiện không
chỉ trong sự trưởng thành thể lý và tâm lý mà còn trong sự phát triển luân lý
tự do; nhờ đó, nhân vị quyết định điều gì cho chính mình. Chúng ta dám quả
quyết rằng: Không ai có quyền ép buộc trên nhân vị khi tự do thực hành những
quyết định của mình và chính Thiên Chúa cũng tôn trọng sự độc lập cá biệt của
nhân vị ấy. Điều này đòi hỏi nơi con người, cách riêng các bệnh nhân luôn phải
sáng suốt lựa chọn nhằm phục vụ tính nhân bản toàn diện. Nên do cách thức nhân vị đáp trả mà lựa chọn cá nhân quyết
định ý nghĩa đời sống, giá trị chân thật và định mệnh vĩnh cửu của nó.
Để kết thúc phần này, cần ghi nhận
lời phát biểu chí lý của một triết gia hiện đại: Điều quan trọng không phải là “để chiếm hữu được nhiều hơn”, nhưng là
“để hiện hữu cách phong phú hơn”. Cả một đời sống “để chiếm hữu nhiều hơn”, giờ đây nằm bất động, họ “hiện hữu cách phong phú hơn” trong sự
cảm nghiệm sâu xa những giá trị nhân bản mà chỉ những năng lực tinh thần mang
lại. Sự hiện hữu đích thực hệ tại giá trị nhân vị con người. Nhưng điều gì
quyết định giá trị nhân vị?
2.
Nhân phẩm
Giá trị
Theo Emmanuel Kant, phẩm giá con
người là tiền đề cho bất cứ điều gì có giá trị. Về luận lý, sự sống và phẩm giá
con người là có giá trị. Phẩm giá chẳng phải là giá trị trong số những giá trị
khác, mà đúng ra nó là “nguồn” giá trị. Lẽ đó, phẩm giá cho thấy một điều là nó
không được quyền tuỳ tiện sử dụng để áp đặt lên bất cứ cá nhân nào. Vì thế, huỷ diệt người khác là hành vi mâu thuẫn,
cho dù người ấy yêu cầu rõ ràng mong được chết [4].
Do đó, giá trị vô hạn của nhân vị
thì không tính toán được, không lấy tiêu chuẩn gì đo lường được, bởi vì nó
không nằm ở bất cứ phẩm chất nội tại nào của con người. Nó thấm nhập toàn bộ
hữu thể con người. Nó là quà tặng Thượng Đế ban nhưng không. Vì thế, con người
không cần cố gắng đạt lấy nó, không bị mất bao giờ, nhân phẩm con người mang
giá trị tại thân. Không ai có quyền lấy mất nó của người khác. Nên thật mâu
thuẫn khi bệnh nhân lại muốn tự ý tước đi chính giá trị nội tại của nó là tự hư
vô hoá chính mình. Chúng ta phải xác tín rằng, không hoàn cảnh nào, động cơ nào
hay lợi ích giả định nào có thể biện minh cho một hành vi vốn là sự dữ nội tại.
Chúng ta cần xét vài quan điểm để
làm sáng tỏ đâu là giá trị đích thực của nhân phẩm.
Một số quan niệm về nhân phẩm dựa
vào giá trị xã hội của con người. Đặt trong bối cảnh của bệnh nhân nằm bất động
mất hết tính liên đới hữu hình trong cộng đoàn nhân loại nhưng không vì thế con
người mất hết nhân phẩm. Đức Gioan Phaolo II đã khẳng định: “Mỗi nhân vị chiếm hữu một phẩm giá, và dù
cho nhân vị có sống trong trạng huống xã hội và lịch sử cụ thể nào đi nữa, phẩm
giá đó không bao giờ bị hạ giá, bị xâm phạm hay bị huỷ bỏ, nhưng trái lại phải
được tôn trọng và bảo vệ”[5].
Như thế, nhân phẩm con người không thể xác định dựa trên giá trị thành quả vật
chất mà xã hội đo lường được, nhưng dựa trên giá trị tinh thần. Dù sao đi nữa,
vai trò ưu thắng thuộc giá trị tinh thần.
Quan niệm khác cho rằng: nhân phẩm
con người được thiết lập nơi khả năng của tự do. Sự tự do được dùng để phục vụ
con người và hoàn thành con người do chính việc tự hiến và tiếp nhận tha nhân;
trái lại, khi chiều kích cá nhân chủ
nghĩa được tuyệt đối hoá, thì tự do sẽ mất đi ý nghĩa đầu tiên của nó, rồi chính
ơn gọi và phẩm giá của nó cũng bị chối bỏ[6]. Đặt
trong bối cảnh của việc chết êm dịu, Đức Gioan Phaolo II còn tuyên bố mạnh mẽ: Đòi hỏi quyền làm chết êm dịu và công nhận
việc hợp pháp ấy thì có nghĩa là dành cho tự do con người một ý nghĩa phi đạo
đức và bất công (số 19). Trong thực tế, con người dùng tự do để tự quyết là
che lấp tiếng nói lương tâm mà Thượng Đế đã đặt định trong mỗi người; đồng
thời, với sự sống và nhân phẩm con người.
Văn hoá sự sống
Nền văn hoá sự
sống trước tiên đề cao giá trị sự sống con người, con người xét như chủ thể
mang tính siêu việt, sự sống ấy đến từ Thiên Chúa và được kiện toàn trong tương
quan liên chủ thể với tha nhân. Xét trên bình diện hữu thể, con người chẳng
khác chi con vật, mặc dù có mức trưởng thành toàn diện cao hơn do sự gia tăng
phức tạp tính. Sự sống ấy, không mang tính siêu việt nhưng con người có giá
trị, lý do đơn giản, vì người ấy là một
nhân vị (Gioan Phaolô II). Chính yếu tính này làm nên cái ta gọi là văn hoá
sự sống. Cũng vì không xác tín đầy đủ chân lý này, đã diễn ra cuộc tàn sát hàng
triệu người Do Thái, chính sách này đã dẫn đến việc tiêu diệt khoảng 100.000
người Đức quốc gốc Aryan gồm cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em chỉ vì họ bị tật
nguyền về tâm lý hoặc thể lý. Tất cả đều bị giết chết nhân danh an tử. Đó là
dấu vết tố cáo nền văn hoá sự chết.
Như thế, điều đòi buộc chúng ta phải ý thức rõ về
thang giá trị, vì chính giá trị ấy tạo nên nền tảng xã hội. Không có giá trị,
không thể xây dựng một xã hội thực sự nhân bản[7].
Bằng chứng là một xã hội coi hiệu quả kinh tế như yếu tố duy nhất xác định cơ
cấu xã hội đã khiến những hệ thống ấy quay phản lại con người. Cụ thể, là dần
dần hợp thức hoá an tử, vì những bệnh nhân nằm bất động ảnh hưởng trực tiếp đến
tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, một con người (nhân vị) nằm
bất động nhưng không làm mất đi nét đẹp văn hoá sự sống, song chính lúc đối
diện với sự chết, họ cổ võ văn hoá sự sống. Chúng ta không thể viện cớ là họ ăn
bám xã hội, vô tích sự… nhưng giá trị tinh thần, ý hướng hành vi nhân linh mới
thực là sản phẩm của văn hoá.
Do đó, tôn trọng phẩm giá con người
không chỉ dựa trên giải thích tự thân sự sống con người mà xét trên bình diện
tương quan, nó còn là cách tôn trọng bản thân khi tôn trọng phẩm giá người
khác. Chúng ta đòi được người khác tôn trọng cũng như đòi hỏi những đặc quyền
đặc lợi; trong khi đó những con người đôi lúc không tự đòi cho mình quyền sống,
không có nghĩa là họ không được tôn trọng, như tình trạng bệnh nhân sống đời
sống thực vật chẳng hạn. Hiển nhiên, một tương quan chính đáng với tha nhân đòi
chúng ta phải có thái độ tôn trọng. Chấp nhận chân lý ấy, chúng ta góp phần xây
dựng nền “văn hóa sự sống”; trong đó, mọi phần tử sống, sống cho, sống vì
người khác để chính mình được sống dồi dào và hoàn thiện bản thân.
3.
Tính mỏng giòn và bất tử
Thân xác
Con người sống, đồng thời, chịu
những qui luật chi phối của vạn vật vũ trụ. Vũ trụ vạn vật luôn biến động không
ngừng và con người cũng biến đổi về mặt sinh lý, tâm lý được biểu hiện cụ thể
nơi thân xác mỏng giòn của con người. Vì thế, dù thân xác con người là một toàn
thể thống nhất nhưng nó không phải là một tổng thể hoàn bị, song, luôn biến đổi
tuỳ mức độ mỗi người tác động vào qui luật sinh lý học của nó. Thiên nhiên cũng
tác động ngược lại mạnh mẽ trên con người. Bằng chứng là thời tiết thay đổi,
thân xác con người trở nên mệt mỏi, đau yếu. Con người thực sự cảm nhận sự mỏng
giòn của thân xác mình. Tuy nhiên, không vì thế mà thân xác bị coi rẻ, không
thể là ngục tù của linh hồn như triết gia Platon quan niệm. Một con người hoàn
hảo không chỉ có xác hoặc chỉ có hồn, nhưng là một tổng thể xác hồn làm nên
một ngôi vị.
Hơn nữa, dù thân xác con người là
vật chất nhưng không thuần vật chất, nó còn sở hữu một tinh thần siêu việt, nó là một thân xác nhân vị. Khi nói đến thân xác
nhân vị nào đó, chúng ta gắn liền với một tên ai đó vì nó là biểu hiện của một
nhân vị. Nên, như chúng ta đã khẳng định, dù cho thân xác ai đó nằm bất động,
họ vẫn được tôn trọng với tất cả nhân phẩm và quyền lợi khác, đơn giản vì họ là
một nhân vị. Vì vậy, thân xác có đó là để phục vụ cho bản ngã thâm sâu của con
người. Tất nhiên với niềm tin và ý thức linh hồn bất tử giúp con người có thái
độ dứt khoát trước thực tại siêu hình. Như thế, con người sống là sống triệt để
trong sự mỏng giòn của đời người và một niềm tin bất tử sâu xa. Sự sống đời
sau, tất nhiên tuỳ thuộc thái độ sống của chúng ta trong phút hiện tại. Tất cả
là vô thường nhưng niềm tin bất tử và đời sống sung mãn mai sau là một sự thực.
Linh hồn
Thật là phi lý,
nếu không muốn nói là vô nghĩa, khi con người phải sống và lê lết trong sự bất
động, bất lực của thân xác, một bệnh nhân sẽ sống trong tiêu cực và bi quan
trong số phận bi thương của mình. Nếu họ không nhận ra sau cái chết là một mã
số đầy ý nghĩa (Jaspers). Mã số ấy, chúng ta có thể trả lời ngay là tính bất tử
của linh hồn.
Thực tế cuộc
sống cho chúng ta thấy, có những thực tại được chứng minh với những luận chứng
chắc chắn và uy tín cao nhưng có nhiều người không đón nhận. Còn lý chứng về linh
hồn bất tử chỉ như là cơ sở từ đó tránh sự hàm hồ trong luận lý và triết học.
Đặc biệt, đối với niềm tin linh hồn bất tử là một thái độ chấp nhận để đi vào
hiện sinh. Nếu như chết là hết thì bệnh nhân có cần phải nhất thiết kéo dài
cuộc sống cho tới lúc nó tự tàn lụi, trong khi họ thấy cuộc sống này thật vô
nghĩa? Một cuộc chiến nội tâm mang tính quyết định cho đời sống khi đối diện
trước thực tại bất tử tính của linh hồn.
Như thế, cho dù thân xác con người
có mau qua chóng tàn, bất lực và hữu hạn ấy nhằm nhắc nhở con người vươn lên
một thực tại bền vững là cùng đích con người đạt đến. Dù muốn dù không, con
người vẫn đối diện với đau khổ là “người bạn” tất yếu của hữu thể gắn liền với
vật chất. Thế đâu là giá trị đích thực của đau khổ hầu giúp ta thánh hoá bản
thân và đi đến cùng cuộc nhân sinh.
4.
Đau khổ và hy vọng
Đau khổ
Người ta thường
hiểu và đồng hoá sự dữ với đau khổ. Thật ra, sự dữ bao hàm cả đau khổ, song, cả
hai có lối giải thích và giải hoá khác nhau. Một câu trả lời quen thuộc và đơn
giản mà người ta thường nói: những gì ta không thích trong cuộc đời mình thì đó
là sự dữ; những gì ta thích và ưa chuộng thì được gọi là sự thiện. Điều này,
xem ra, khá chủ quan, vì đôi lúc người ta muốn những điều sai quấy đi ngược với
mục đích họ đặt ra ban đầu. Có người còn lẫn lộn giữa đau đớn và đau khổ. Chúng
ta cần xác định ngay: nỗi đau thì hiện hữu nhưng nỗi khổ thì không. Rõ ràng,
nỗi đau còn thấy đó, còn nguyên trên thân thể hay sự bất động của thân xác,
nhưng nỗi khổ thì không. Không ai nói nỗi đau khổ của người mẹ trong cơn lâm
bồn. Sự thật là, bà có sinh nặng đẻ đau nhưng không vì thế mà bà là người đau
khổ. Nỗi đau lúc này lại góp phần để tạo nên một sự sống mới đó là sự thiện.
Như thế phải hiểu nỗi khổ ra sao?
Nó là một mong muốn không được thực hiện. Nghĩa là muốn sự việc xảy ra theo ý
mình hoặc muốn người khác hành xử theo ý mình và khi chuyện ấy không xảy ra,
thì nỗi khổ xuất hiện[8].
Đau đớn thể lý là một phần không thể tránh khỏi của thân phận làm người; nó đáp
ứng cho một mục đích thực tế nào đó nhưng nó tác động đến tâm lý con người và
có thể trở nên khủng khiếp đến nỗi người ta muốn tống khứ nó bằng bất cứ giá
nào. Do đó, nhiều người còn quan niệm: sự sống duy nhất đáng sống là sự sống có
“chất lượng”, khi sự sống rơi xuống mức thấp thì phải huỷ nó đi[9]. Thật vậy, đau khổ, tự nó
sẽ không có ý nghĩa gì nếu không được cảm nhận từ chủ thể. Thiếu kinh nghiệm
trong đau khổ sẽ làm con người bất mãn trước thực tại.
Như vậy, ý nghĩa của đau khổ cũng
tùy thuộc vào chính kinh nghiệm riêng của mỗi người. Thực tế cho ta thấy, con
người trở nên mạnh mẽ hơn khi đối diện với đau khổ trong cuộc sống. Qua đau
khổ, nhân cách con người được hình thành và học biết cách để vượt lên nỗi sợ
hãi. Người ta có thể nói rằng nếu con người loại bỏ hết những đau khổ, khó khăn
trong cuộc đời này, họ đang làm hư hỏng giới trẻ, làm cho chúng ra nhu nhược,
yếu đuối khi đối diện với cuộc sống (Michael. D. Moga).
Đối với người Kitô hữu được giáo
dục trong đức tin, chúng ta biết rằng đau khổ có thể được biến đổi, nếu chúng
ta dâng nó cho Thiên Chúa, đau khổ trở thành phương tiện cứu độ và thành con
đường nên thánh giúp chúng ta đạt tới Nước Trời. Do đó, đối với Kitô hữu đau
khổ không phải là một lý do để buồn sầu, mà là lý do để vui mừng: vui mừng vì
biết rằng trên thánh giá Chúa Kitô, mọi đau khổ đều có giá trị cứu độ.[10]
Như vậy, đau khổ trở thành thầy dạy
sự khôn ngoan. Nếu không có đau khổ, con người sẽ sống cách ngu dốt khi bỏ quên
đi những giá trị tinh thần mà chạy theo những sự thiện giả trá. Đau khổ là cách
giúp con người tìm lại thế quân bình khi đã đi quá xa trên con đường hưởng thụ
trụy lạc. Viễn cảnh này hướng con người đến một thực tại Siêu Việt mà chỉ có
trong hành vi đức tin mới được tỏ lộ. Bởi đó, Thomas Merton phát biểu thật chí
lý: “Đau khổ tự nó đã là vô dụng và đáng ghét rồi, nhưng nếu lại không có đức
tin đi kèm theo nữa, thì nó chính là lời nguyền rủa vậy”[11].
Hy vọng của người đau khổ
Con người sống là luôn sống trong
hy vọng. Có thế, trong đau khổ con người còn có thể hy vọng. Thật vậy, khả năng chịu đau khổ tuỳ thuộc vào cách thế
và tiêu chuẩn của hy vọng mà chúng ta có nơi bản thân và chúng ta xây dựng trên
hy vọng đó.[12]
Chúng ta thử hỏi: những người đang chịu đau khổ về thể lý cũng như tinh thần,
họ hy vọng gì?
Con người
không thể sống mà không hy vọng một điều gì tốt đẹp (ít ra là chủ quan), điều
này thật cần thiết cho người đau khổ. Trong lúc như thế, người bệnh không những
hy vọng được chữa lành (dù rất mong manh) mà còn hy vọng có được một không gian
đầm ấm, một sự cảm thông nơi tha nhân. Đó là điều chính đáng. Hy vọng này phần
nào nói lên sự khẳng định của họ về sự hiện hữu của mình trong cộng đồng nhân
loại. Họ cần sự tôn trọng xứng đáng. Tuy nhiên, cùng đích để cho ta hy vọng
không đến từ bên ngoài, không dừng lại ở một sự vật hay một con người nào,
nhưng Đấng đó ở bên trên và ở trong chúng ta, đó chính là Thiên Chúa. Do đó,
chúng ta sống và được mời gọi vươn lên tới Thiên Chúa. Thiên
Chúa mới là nền tảng hy vọng của chúng ta[13].
Quả vậy, chỉ trong Chúa, chúng ta mới
mong đạt được niềm hy vọng vĩnh cửu. Chỉ nơi Ngài, chúng ta nhận được Ơn cứu
độ.
Ơn cứu độ đã được dành sẵn
và trao ban từ tay Thiên Chúa như một niềm hy vọng kiên vững nhờ đó, chúng ta
mới có thể đối mặt với thực tại. Chúng ta có thể sống và đón nhận thực tại đầy
cam go này, nếu hướng đến một mục đích vĩ đại mà nó có thể biện minh cho những
cố gắng trên đường đời[14].
Thật phi lý, con người chịu đau khổ
chỉ vì đau khổ hay cực chẳng đã phải chịu; mặc dù con người không thể giải
thích hoàn toàn về đau khổ nhưng chấp nhận nó như phần tất yếu trong cuộc hiện sinh
vì một ý nghĩa cao hơn (sự sống vĩnh cửu) thì nó là biện minh chính đáng.
Nhưng điều gì có thể giúp ta đi đến
xác tín đó? Thưa đó chính là “Đức tin”. Chúng ta không thể nhắc đến Thiên Chúa
hay kêu cầu Người mà lại phủ nhận đức tin. Đức tin là bản chất của hy vọng, Đức
Benedicto XVI đã khẳng định như thế.[15] Nói cách khác, điều thiết
yếu để hy vọng phải là đức tin. Thật mâu thuẫn cho những ai hy vọng mà không
tin một ai đó hay sự việc nào sẽ được hoàn tất như mình mong đợi. Hơn nữa, đây
lại là Thiên Chúa, Đấng là nền tảng cho niềm hy vọng của ta.
Tuy nhiên, khi đối diện với thực tế
lại không dễ dàng chút nào, thái độ sợ hãi luôn làm ta mất dần cảm thức hy
vọng. Sự dữ tệ hại nhất là tuyệt vọng
(Đức Gioan Phaolo II) và hệ lụy của nó là buông xuôi, thờ ơ, vô cảm… Chúng ta
không thể để thất bại lớn nhỏ trong đời sống làm giảm ý nghĩa của hy vọng vĩ
đại. Chúng ta phải khẳng định rằng Thiên Chúa vẫn đồng hành với con người trên
mọi nẻo đường trong cuộc vươn lên của nhân loại. Thiên Chúa đã nhập thể, chịu
đau khổ, sống chan hoà yêu thương và trở nên giống anh em mình trong mọi sự
(chỉ trừ tội lỗi). Ngài đã chịu đau khổ nhưng đầy hy vọng phục sinh. Chính niềm
hy vọng của người đau khổ sẽ biện minh cho họ khi đối diện với thực tại và lý
do chọn an tử hay không.
Cái chết êm dịu
(an tử) luôn rình rập và lấn át những quyết định của người đau khổ. Lúc này
không ai có thể dạy họ một khoa đức tin nào nữa, nhưng quyết định của họ nói
lên rằng, họ đã “chạm đến Chúa Giêsu” chưa? Nói cách khác, chính cảm nghiệm
tình yêu Chúa nơi bệnh nhân sẽ quyết định cho sự sống còn của họ. Khi họ đã
thực sự cảm nghiệm tình Chúa yêu thương như kinh nghiệm thiêng liêng của thánh
Têrêsa hay Camelo, thì đau khổ cả đến cái chết (tự nhiên) đối với các ngài là
một mối lợi để gặp Đức Giêsu thực sự.
Cuối cùng, sự dữ, đau khổ và cái
chết chỉ được trả lời thoả đáng nơi Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu. Và nói như
thánh tiến sĩ Ambrosio: “Tất cả chỉ là phương tiện giúp ta đạt đến Ơn Cứu Độ”.
II.
SỰ SỐNG CON NGƯỜI
1.
Tính siêu việt của sự sống con người
Tính duy nhất
Sự sống nơi một người là sự hoà hợp
hỗ tương giữa thân xác và linh hồn để tạo thành chính họ là thực thể duy nhất.
Thật vậy, thân xác không có linh hồn là một thây ma, cũng như linh hồn không
gắn chặt với chất thể là tinh thần thuần. Chính sự kết hợp bất khả phân giữa
xác và hồn tạo nên một nhân vị độc đáo. Vì vậy, tôi là tôi và không thể thay
thế cho một ai khác. Không thể có kiểu nói: người này hơn người kia (một cách
tuyệt đối); mà không dẫn đến hàm hồ trong tương quan với các nhân vị. Chúng ta
không thể chấp nhận sự so sánh sự sống của người này hơn sự sống người khác
trong mức độ hiện hữu của họ, không thể coi một vị chức sắc nào đó nằm bất động
chẳng hạn, lại được coi trọng hơn bệnh nhân khác, vì phẩm giá của mọi người đều
phải được thừa nhận dựa trên tính duy nhất của sự sống con người. Những người
ủng hộ an tử lập luận rằng: Những sự sống
nào không đạt được chất lượng xứng hợp thì không đáng được bảo vệ hoặc ít được
chăm sóc và bảo vệ hơn những sự sống có được phẩm chất hơn.[16]
Rõ ràng, sự sống con người thì vô
giá không thể đo lường bằng cách thế hiện hữu của các nhân vị mà quyết định an
tử người này hay không an tử người kia. Sự sống ấy vô giá không phải do một xã
hội nào đủ thẩm quyền để thiết định nhưng tự sự sống là một thực tại vượt quá
những gì chúng ta cân, đong, đo, đếm được như thân xác cụ thể.
Song, khoa tâm lý học cho chúng ta
một khẳng định rằng, con người không thể hoàn toàn ý thức mình trrong một tình
trạng hợp nhất xác hồn hoàn toàn mà còn chịu tác động vào hoàn cảnh cụ thể. Bởi
đó, các nhân vị cần được hoàn bị nhờ nhân vị khác trong sự tôn trọng tính duy
nhất, độc đáo và không thể thay thế của sự sống mỗi người.
Chân tính
Chân tính của sự sống con người
được định nghĩa là sự phù hợp của trí năng với hữu thể (sự sống ấy). Thực tại
này chỉ được giải thích nơi Thượng Đế, vì sự sống con người được thực hiện bởi
ý tưởng của Thượng Đế và lấy mẫu mực ở trí năng Ngài. Nơi Ngài chân tính đạt
mức tuyệt đối và con người thông ban sự sống ấy cho con người cách siêu việt và
chân thực.
Nhưng do ảnh hưởng của thuyết Duy vật trong
thế giới ngày nay, sự sống con người đã bị giản lược vào những gì họ có, thủ
đắc được; và khi con người bị giảm thiểu hoặc mất khả năng chiếm hữu, họ bị
liệt vào hàng vô dụng. Đó là một trong những luận chứng hợp thức hoá an tử;
trong khi sự sống ấy vẫn triển nở một cách âm thầm nơi Thượng Đế trong một cách
thế hoàn bị nào đó (không thuộc thẩm quyền đánh giá của con người). Như thế, sự
sống siêu việt nơi nhân vị ấy không ai được quyền tước đoạt.
Thiện tính
Ngoài ra, con người còn mang trong mình bản tính thiện và
tuyệt đối. Tuyệt đối không phải hiểu như duy nhất con người có sự sống mà tuyệt
đối vì chính chủ thể không được quyền hư vô hoá sự sống ấy. Thật vậy, con người
được quyền sử dụng và làm triển nở sự sống chứ không được quyền định đoạt. Bởi
đó, chúng ta cần xác định quyền chủ thể nơi con người. Thực sự, con người được
tham dự quyền chủ tể với Thượng Đế; nhưng không vì thế, con người được quyền
định đoạt mọi sự (bằng chứng là cái chết nói lên sự hạn chế của con người).
Quyền chủ tể của con người không tuyệt đối, nó chỉ là một thừa tác vụ[17],
nghĩa là sự sống ấy được ban cho mỗi người và mỗi người có nhiệm vụ bảo toàn
mạng sống ấy. Vì quyền được sống là nền tảng cho mọi quyền khác phải được mọi
người tôn trọng với tất cả thiện tính của nó.
Con người tất yếu quyết định một
điều thiện là thiện khi nó phù hợp với tiêu chuẩn thiện tính của con người.
Tiêu chuẩn của bệnh nhân lúc này là vì tình bác ái, vì sợ phiền lụy đến người
khác (thật ra, nó chỉ là sự thiện bên ngoài), thì trí năng trả lời cho ý chí
“nó là tốt”, ý chí lao vào và thế là bệnh nhân quyết định an tử. Trong khi đó,
nó chỉ là sự thiện bề ngoài, mang dáng dấp sự thiện nhưng hoàn toàn ngụy biện
cốt để đạt mục đích là cái chết êm dịu.
Xét trên bình diện hữu thể học, sự
thiện mà mọi hữu thể nhắm đến là: bảo toàn sự hữu hoặc gia tăng sự hữu hoặc
thông chia sự hữu của mình. Như chúng ta biết, bản tính của mọi sự vật cũng như
con người là hướng về hiện hữu (sự sống). Sự sống là sự thiện mà mọi vật tự
nhiên ưa thích. Vì thế, việc bệnh nhân tìm đến an tử chỉ là một ngụy trang sự
thiện. Do đó, chúng ta không thể chấp nhận việc hợp thức hóa an tử dưới hình
thức nào vì điều đó đi ngược thiện tính của con người.
2. Luân lý sự sống con người
Luật luân lý là luật chi phối toàn
bộ đời sống con người; trong đó, luân lý sự sống giải thích và là cơ sở cho mọi
lập luận; trước
tiên,
là tính bất khả xâm
phạm của nó.
Tính bất khả xâm phạm
Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Song, Giáo hội bảo vệ quyền được
sống không những vì có liên quan đến Tạo Hoá, Đấng ban sự sống mà còn vì tôn
trọng sự thiện hảo thiết yếu của nhân vị con người (Gioan Phaolo II). Chúng ta
không ngừng khẳng định mình giống hình ảnh Thiên Chúa, nếu Ngôi vị Thiên Chúa
bất khả xâm phạm thì nhân vị con người cũng thế.
Như vậy, xét tự thân sự sống con
người cũng bao hàm tính bất khả xâm phạm. Vì cuộc sống trần gian của mỗi con
người là một thực thể thiêng liêng[18].
Thật thế, sự sống con người được đóng ấn không thể phai mờ bởi một chân lý của
chính nó (số 48) là tính thánh thiêng. Tính thánh thiêng, tính cá biệt và sự
hiện hữu riêng nơi chính mình là 3 đặc tính hình thành nhân vị. Tất cả làm nên
luận chứng chắc chắn cho quyền bất khả xâm phạm của con người.
Tuy nhiên, tính bất khả xâm phạm
không được lạm dụng, nghĩa là con người không được nhân danh dưới bất cứ chiêu
bài nào phủ nhận nó. Trong thực tế, nét luân lý này bị giải nghĩa sai lạc khi
con người nhân danh từ bi, bác ái mà thể hiện lòng trắc ẩn bằng cách giết chết
“vì lòng thương xót”. Dù rằng, đó là một đức tính tốt, là một nét đẹp trong đối
nhân xử thế, nhưng nhiều lúc cũng dẫn đến sai lầm nếu thể hiện không đúng lúc
đúng chỗ. Do đó, lòng trắc ẩn dù có đáng ca ngợi đến đâu, tự nó không thể là lý
do biện minh cho hành động luân lý. Vì lòng trắc ẩn nào mà dẫn đến việc kết
liễu mạng sống của người đau khổ, khi đó nó không còn là một hành vi thương xót
đúng nghĩa nữa. Quả vậy, quyền được sống là một điều chính đáng của mỗi người.[19] Họ xứng đáng vì tính
thánh thiêng của sự sống họ. Không phải do một cá nhân nào gán cho, nhưng nó là
cơ sở cho việc bất khả xâm phạm sự sống con người, vốn mang tính nội tại; và
nếu Thiên Chúa là nguyên lý phát sinh sự sống con người thì chúng ta không thể
giải thích gì khi tách lìa khỏi nền tảng ấy.
Như thế, một vấn đề phát sinh, một
khi không ai có quyền xâm phạm sự sống người khác, chính họ có toàn quyền tự
quyết sự sống mình không?
Tính tự quyết
Trước hết, chúng ta phải hiểu tính
tự quyết là gì? Tính tự quyết được hiểu là quyền tự do khỏi những áp lực bên
ngoài và có các khả năng tinh thần như hiểu biết, lên kế hoạch và ra quyết
định. Tự quyết của một tác nhân trong hành động là không chịu lệ thuộc bởi sự
kiểm soát có tính cưỡng bức của người khác. Nói chung nó đi với hai nhân tố:
một là nhận thức để việc chọn lựa quyết định được đặt nền tảng trên sự hiểu
biết các thông tin thích đáng về những gì sẽ làm. Hai là tự nguyện: để làm một
quyết định tự nguyện, không bị thúc đẩy bởi những cưỡng ép bên trong, hoặc đe
dọa, bắt buộc hay bị điều khiển bởi người khác.[20]
Sau nữa, chúng ta phải hiểu quyền
tự quyết này có những giới hạn nào? Quyền tự do quyết định này bị giới hạn
trong ba điểm: tự do lệ thuộc điều kiện tính, tự do đi kèm với trách nhiệm, tự
do chịu tác động của các yếu tố tâm lý. Như thế, chúng ta minh nhiên khẳng định
tự do con người chỉ mang tính tương đối. Dù vậy, quyền tự quyết của mỗi người phải
được tôn trọng. Nhưng chúng ta cần phải hiểu, mình đang tôn trọng cái gì và tại
sao phải tôn trọng quyền tự quyết nơi con người?
Tôn trọng một người tự quyết, tất
nhiên công nhận người ấy có quyền bày tỏ lập trường, có quyền lựa chọn và hành
động theo giá trị và niềm tin riêng tư. Điều này, bao hàm cả việc khuyến khích
họ thực hiện hành vi tự quyết với tư cách là một nhân vị trưởng thành. Thật
vậy, tự quyết là hành động không có sự ép buộc, dựa trên lý trí và phù hợp với
những giá trị và qui tắc đạo đức riêng tư. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta buộc
phải thuyết phục người khác, khi họ có quan điểm sai lạc và thiếu chín chắn. Dù
sao, quyền tự quyết không phải là giá trị duy nhất, nó phải được xem là việc thiết
lập một thẩm quyền vững chắc, để kiểm soát vận mạng con người. Do đó, quyền này
không bao hàm việc con người được tự do làm bất cứ thứ gì.
3.
Sự sống của con người tại thế
Khi sinh ra con người đã bị ném vào
vũ trụ và chịu sự chi phối của chúng. Các triết gia hiện đại cũng cho ta một
định nghĩa về con người rất hiện sinh: con người là hữu thể tại thế, mà một hữu
thể tại thế thì bao gồm 3 tương quan: tương
quan siêu vị, liên vị, bản vị.
Hướng về Thiên Chúa (tương quan siêu vị).
Tự bản chất con người là một hữu
thể hướng về vô biên. Đấng ấy không ai khác đó chính là Thiên Chúa. Chỉ khi trở
về với Người chúng ta mới hoàn thành trọn vẹn ơn gọi làm người của mình. Trong
cuốn “Tự Thuật” của mình, thánh Augustino diễn tả hết mầu nhiệm ơn gọi này:
Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi
nghỉ yên trong Chúa. Tuy nhiên, con người là một hữu thể hữu hạn, luôn bị chi
phối bởi nhiều yếu tố vật chất. Đứng trước đau khổ, bệnh tật, nhất là trước cái
chết… con người không tránh khỏi những cảm giác sợ hãi, lo lắng, thậm chí mất
đức tin chỉ vì cảm được sự hữu hạn của mình và không nhận ra tình thương của
Chúa trong cuộc đời.
Trái lại, nếu một người luôn có
niềm tin vào Thiên Chúa thì cho dù đứng trước cái chết sắp xảy đến cho mình, họ
vẫn luôn bình an và tín thác cuộc đời mình cho Ngài. Chính khi đó đau khổ đối
với họ đôi khi là một phương thế để họ được thông phần vào cuộc đau khổ thập
giá với Chúa Giêsu Kitô. Với ý thức lớn lao và niềm tin sống động đó, họ cảm
nhận sự sống là ân huệ Chúa ban, còn sống giây phút nào là sống cho Chúa và có
chết cũng là chết cho Chúa, dù sống dù chết, mình vẫn thuộc về Chúa (Rm14,8).
Chết cho Chúa nghĩa là gì nếu không phải là sống sự chết của mình như một hành
vi tận hiến trọn hảo vì lòng tuân phục Chúa Cha noi gương Chúa Giêsu.
Điều chúng ta đã khẳng định: sự sống là sự thiện vì nó có trong trí
năng Chúa, thì sự chết đến như ý Chúa muốn, hóa ra Chúa muốn hư vô hóa sự thiện
là sự sống nơi con người sao? Nếu chết là hết thì lập luận của ta hợp lý và vững
chắc. Nhưng chết là “sinh thì” là thời gian sinh ra trong vĩnh cửu mà ai có thể
dẫn chúng ta từ thời gian bước vào vĩnh cửu nếu không phải là Đấng Vĩnh Hằng,
chủ tể thời gian. Ý thức tầm quan trọng của khoảnh khắc này, Đức Pio XII phát
biểu: “Ngoài những bổn phận luân lý và
trách nhiệm gia đình thì bệnh nhân còn phải dọn mình với ý thức đầy đủ để gặp
Chúa Kitô”[21].
Như thế, đau khổ, nhất là đau khổ trong những phút cuối đời, có một vị trí đặc
biệt trong chương trình cứu độ của Chúa[22]. Chính khi đối diện với cái chết mà điều bí
ẩn về số phận nhân sinh đạt tới cao điểm[23].
Thiết nghĩ, đó là sự thành toàn ơn gọi làm người của một con người.
Hướng ra tha nhân (tương quan liên vị)
Tôma Merton
nói: Sống không ai là một hòn đảo. Như vậy, con người sống là sống cùng và với
người khác. Một bệnh nhân trong cơn hấp hối xem như dấu chỉ tách ra khỏi mối
liên hệ hữu hình với cộng đồng nhân loại. Trong những giây phút đó, họ rất cần
đến chúng ta, trước hết là những thành viên trong gia đình, bạn bè, làng xóm
biết quan tâm, chia sẻ, động viên để bệnh nhân cảm được tình yêu thương thay
vì cảm thấy mình như là một gánh nặng. Rồi đến đội ngũ các Y-Bác sĩ, những
người luôn trực tiếp với bệnh nhân biết tôn trọng sự sống con người, thể hiện
nhân đức hành nghề của mình “lương y như từ mẫu”, hơn nữa phải là người đem
lại niềm hy vọng ngay lúc bệnh nhân bị thử thách muốn co cụm lại trong thất
vọng và như muốn tự huỷ diệt mình. Không hẳn họ hy vọng là mình được chữa lành
nhưng hy vọng sự tận tình của người khác trong mọi nhu cầu cấp thiết hầu mình
được an tâm và sẵn sàng chấp nhận những gì xảy đến ngay cả cái chết đang chờ
họ. Hy vọng là cách tốt nhất giúp sống sung mãn giây phút hiện tại.
Mặc dù, các y
bác sĩ quan tâm chăm sóc, nhưng họ cũng chỉ là những chuyên viên điều trị, tuy
gần gũi nhưng vẫn xa cách. Bệnh nhân có thể tạo được những tương quan mới với
những người đồng cảnh ngộ. Giữa người bệnh với nhau, họ nghe nhau kể lể bệnh
tình và âm thầm động viên nhau. Quả thật, con người chỉ có thể là mình khi liên
lạc với đồng loại. Bệnh nhân dễ nổi loạn chống đối, thoái thác cho việc đặt họ
trong một không gian ngột ngạt: một mình đối diện với bệnh tình và cái chết.
Cách nào đó, chúng ta chịu trách nhiệm về đời sống của họ. Vì chúng ta sống là
sống với, sống cùng và sống cho người khác. Đó là nét đẹp mang tính xã hội chỉ
có hữu thể trí năng mới đạt được.
Là một Kitô
hữu, chúng ta được mời gọi: Hãy yêu thương tha nhân như chính mình (Mc 12, 29).
Tình yêu đó không cho phép chúng ta chọn người này hay người kia để phục vụ vì
tất cả đều là hiện thân Chúa Giêsu. Rosenzweig phát biểu: “Hình hài đau khổ của nhân loại đã in hằn trên chính ‘Dung nhan’ của
Thiên Chúa”. Hay nói cách khác, đau khổ của Ngài đã cụ thể hoá và sống động
nơi tha nhân, đến nỗi Ngài và tha nhân, cả hai là “một”. Do đó, Chúa Giêsu đã
nói: “Mỗi lần các người làm cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”
(Mt 25, 40). Như thế, chúng ta không còn lý do để từ chối phục vụ Chúa trong
tha nhân.
Như vậy, con người sống phải cần
đến nhau. Sự hỗ tương đó là bản chất của một hữu thể nhân linh, có lý trí, có
tự do và tình yêu. Hơn hết, một hữu thể nằm trong tình trạng bất động luôn cần
đến sự giúp đỡ và quan tâm đến chúng ta. Đừng tiếc một ánh nhìn thân thiện, một
cử chỉ quan tâm và một lời nói khích lệ bệnh nhân khi họ cần đến.
Chiều kích bản thân
(tương quan bản
vị)
Khi bệnh nhân trở về với lòng mình,
cảm nhận trước tiên là sự bất lực đối với bản thân, sự mỏng giòn trong thân
phận con người như chúng ta đã bàn đến phần trên. Nhưng nhìn lên Chúa Giêsu, họ
nhận ra mình chưa trọn tình. Vì thế, họ
muốn bớt đi việc dùng thuốc giảm đau, ngõ hầu chấp nhận cách tự nguyện ít ra là
một phần đau khổ của mình và kết hợp cách ý thức với đau khổ của Chúa Kitô chịu
đóng đinh.[24]
Đây không phải là trường hợp phổ biến nhưng đòi hỏi một nhân đức anh hùng, với
một ý thức dâng hiến trọn vẹn. Theo Nhân học, đó là một tư thế trường tồn được
góp nhặt từ những tư thế mau qua với những tác động dâng hiến trong thời gian
để tiến về vĩnh cửu, chấp nhận dâng hiến tất cả để gặp Đức Kitô với lòng thanh
thoát.
Thêm nữa, bệnh nhân cảm giác được
an toàn nhờ lãnh nhận những bí tích sau cùng như hành trang tiến về nhà Cha.
Điều này đòi hỏi bệnh nhân một nỗ lực rất lớn trong đời sống đạo gương mẫu. Ước
ao của họ là được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong đau khổ và hy vọng
được vinh quang với Ngài. Họ ý thức rằng có sự sống đời sau và nó được lượng
giá từ thái độ sống đời này trong ý thức tự do sống từng tác động hành vi nhân
linh. Thiết tưởng, đó là niềm an ủi cho những người đang chấp nhận đau khổ lâu
ngày trên giường bệnh. Đó là thông điệp Tin mừng sự sống dành cho mọi người
tin. Chúa Giêsu chấp nhận đi đến cùng cái chết, Đấng đã chịu đau khổ, hơn nữa,
Đấng vô tội chịu xử án bất công. Ngài trở nên gương mẫu và chính phần thưởng
gia nghiệp đời đời cho chúng ta.
III. LẬP TRƯỜNG CỦA GIÁO HỘI VỀ AN TỬ
- VÀI NHẬN ĐỊNH CÁ
NHÂN
1.
Giáo huấn của giáo hội về an tử
Quan điểm về nhân vị con người
Đức Gioan
XXIII đã xác tín rằng Giáo hội Công giáo có một ánh sáng quan trọng để chia sẻ
cho mọi người, một ánh sáng mà thế giới đang khẩn thiết cần có. Giáo hội đã
dành mối quan tâm đặc biệt tới con người và dành cho con người vị trí trọng
tâm. Trong viễn tượng đó, con người là con người toàn diện, được Vatican II
triển khai trong hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” khi khẳng định phẩm giá con
người dựa trên lý trí, tự do và lương tâm[25].
Một mặt, con người là một sinh vật trong thiên nhiên và là một phần của thế
giới vật chất, nhưng đồng thời lại vượt trên nó nhờ lý trí và tự do, qua đó con
người có khả năng hiểu biết thiên nhiên, biến đổi và làm chủ nó. Mỗi người đều
có phẩm giá riêng làm cho họ luôn luôn là một giá trị tự nơi bản thân mình và
cho bản thân mình; nhờ phẩm giá đó, họ vượt trên thế giới vật chất về mặt giá
trị.[26]
Mặt khác, phẩm giá đó mang tính Siêu việt, vì đã được kết hợp với Thiên Chúa
nơi Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Phẩm giá đó không thể bị xóa bỏ bởi chính
đương sự cũng như không thể bị xâm lấn bởi xã hội. Chính phẩm giá đó là nhân vị
trong tư cách là hình ảnh Thiên Chúa, tương quan này khoa học tự nhiên hay nhân
văn không thể nào hiểu thấu.
Tuy nhiên, con người không thể có
sự hiểu biết toàn vẹn, nếu không quy chiếu về Thiên Chúa, là mục tiêu phấn đấu,
là cơ sở của những tìm kiếm và hy vọng của con người. Vì mang chiều kích siêu
việt, hướng về cái hơn cả chính mình, con người không thể bị giảm trừ hay định
giá ở tình trạng hiện nay của nó, hoặc những gì nó đã làm cho tới nay, do bởi
nó là một ngã vị trong tương quan với Thiên Chúa, nguồn mọi khả tính.
Ngoài ra, Công đồng còn khẳng định
thêm: Con người là tác giả, là tâm điểm và là cứu cánh của tất cả đời sống kinh
tế, xã hội[27].
Bất kỳ một thể chế nào chỉ căn cứ vào các yếu tố kinh tế để quyết định những
mối quan hệ xã hội, đều nghịch với bản chất con người và của các hành vi nhân
linh[28]. Toàn bộ Giáo huấn Xã hội
của Giáo hội đặt nền trên chính phẩm giá con người dưới ánh sáng đức tin. Đây
là thước đo để phê phán tất cả đường lối chính sách, cơ cấu, kế hoạch về phát
triển, kinh tế và xã hội… xem có phù hợp hay đối nghịch với phẩm giá đích thực
của con người.
Ý nghĩa sự sống và cái chết của con
người
Khởi đi từ quan niệm nhân vị con
người dưới cái nhìn đức tin: Mọi sự sống con người, từ giây phút thụ thai đến
tất cả các giai đoạn theo sau là thánh thiêng do bởi sự sống con người được
sáng tạo theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa, nên Giáo hội coi sự sống con
người có giá trị vô hạn. Vô hạn bởi sự sống con người là quý giá vì nó là quà
tặng của Thiên Chúa, của tình yêu vô hạn của Ngài, và khi trao ban sự sống là
Ngài trao ban mãi mãi.[29]
Bởi đó, con người không là tác giả
của sự sống mình, cũng không là người quyết định cái chết của mình, nhưng chính
là Thiên Chúa, Đấng trao ban mọi sự sống. Cái chết được chấp nhận không chỉ như
một kết thúc không thể tránh được, nhưng còn như cửa dẫn vào sự sống vinh
quang; tình trạng hiệp nhất giữa linh hồn và thân xác đã được biến đổi trở nên
vinh quang.[30]
Thật vậy, sự sống của mỗi một con người là thánh thiêng và bất khả xâm phậm vì
chính Ngài ân cần chăm sóc nó. Nên sự sống và sự chết của con người ở trong tay
Thiên Chúa, chỉ có Ngài mới có quyền cho sống hay chết, và ngoài Người ra không
ai có quyền ấy.
Khi tìm kiếm một cái nhìn toàn diện
về sự sống, người ta phải đối diện với câu hỏi về sự chết. Sự chết trong ý
nghĩa toàn vẹn của nó phải được nhìn trong viễn ảnh của tạo thành, của sa ngã
và cứu chuộc. Cái chết thể lý nhận được ý nghĩa của nó từ chọn lựa căn bản đối
với niềm tin vào sự chết và Phục Sinh của Đức Kitô, hoặc từ việc chối bỏ ơn cứu
độ[31]. Là người Kitô hữu khi
đứng trước cái chết bất khả kháng, họ có niềm tin phó thác mọi sự trong tay Chúa,
họ không phản kháng nhưng vâng phục ý Ngài cách trọn vẹn. Với ý nghĩa vâng phục
đó, chúng ta cùng với thánh Phaolo dõng dạc thốt lên: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21).
Tuy nhiên, dù với cái nhìn đức tin
chúng ta hiểu rằng cái chết là điều không thể tránh khỏi, thậm chí cái chết
được xem là điều cần thiết, nhưng khi đối diện trước những giây phút kinh hoàng
ấy thì đau và khổ vẫn luôn dày vò con người và khiến chúng ta thoái chí. Vậy
phải hiểu đau khổ và bệnh tật đó như thế nào?
Ý nghĩa đau khổ và bệnh tật
Đối với những người ủng hộ hợp pháp
hóa an tử và trợ tử, họ thường biện luận rằng: đau khổ chẳng có ý nghĩa gì,
rằng đau khổ là sự dữ tuyệt đối nên việc giải tỏa đau khổ có thể biện minh
được, cho dù nó có thể làm cho cái chết đến sớm hơn. Ta còn thấy luận cứ của
các tôn giáo “tự nhiên” và các nhà lập thuyết theo cảm tính. Theo họ, sự sống
duy nhất đáng sống là sự sống có chất lượng. Khi sự sống rơi xuống mức chất
lượng thấp thì phải hủy nó đi.[32] Đó là một quan niệm sai
lầm trầm trọng về con người. Phản bác lại lập trường trên, Giáo hội qua Evangelium Vitae cho rằng, sự sống chẳng
phải là vô nghĩa. Đau khổ là một phần không thể tránh khỏi trong cuộc sống và
cái chết. Giáo hội giải thích rõ cho chúng ta về ý nghĩa đau khổ như thế này:
Đau
khổ, nhất là đau khổ trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, có một vị trí
đặc biệt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa; quả thật chịu đau khổ là
thông phần với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô và là sự hiệp nhất với hy tế cứu
chuộc mà Ngài đã dâng lên trong sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Vì thế, chớ ai
lấy làm ngạc nhiên nếu một số Kitô hữu muốn bớt đi việc dùng thuốc giảm đau,
ngõ hầu chấp nhận cách tự nguyện ít ra là một phần những đau khổ của mình, và
vì vậy kết hợp một cách có ý thức với những đau khổ của Chúa Kitô chịu đóng
đinh.
Qua đó, Giáo hội cho ta hiểu đau
khổ có một giá trị cứu rỗi vì nó được xem như dự phần mang tính cứu rỗi vào sự
đau khổ của Chúa Kitô. Tuy nhiên, sống trong một xã hội sợ sệt cái chết thì
thái độ như thế xem ra có vẻ mang tính anh hùng không cần thiết, thậm chí
không thể hiểu nổi. Thực sự khó mà giải thích cho những người ngoài Kitô giáo
hiểu thấu ý nghĩa sự sống và sự chết theo cái nhìn của Công giáo. Nhưng một
điều chúng ta có thể làm là nói cho họ biết: Chết không phải là hết; chết không
phải trở về với hư vô. Hiểu được như thế, con người mới hiểu được giá trị của
đau khổ, mới thắp lên ngọn lửa hy vọng cho tương lai, mới biết trân quý mạng
sống của mình. Bởi mọi tạo vật được sinh ra là để quay về với Đấng tạo thành.
Chính Người là cùng đích của đời sống chúng ta.
2.
Vài quan điểm cá nhân
Trước hết, cùng
với Giáo hội bản thân người viết cũng quả quyết lại: An tử là một điều sai trái
và đi ngược với nhân phẩm con người.[33]
Cho dù nó được bọc bởi một lớp vỏ được cho là thương xót hay nhân đạo đi nữa,
nó vẫn là một việc làm trái luân lý, đồng thời là hành vi cướp quyền chủ tể sự
sống của Thiên Chúa. Bổn phận của mỗi người chúng ta là chu toàn vai trò trách
nhiệm quản lý sự sống mà Ngài đã giao phó. Một điều nữa, chúng ta cần phải
hiểu, đó là: “đau bệnh” là một quy luật nằm trong tự nhiên của con người, không
ai có thể tránh khỏi và được miễn trừ. Chúng ta thử hình dung một xã hội mà
không có người đau bệnh sẽ như thế nào? Liệu có hiểu được tình yêu, bác ái, yêu
thương… là gì không? Lời phát biểu của Đức Gioan Phaolô II giữa các bệnh nhân
tại Lorrette, ngày 10-12-1994, vẫn còn gây ấn tượng cho tôi: “Một thế giới không có người bệnh sẽ trở nên
nghèo nàn, nghèo hơn về tình nhân ái với đồng loại, nghèo hơn về tình yêu vô vị
lợi và thậm chí, đôi khi kém ảnh hưởng”.[34]
Thật vậy, mỗi người chúng ta bước
vào trần gian mang theo những tiềm năng,
đồng thời, những bất toàn trong cuộc sống. Chúng ta có tiềm năng để
thăng tiến bản thân và phục vụ thiện ích mọi người; trái lại, những bất toàn
của bản thân - xem ra tiêu cực, nó lại là dịp giúp ta khiêm tốn đón nhận tinh
thần phục vụ của tha nhân. Thật bất hạnh cho ta không có lấy một vài giây dừng
lại trước tha nhân và mỉm cười với họ, có một nắm tay để tỏ tình hiệp thông…
Những nghĩa cử ấy nếu còn được trân trọng chắc chắn thế giới này sẽ bớt đi
những người khổ đau và tuyệt vọng. Con người trong xã hội ngày nay thật giàu
có, nhưng họ thực sự bất hạnh vì không có “gì” cho đi. Vì thế, họ nghèo hơn hết
mọi người. Nếu những người nghèo khổ trong thế giới hôm nay, cách riêng những
người đau khổ, bệnh tật có được sự tôn trọng xứng đáng như một nhân vị thực sự
và được chăm sóc bằng một tình yêu chan hòa thì cớ gì họ tìm đến an tử.
Thứ đến, con người là một hữu thể
tự bản chất là hướng về sự sống chứ không phải chết. Ai trong chúng ta cũng
khao khát được sống lâu, dù đang đối diện với căn bệnh thập tử nhất sinh. Chính
khao khát ấy truyền dũng khí để con người vượt qua những khó nguy của cuộc đời,
ngay cả những lúc đau bệnh tưởng như vô phương cứu chữa, bệnh nhân vẫn ao ước
có một phép màu. Do đó, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắn nhủ:
Sự thỉnh cầu của những
người mắc trọng bệnh, tức những người đôi khi đòi được chết, không nên được
hiểu là có ý thật lòng ước ao thực thi an tử; thật ra, đó luôn luôn là sự
thỉnh cầu thống thiết xin được giúp đỡ và thương yêu, là sự trìu mến nhân loại
và sự ân cần siêu nhiên, nhờ đó họ có thể được vây quanh và phải được vây quanh
bởi tất cả những người thân thiết, cha mẹ, con cái, bác sĩ và y tá[35].
Sau hết, điều quan trọng người viết
muốn nhấn mạnh: hãy loan tỏa tình thương thay vì tìm giải pháp thích hợp để
giải quyết vấn đề “An tử”. Bởi tự bản chất an tử là một điều xấu, đáng ra không
nên nghĩ tới. Vậy điều khẩn thiết bây giờ bạn và tôi nên làm là không ngồi đó
bàn luận suông mà hãy thể hiện bằng hành động cụ thể. Hãy nhìn vào tấm gương
của Mẹ Têrêsa thành Calcutta, một người phụ nữ tầm thường nhưng hành động rất
phi thường. Ngài trở nên mẹ của những người nghèo và bất hạnh. Mẹ dựng những
mái nhà cho người hấp hối khắp Ấn Độ và nay lan rộng trên toàn thế giới. Nơi
đây, bao người đau khổ, bệnh tật được đón nhận; đơn giản là Mẹ muốn cho họ một
cái chết an bình (an tử đúng nghĩa). Thật vậy, An tử được hiểu đúng nghĩa khi
nó được thực thi bằng một hành động yêu thương, quan tâm, chăm sóc hết tình của
mỗi người, nhằm mang lại cho bệnh nhân sự bình yên trong giây phút cuối đời.
KẾT
LUẬN
Một lần nữa, người viết xin khẳng
định lại lập trường của giáo hội: sự sống con người là một điều thánh thiêng[36], bởi vì nó phát xuất từ
Thên Chúa. Tính thánh thiêng của sự sống là phạm trù đầu tiên dẫn vào suy tư về
sự hiện hữu của con người. Thánh Kinh cũng đã cẩn thận nhấn mạnh rằng, tính
cách thiêng liêng của sự sống con người có cơ sở nơi Thiên Chúa và nơi hành
động sáng tạo của Người: “Vì con người được tạo nên theo hình ảnh Thên Chúa”
(St 9, 6). Như vậy, sự sống là một thực tại thánh thiêng, do đó nó cũng mang
tính bất khả xâm phạm. Giết chết con người tức là xúc phạm đến chính Thiên
Chúa. Chính Thiên Chúa đứng ra bảo vệ sự sống của con người và nghiêm cấm việc
sát nhân (x. St 9, 5; Xh 20, 14). Vì thế, điều răn thứ Năm trong mười điều răn
nói lên tính bất khả xâm phạm này.
Tính thánh thiêng và bất khả xâm
phạm của con người còn phát xuất từ việc chỉ Thiên Chúa mới là chủ tể duy nhất
của sự sống và sự sống con người phản ánh tính thánh thiêng và bất khả xâm phạm
của chính Thiên Chúa.[37] Như vậy, sự sống và sự
chết của con người ở trong bàn tay Thiên Chúa, ở trong quyền năng của Người: “Chính Chúa nắm trong tay hồn của mọi sinh
linh và hơi thở của mọi xác thịt người phàm” (G 12, 10); Chỉ có Người mới
có quyền phán: “Chính Ta làm cho chết và
làm cho sống” (Đnl 32, 39). Giáo hội cũng khẳng định điều này: “Duy chỉ
Thiên Chúa là chủ tể sự sống từ khi nó bắt đầu đến lúc nó kết thúc, nên không ai
trong bất cứ trường hợp nào có thể đòi cho mình quyền trực tiếp hủy diệt một
con người vô tội”[38]. Tuy nhiên, vì con người
được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, nên họ cũng được Người mời gọi và cho
tham dự quyền chủ tể của Người đối với sự sống bằng cách yêu mến, tôn trọng,
bảo vệ và thăng tiến sự sống trong toàn thể vũ trụ mà Thiên Chúa đã giao phó
cho con người quản lý.
Như vậy, hành vi An tử là một hành
vi xấu tự bản chất, vì nó đi ngược với sự sống và phẩm giá của con người. Hành
vi chấm dứt sự sống của những con người vô tội luôn là một tội ác chống lại
cộng đồng nhân loại và là hành vi trái luân lý nghiêm trọng, như luật pháp xã
hội xưa nay đã ngăn cấm. Cũng thế, ở mọi cấp độ xã hội, việc hợp pháp hóa hay
đề ra những chính sách ngoại lệ về An tử chỉ có thể có hại chứ không có lợi.
Cho nên, An tử dù bất cứ dưới hình thức nào đều là xấu.
Còn về phía
bệnh nhân, tính thánh thiêng của sự sống con người cũng không cho phép họ tự
kết liễu đời mình, vì tự sát là một trọng tội. Cho dù, căn bệnh khiến họ quằn
quại trong cơn đau đớn tột độ, họ vẫn được mời gọi tôn trọng sự sống mình. Tuy
nhiên, về vấn đề này, Giáo hội vẫn cho phép bệnh nhân được dùng thuốc giảm đau
để trấn át cơn đau, nhưng tuyệt đối phải là thuốc giảm đau không gây ảnh hưởng
đến lý trí hay mất ý thức của bệnh nhân.[39]
Đức Pio II khuyến cáo: “Không được cất bỏ ý thức của người hấp hối nếu không có
lý do nghiêm trọng”. Sau hết, điều người viết xin khẳng định: không ai muốn
mình chết thay vì được cứu sống.
Nói như Đức
Phaolo II: “Thậm chí ngay cả khi người bệnh xin được chết sớm cũng không có
nghĩa họ muốn chết mà thực ra họ đang khẩn thiết kêu xin sự giúp đỡ và yêu
thương của chúng ta”.[40]
Nhưng giả như họ xin được chết thực sự, thì thiết nghĩ đó là do lỗi của bạn và
tôi. Bởi họ không cảm được tình yêu thương và sự quan tâm thật sự từ chúng ta;
do đó, họ cảm thấy sự hiện hữu của họ như một gánh nặng, một sự thừa thãi và xa
lạ qua việc bị cách ly về tinh thần và nơi chốn. Chính khi đó, có thể vì vô
tình hay hữu ý ta gián tiếp đẩy người thân của chúng ta ra khỏi cuộc đời này
trong bất an và cay đắng. Đó là một tội không thể tha thứ.
[1] Gioan Phaolo II, Tiến về Ngàn Năm Thứ Ba, Roma 1994, tr
237.
[2] Đạo đức sinh học, Nhóm biên soạn, tr 77
[3]
Sđd, tr. 81.
[4] Trần Mạnh Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân Lý, tr 264.
[5] Lương Tâm Nhân Loại, tr. 77.
[6]
Gioan Phaolo II, Thông Điệp Tin Mừng về Sự
Sống, Số 19.
[7]
Gioan Phaolo II, Tiến về Ngàn Năm Thứ Ba,
Roma 1994, tr
78.
[8]
X. Maria Paz Marino, Cuối Cùng Ta cũng Tự
Do, Bellarmin – desclée de Brouwer, tr 199.
[9] X. Trần Mạnh
Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân Lý, tr 280.
[10] X. Đức Gioan Phaolo II, Tiến về ngàn năm thứ ba, Roma 1994, tr
155.
[11] X. Thomas Merton, Không ai là Một Hòn Đảo, tr 215 - 216.
[12] Đức Benedicto XVI, Thông điệp Spe Salvi, số 39.
[13] Đức Gioan Phaolo II, Tin Tưởng và Hy Vọng, số 210.
[14] Đức Benedicto XVI, Spe salvi, số 1.
[15] X. Đức Benedicto XVI, Spe salvi, số 10.
[16] Đạo Đức Sinh Học, tr.120.
[17] Đức Gioan Phaolo II, Tin Mừng Sự Sống, số 52.
[18] Đức Gioan Phaolo II, Thông điệp Tin Mừng Sự Sống, Số 2.
[19] X. GLCG Số 2270.
[20] X. Phạm Văn Tú, Thực hành y khoa và vấn đề an tử - trợ tử dưới
nhãn quan luân lý công giáo, An tôn và Đuốc sáng, 2006, tr 96.
[21] Đức Pio
XII, Diễn từ gửi đại học Quốc Tế Chuyên
Viên Gây Mê, 24-11-1957.
[22] X. Thánh Bộ giáo Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn An Tử, phần II. Trích từ Trần Mạnh Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân
Lý, tr 328.
[23] X. Cđ Vatican II, Hiến Chế mục
vụ Vui Mừng và Hy Vọng, số 18.
[24] X. Bộ giáo Lý Đức Tin, Tuyên Ngôn về An Tử, phần III. Trích từ Trần Mạnh Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân
Lý, tr 329.
[25] X. Cđ Vatican II, Gaudium et Spes số 15-17.
[26] X. Phạm Văn Tú, Thực hành y khoa và vấn đề an tử - trợ tử
dưới nhãn quan luân lý Công Giáo, tr 141.
[27] X. Cđ Vatican II, Gaudium et Spes, số 63.
[28] X. Gioan Phaolo II, Thông điệp Centesimus Annus (1/5/1991), số 24.
[29] X. Phạm Văn Tú, Thực hành y khoa và vấn đề an tử - trợ tử
dưới nhãn quan luân lý Công Giáo, tr 144.
[30] X. Trần Mạnh
Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân Lý, tr 278.
[31] X. Phạm Văn Tú, Thực hành y khoa và vấn đề an tử - trợ tử
dưới nhãn quan luân lý Công Giáo, tr 145.
[32] X. Trần Mạnh Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân Lý, tr 280.
[33] X. GLCG Số 2277.
[34] ĐTC Gioan Phaolô II, Tin Tưởng và Hy Vọng, số 81.
[35] X. Bộ giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn về An tử - phần II. Trích từ Trần Mạnh Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân
Lý, tr 328.
[36] Sách GLHTCG, số 2258.
[37] X. Nguyễn Văn Khôi, Luân lý Kito giáo qua mười điều răn – quyển
2, Nxb Tôn giáo, Hà Nội 2013, tr 115.
[38] X. Bộ giáo lý Đức Tin, Huấn thị
Donum Vitae, phần dẫn nhập, 5.
[39] X. Tuyên ngôn về An tử, trích từ Trần Mạnh Hùng, An tử - trợ tử dưới nhãn quan Thần Học Luân
Lý, tr 329.
[40] X. Tuyên ngôn về An tử, phần II. Trích từ W. E. May, Đạo đức sinh học Công giáo và hồng ân sự sống
con người, lưu hành nội bộ 2007, tr 53.
Đăng nhận xét