Trong cuộc đối thoại này,
Giáo hội không làm mất đi căn tính của mình,
nhưng tìm cách để giải quyết vấn đề
“Làm thế nào để các tôn giáo trở thành khả tín
trong thời đại tục hoá này”.
Giuse Đinh Ngọc Thiện, TSMTC
DẪN NHẬP
Trong bối cảnh chung của Á châu, khi nói đến sự đa dạng văn hoá, chúng ta không thể không nói đến vấn đề tôn giáo tại lục địa này. Tôn giáo và văn hoá tại Á châu có thể nói thường đi đôi với nhau, nên văn hoá đa dạng thì tôn giáo cũng đa dạng và phức tạp không kém. Tại lục địa này, ngoài các tôn giáo lớn như Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Kitô giáo còn có nhiều tôn giáo và đạo lý triết học khác như Khổng giáo, Lão giáo, Thần đạo cũng như nhiều hệ thống tôn giáo bản địa và truyền thống[1]. Phần lớn dân số tại lục địa này là tín đồ của các tôn giáo khác ngoài Kitô giáo[2], và Giáo hội tại nơi đây chỉ là một nhóm thiểu số[3]. Tuy nhiên khi nói đến đa phức tôn giáo tại Á châu thì đây không chỉ là một sự kiện, mà còn là một vấn nạn lớn, vì các nhóm tôn giáo ở đây, nhất là ở nam Á, cá nhóm tôn giáo đang xung đột với nhau. Nguy hiểm hơn nữa là các xung độ tôn giáo này đang nhắm đến tấn công các Kitô hữu ở đây.[4]
Đây
thật sự là một thách đố rất lớn và là một vấn đề quan trọng đối vớ sứ vụ của
Giáo hội tại lục địa Á châu này. Ở đây có một câu hỏi được đặt ra: “Phải chăng
thực tế này phủ nhận tiềm năng truyền giáo của Giáo hội? Câu trả lời được đưa
ra là “không”. Vì chính nhờ thực tế này, Giáo hội được thúc bách “ý thức về căn
tính, vai trò chứng nhân và sứ vụ của mình, để không là chủ thể đích thực mang
các giá trị Tin Mừng, mà còn là chính con người Đức Kitô nữa”[5] và
theo lời cha Kolvenbach khẳng định: “[…] điều quan trọng là các Kitô hữu đã làm
cho Đức Kitô và ‘sứ vụ tình yêu độc nhất vô nhị’ của Người chiếu toả ra ngoài
chưa.” Như thế, Giáo hội tại Á châu này không thể dùng bạo lực để thực thi sứ vụ
của mình được, nhưng nhất thiết phải đi đến một cuộc đối thoại với các tôn giáo
bạn, đây là một trong ba mặt của cuộc đối thoại tại nơi đây[6].
Trong
cuộc đối thoại này, Giáo hội không làm mất đi căn tính của mình, nhưng tìm cách
để giải quyết vấn đề “Làm thế nào để các tôn giáo trở thành khả tín trong thời
đại tục hoá này?”[7] Vì trong thời đại này, người
Á châu đang đòi hỏi một kinh nghiệm về Thiên Chúa khác trước “Các dân tộc Á
châu đòi hỏi một kinh nghiệm tôn giáo có thể đưa những giá trị nhân bản cũng
như thần thiêng vào trong những thực tại trần thế.”[8].
Điều này cho thấy, tôn giáo tại Á châu này không bao giờ bị xem là không thích
hợp, ngược lại tôn giáo được xem là thành phần toàn vẹn của văn hoá nơi đây[9].
Trước tình hình đó, Giáo hội được mời gọi làm nổi bật lên tính thánh thiêng của
tôn giáo, không phải trong sự gượng ép nhưng trong tinh thần đối thoại và cởi mở.
Giáo hội được mời gọi đối thoại với các tôn giáo khác để tìm ra những điểm
chung mà các tôn giáo đều đang hướng tới. Đó chính là hướng con người về Thiên
Chúa, quy chiếu tất cả về thánh ý Thiên Chúa, thực hiện tinh thần bất bạo động,
sống tinh thần siêu thoát và thái độ ân cần, tôn trọng thiên nhiên[10].
Song song với việc đối thoại Giáo hội cũng muốn loan báo tin Mừng cho người
khác, và thực hiện trong tinh thần đối thoại của Phúc Âm[11].
Như
vậy có thể nói được rằng Giáo hội Á châu liên lạc với các tôn giáo khác bằng một
tinh thần đối thoại và cởi mở. Tất cả đều hướng tới đời sống tâm linh và sự
phát triển của con người tên lục địa này.
1. Thách đố về sứ mạng của Giáo hội tại
Á châu
Nếu
như ngay từ đầu ta đã đề cập tới những lời hối thúc và cổ vũ của Giáo hội cho sứ
mạng của mình trong thế giới, đồng thời ta cũng khẳng định rằng những yếu tố
con người và bối cảnh cụ thể mới như là hồng ân cho sứ mạng của Giáo hội, thì ở
đây, trong bối cảnh của Á châu, Giáo hội đã đang thực tế bước vào một vùng đất
cụ thể và phải đối diện với những thách đố không thể tránh khỏi như đã trình
bày sơ lược ở phần trên. Giám mục Luis Antonio Tagle[12]
khi đứng từ góc nhìn của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu đã cho thấy 4 thách đố
cơ bản của sứ vụ truyền giáo tại Á châu:
Thách
đố đầu tiên chính là các Giáo hội Á châu được mời gọi có một lập trường khiêm tốn
và sâu sắc về truyền giáo. Nói cách khác, các Giáo hội Á châu được mời gọi để
trở về với cách thế mà chính Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mạng của Ngài. Thượng Hội
đồng mời gọi mỗi người trong tư cách là nhà truyền giáo khi đứng trước những
khó khăn của vùng đất này, hãy khiêm tốn để cho Đức Giêsu dạy dỗ, nhìn ngắm Ngài
như nhà truyền giáo và được hoán cải. Chúng ta cần phải qua cuộc hoán cải để
theo đường lối truyền giáo của Ngài. Bởi đây là sứ vụ của Đức Giêsu, tiên quyết
đó là sứ vụ của Đức Giêsu chứ không phải của chúng ta hay của bất kỳ người nào
khác.
Thách
đố thứ hai là việc Giáo hội được mời gọi để tiếp nối ngay trong khi Đức Giêsu
và sứ vụ của Ngài vẫn hiện diện. Làm sao để trong cuộc gặp gỡ này, sứ mạng của
Đức Kitô được mặc lấy một nhục thể, được mặc lấy một hình thể có tính hiện đại
đối với con người Á châu ? Ngay trong hành động của Thượng Hội đồng đã cho thấy
một ý thức sâu xa về việc cử hành “tính Á châu của đức tin Kitô hữu”. Trong
thánh lễ khai mạc và bế mạc Thượng Hội đồng, các phần trong thánh lễ được giao
cho các Giáo hội khác nhau: Tin Mừng được công bố theo truyền thống Syro
Malabar; Alleluia cử hành theo truyền thống Syro Malankara; dâng lễ vật được người Ấn
Độ thực hiện theo vũ điệu tiến lùi của riêng họ; cuộc rước để đến gần đức Thánh
cha mất 30 phút; lúc thánh hiến, các trinh nữ Ấn Độ múa nhảy với hoa và nến… và
mọi người đều cảm thấy hạnh phúc về những khác biệt cùng được cử hành chung
trong thánh lễ này. Cũng có thể nói, họ hạnh phúc vì phần nào đó thấy được hình
ảnh Đức Kitô trong bản sắc riêng của mình.
Thách đố thứ ba
thuộc về Kitô học, người Kitô hữu sống linh đạo Kitô của mình như thế nào.
Thách đố này là thách đố cho chính đời sống nội tại người Kitô hữu khi bước vào
trong môi trường này. Và ở đây, Antonio
Tagle cho thấy ý hướng của Thượng Hội đồng Giám mục là nhắm vào niềm tin của
người Kitô hữu. Đóng góp độc đáo của người Kitô hữu trong vùng Á châu này chính
là niềm tin của mỗi người vào Đức Kitô. Vì không ai có thể chia sẻ Đức Kitô như
chúng ta. Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng nếu có điều gì đó chúng ta có thể nói
với những người đang đặt ra những câu hỏi sâu xa về cuộc sống, thì câu trả lời
của chúng ta phải là Đức Kitô và tất cả những gì Ngài dạy. Nhưng để có thể nói
gì đó về Đức Kitô thì không phải là đơn giản. Chúng ta có thể hiểu và nói về Đức
Kitô như thế nào giữa một thế giới có thật nhiều tôn giáo và cứu độ học như
châu Á? Đây là thách đố đụng chạm đến căn tính Kitô hữu và chiều sâu tâm linh của
mỗi người.
Cuối cùng,
thách đố thứ tư đụng chạm đến cái nhìn và hành động của Giáo hội trước hiện thực
của một xã hội mà Giáo hội đang tìm cách đi vào. Câu hỏi được đặt ra là chúng
ta nên đi vào và đem ơn cứu độ của Đức Giêsu dến những lãnh vực nào của đời sống ở Á châu?[13] Thượng Hội đồng cố gắng tập trung vào những
lĩnh vực thiết thực như trước hết là việc loan báo qua lời Chúa. Một số Giám mục
đề nghị cách giải thích Thánh Kinh theo cách thức và văn hóa của người Á châu,
một số khác lại đề nghị nên đi kèm theo việc loan báo về Lời là đời sống chiêm
niệm[14]. Các giải
đáp tiếp theo là sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương[15], sự đối
thoại, việc kiến tạo hòa bình[16], và sau
cùng là phát triển, thành lập và chuẩn bị những tác nhân truyền giáo[17].
Có thể xem một vài lãnh vực đã được Thượng hội đồng nêu nên trong suốt
khóa họp như là những giải đáp cụ thể cho Giáo hội Á châu. Cũng nhắc lại mong
muốn của Đức Gioan Phaolô II trong tông huấn Ecclesia in Asia về việc Giáo hội trong công cuộc Phúc Âm hóa cần
thiết phải đi sâu thật sâu vào những riêng tư của từng cá nhân những con người
tại Á châu [18], và từ
đây, nền thần học sứ vụ sẽ phải nghiêm túc nhìn thẳng vào mọi khía cạnh trong
môi trường cụ thể này.
2. Mở ra cho gặp gỡ
Dưới quan điểm
của Phan Đình Cho thì chiến lược mà Giáo hội đặt ra hiện nay cho công cuộc loan
báo Tin Mừng tại Á châu chính là hội nhập văn hóa cho đa dạng văn hóa và đối
thoại liên tôn cho đa nguyên tôn giáo[19]. Nhưng
ông cũng cho rằng có một cám dỗ nghiêm trọng trong việc hội nhập văn hóa và đối
thoại liên tôn. Đó chính là việc loại bỏ dần những đặc trưng tôn giáo trong
giáo lý, trong các thực hành luân lý cũng như trong các truyền thống đan tu.
Khi nhấn mạnh đến
khía cạnh hội nhập văn hóa, các nhà thần học[20] cũng phần
nào dựa theo tông huấn Ecclesia in Asia
để trình bày những cách thức trong công việc này. Trước hết đó là sự hội nhập từ
bên trong. Một sự chuyển biến theo kiểu bầu da mới mà Tin Mừng đã tiên báo, đòi
hỏi một sự xét duyệt và thẩm định lại chính đời sống Giáo hội: (1) từ cơ cấu và
kỷ luật; (2) việc nghiên cứu thần học và cách thức diễn tả Đức tin; (3) việc phụng
vụ cũng như các hình thức phụng tự khác; (4) linh đạo và các mẫu gương thánh thiện.
Ecclesia in Asia nhấn mạnh việc tìm
hiểu sâu xa những yếu tố làm nên linh đạo và kinh nguyện gần gũi với tâm hồn
châu Á[21].
Đường hướng thứ
hai là hội nhập văn hóa từ bên ngoài. Đường hướng này nhấn mạnh vào đời sống và
sứ điệp Kitô giáo cần phải góp phần thế nào cho sự tăng trưởng và làm phong phú
văn hóa của mỗi dân tộc. Và giữa vô vàn những cách thế biểu lộ của Giáo hội, vẫn
cần nhất là đời sống chứng tá và đối thoại[22] – “Giáo
hội chỉ đề nghị chứ không áp đặt bất cứ điều gì”. Đây là nỗi bận tâm và ưu tư của cả hai vị cố
Giáo hoàng Phaolô VI[23] và
Gioan Phaolô II[24].
Ngang qua Ecclesia in Asia, Đức Gioan
Phaolô II cho thấy ngài muốn Giáo hội trong công cuộc Phúc Âm hóa cần thiết phải
đi sâu thật sâu vào những riêng tư của từng cá nhân những con người tại Á châu
này[25]. Nói
theo kiểu của Roest Crollius thì giữa những con người trưởng thành và văn minh
hôm nay, không có cách nào khác để truyền đạt một niềm tin riêng tư và sâu thẳm
cho bằng con đường tiếp xúc cá nhân với lòng
tôn trọng sâu xa những xác tín cá nhân của người khác. Tuy nhiên, nhà thần học
này cũng lưu ý về một sự tinh tế trong việc phân định tâm linh của chúng ta, những
con người đang phục vụ cho sứ vụ của Nước Thiên Chúa. Và để làm được như thế,
chắc chắn là phải cần đến một sự trưởng thành toàn diện nơi những nhà truyền
giáo hôm nay.
Đường hướng thứ
ba được quan tâm chính là vai trò của các Giáo hội địa phương. Đây là đường hướng
không tập chú vào cơ cấu hay kỷ luật, nhưng là quan tâm đến môi trường sống và
hoạt động mục vụ của các Giáo hội địa phương. Một mô tả về những kiểu Giáo hội
này được Liên Hội đồng Giám mục Á châu năm 1947 nhắc tới:
Giáo hội địa
phương là một Giáo hội nhập thể trong lòng dân tộc, một Giáo hội bản xứ và hòa
nhập. Và một cách cụ thể, điều này có nghĩa là một Giáo hội đối thoại không ngừng,
khiêm tốn và yêu thương với những truyền thống, những nền văn hóa và các tôn
giáo sống động – tóm lại, với tất cả những thực tại cuộc sống của dân tộc, nơi ấy
Giáo hội cắm rễ cách sâu xa và hân hoan đón nhận lịch sử và cuộc sống của dân tộc
ấy làm của mình. Giáo hội ấy tìm cách chia sẽ bất cứ điều gì thực sự thuộc về
dân tậc ấy, như là: các ý nghĩa và giá trị, những khát vọng, tư tưởng và ngôn
ngữ cũng như nghệ thuật, thậm chí ngay cả những khiếm khuyết và những thất bại,
nhờ đó, tất cả cũng được chữa lành. Vì chính Con Thiên Chúa đã đón nhận tình trạng
sa ngã, yếu đuối của con người (ngoại trừ tội lỗi), hầu Người có thể thực sự lấy
đó làm của mình và cứu độ họ qua mầu nhiệm phục sinh của mình.[26]
Và điều quan trọng
đi liền với tiến trình hội nhập, mà thậm chí còn quan trọng hơn, phải là sự dấn
thân cho sự giải phóng và thăng tiến con người. Nếu thực tại châu Á là nơi mà
văn hóa và tôn giáo cộng sinh một cách sống động và tương tác lẫn nhau trong sự
phức tạp của lịch sử và hiện đại, thì vấn đề hội nhập hay đối thoại không thể
tách khỏi và càng không thể làm ngơ nhiệm vụ giải phóng và thăng tiến con người.
Chẳng hạn khi đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo ở Ấn Độ hiện nay, không
thể nào chỉ giới hạn nền văn hóa của giới thượng lưu, các loại kinh điển hay
các nghi lễ của Ấn giáo, song còn phải nhất thiết quan tâm đến tiếng nói của những
người sống bên lề xã hội, những nỗi khổ đau của giai cấp Dalit và các bộ lạc[27]. Đây là
điều hết sức quan trọng cho tâm thức sứ mạng của Giáo hội, cách riêng các nhà
truyền giáo. Và phải nói chắc như Đức Gioan Phaolô II rằng công cuộc Phúc Âm
hóa cần thiết phải đi sâu thật sâu vào những riêng tư của từng cá nhân những
con người tại Á Châu. Những cá nhân đây phải được hiểu là không thể làm ngơ hay
kiểu “tạm thời khất lại” đối với bất kỳ ai hay bất kỳ thành phần nào bé nhỏ nào
trong xã hội. Câu chuỵên về chiên và dê trong ngày phán xét cho thấy Thiên Chúa
quan tâm trước hết tới những con người, những thành phần nhỏ bé và đau khổ bên
lề xã hội.
Việc đối thoại
liên tôn cũng là một thách đố không nhỏ cho công cuộc loan báo Tin Mừng của
Giáo hội tại Á Châu. Tuyên Ngôn Nostra
Aetate[28]
của Công Đồng, một lần nữa được Đức Gioan Phaolô II diễn giải lại trong tông huấn
Giáo hội tại Á Châu:
Khi đã nhấn mạnh
về sự cần thiết của sự đối thoại liên tôn để tiến tới một đức tin vững mạnh
trong Đức Kitô, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nói tiếp về sự cần thiết phải đối
thoại bằng cuộc sống và con tim (dialogue of life and heart). Môn đệ Đức Kitô
phải có tấm lòng hiền lành và khiêm nhượng của Thầy mình, không bao giờ tỏ ra
kiêu căng, không bao giờ có thái độ hạ cố, khi gặp những đối tác trong cuộc đối
thoại (x. Mt 11,29). "Những liên hệ liên tôn được phát huy tốt nhất trong
khung cảnh cởi mở với những tín hữu khác, một thái độ saün sàng lắng nghe, ước
muốn kính trọng và hiểu biết kẻ khác trong sự khác biệt của họ. Để đạt được tất
cả điều đó, cần phải thương yêu kẻ khác. Điều đó phải dẫn đến sự hợp tác, hoà hợp
và làm giàu cho nhau."[29]
Ngài xem đó là
Hiến chương về đối thoại liên tôn của thời đại chúng ta. Ngài cũng nhắc lại những
gì thiết yếu đã nói trong văn kiện Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc[30].
Đó là:
Không
thể loại bỏ các nguyên tắc[31],
cũng không nên chủ trương hoà giải giả tạo (irenicism), nhưng ngược lại, phải
làm chứng lẫn cho nhau để cùng nhau tiến bước trên con đường tìm kiếm và sống
kinh nghiệm tôn giáo, và đồng thời loại bỏ được những tiên kiến, bất bao dung
và hiểu lầm. Chỉ những người có đức tin Kitô giáo trưởng thành và xác tín, mới
có tư cách dấn thân vào việc đối thoại liên tôn chân chính. Chỉ những Kitô hữu
được dìm sâu vào trong mầu nhiệm Đức Kitô và sống hạnh phúc trong cộng đồng đức
tin của họ, mới có thể dấn thân vào việc đối thoại liên tôn, mà tránh được sự
liều lĩnh không đáng và có hy vọng hái được hoa quả tích cực. Do đó, điều quan trọng
tại Á Châu là cung cấp những kiểu mẫu xứng hợp[32]
cho cuộc đối thoại liên tôn -Phúc âm hoá trong đối thoại và đối thoại để Phúc
âm hoá- và sự đào tạo xứng hợp cho những ai dấn thân vào đó.
Như vậy, công cuộc đối thoại ngay tại vùng đất Á châu này cũng có đầy những
đòi hỏi không hề đơn giản đối với Giáo hội. Để có thể có những sứ đồ Đức Giêsu
trưởng thành trong niềm tin chắc hẳn Giáo hội phải đầu tư cũng như chuẩn bị rất
nhiều. Nó đòi hỏi canh tân nội tâm về đức tin và đời sống Kitô giáo cũng như một
sự dấn thân không mệt mỏi nơi chính Giáo hội – những môn đệ ngày hôm nay của Đức
Giêsu giữa lòng châu Á. Đối thoại như thề nào cũng đều phải đi được tới hiệp
thông là khía cạnh thiết yếu của sứ mạng Giáo hội.
Và một điều mà
Giáo hội Á châu không được quên dù là trong hội nhập hay đối thoại, đó là nếu
việc “mở ra cho gặp gỡ” giống như một hành trình ra đi, thì Giáo hội cần phải
luôn ý thức sự ra đi đó là ra đi trong sự soi rọi của Ba Ngôi. Chính mầu nhiệm
Ba Ngôi trong một Chúa sẽ là một lý giải và hy vọng cho Giáo hội trước một vùng
đất đầy những khác biệt như Á châu.
Một khía cạnh
khác mà thần học sứ vụ cũng cần quan tâm là vấn đề đa phức tôn giáo và đa
nguyên tôn giáo, với trình bày của Edgar G. Javier, đã đang nan giải trên thực
tế của lục địa này.
Các nhóm tôn
giao đang xung đột với nhau. Ở Nam Á, đây là vấn đề quan trọng. Amaladoss đã liệt
kê các trường hợp sau đây:
Tại Ấn Độ, các
cuộc bạo động giữa Ấn giáo và Hồi Giáo đã diễn ra hơn 70 năm nay. Và gần đây,
tín đồ Ấn giáo bản thủ đã tấn công các Kitô hữu. Tại Pakistan và Bangladesh, phần
đông tín đồ Ấn giáo là dân nhập cư. Tại Pakistan, những luật chống phạm thượng
dường như nhắm đến các Kitô hữu. Tại Sri Lanka, cuộc nội chiến đang diễn ra
trên bình diện sắc tộc lẫn tôn giáo. Tại Myanmar, các cuộc xung đột giữa chính
phủ với các nhóm phiến poạn Karen cũng bắt nguồn trên hai bình diện sắc tộc và
tôn giáo.
Tại Đông Nam Á, chúng ta cũng thấy nhiều trường hợp tương tự. Tại
Philippines, lâu nay vẫn xảy ra các cuộc xung đột vũ trang giữa Kitô giáo và Hồi
giáo. Tại Indonesia cũng xảy ra các cuộc xung đột tương tự giữa Kitô giáo và Hồi
giáo.[33]
Xung đột tôn giáo là một trong những hệ quả của đa phức và đa nguyên tôn
giáo. Tuy nhiên, G. Javier cũng cho thấy đa nguyên luôn đi kèm với thái độ vô tín
và hoài nghi các hệ thống niềm tin cũng như các hệ thống giá trị, nhưng không lọai
trừ niềm tin cũng như các giá trị.
3. Người châu Á cùng với sứ vụ của Giáo hội
Tương quan về kinh tế xã hội, hoàn
cảnh nghèo đói dai dẳng và sự khai thác bóc lột dân chúng là những sự việc đáng
lo lắng nhất. Tại Á châu có hàng triệu người bị áp bức, qua bao thế kỷ bị đặt
bên lề xã hội về mặt kinh tế, văn hoá và chính trị, sự nghèo đói và khai thác
bóc lột người phụ nữ vẫn là một vấn đề nghiêm trọng. Phụ nữ mù chữ nhiều hơn
đàn ông; và trẻ gái bị giết khi còn là thai nhi hoặc sau khi ra đời xem ra cũng
nhiều hơn. Cũng có hàng triệu người bản xứ hay dân bộ lạc khắp vùng Á châu đang
sống biệt lập về mặt xã hội, văn hoá và kinh tế khỏi tầng lớp dân đang thống trị…[34]
Tuy nhiên về
các giá trị khác, người châu Á càng ngày càng ý thức về nhân phẩm và các quyền
của mình và quyết tâm hơn để gìn giữ nó. Dân Á châu hãnh diện về các giá trị
tôn giáo và văn hoá của mình, như yêu mến sự thinh lặng và chiêm ngưỡng, sự đơn
sơ, hài hoà, quên mình, bất bạo động, chăm chỉ làm việc, kỷ luật, sống mộc mạc,
khao khát hiểu biết và tìm kiếm triết lý. Họ quý trọng những giá trị như tôn trọng
sự sống, lòng trắc ẩn đối với mọi sinh vật, gần gũi với thiên nhiên, hiếu thảo
với cha mẹ, đàn anh và tổ tiên, và một ý thức cộng đồng cao độ. Đặc biệt, họ
coi gia đình là nguồn sống ban sức mạnh, một cộng đồng liên kết chặt chẽ có một
cảm thức mạnh mẽ về tình liên đới. Các dân tộc Á châu nổi tiếng có tinh thần
bao dung tôn giáo và sống chung hoà bình. Tuy không phủ nhận rằng còn có những sự
căng thẳng chua xót và những xung đội dữ dội, nhưng có thể nói rằng châu Á thường
tỏ ra có một khả năng thích nghi đặc biệt và cởi mở tự nhiên đối với nền phong
phú các dân tộc, giữa tình trạng đa nguyên tôn giáo và văn hoá.[35]
Đây là những
giá trị căn bản của con người Á châu. Việc nhận định rõ ràng những điểm này sẽ
giúp Giáo hội khám phá được những đóng góp to lớn của cộng đồng người Á châu
cho công cuộc loan bán Tin Mừng, đồng thời cũng cho Giáo hội có một hướng đi cụ
thể trong việc phục vụ cộng đồng các dân tộc sống tại vùng đất này.
Đường lối cho sứ vụ của Giáo hội tại đây được Thượng Hội đồng nghiên cứu cẩn thận và hướng dẫn khá rõ ràng,
cụ thể. Từ tầm nhìn mà Đức Thánh cha đặt ra[36],
Thượng Hội đồng không ngừng ưu tư về sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Giêsu
tại Á châu: làm sao để cho họ được sống và sống dồi dào ân thánh Tin Mừng[37].
Và trong điều kiện các Giáo hội Á châu cần phát triển những nỗ lực tôn giáo mới
cho bối cảnh Á châu, Thượng Hội đồng cũng như cách riêng với mỗi đại biểu đều
cho thấy cách tiếp cận của công cuộc rao giảng Tin Mừng cần khởi đi từ chính những
đặc trưng từ con người và văn hóa sống của họ.
Thượng Hội đồng
trước tiên muốn mỗi nhà truyền giáo trong sự ra đi của mình phải khởi đi từ một
nền linh đạo truyền giáo sâu xa, bắt nguồn từ Đức Giêsu, nhấn mạnh cách đặc biệt
tới lòng trắc ẩn, liên đới với người nghèo và người đau khổ[38]
- một sự trắc ẩn, quan tâm đến từng cá nhân con người trong đó. Thượng Hội đồng
nói rằng với người Á châu, Đức Giêsu hoàn toàn có thể được biết đến với tư cách
cá nhân qua những kinh nghiệm của con người hơn là học thuật. Và tính khả hữu của
nhà truyền giáo nằm ở chỗ bản tính là người nam người nữ, sống đơn giản và sâu
sắc hơn là một học giả.[39]
Giám mục Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo, người Indonesia, cho biết rằng:
ở Á châu, người ta tin vào điều mình nhìn thấy, người ta đánh giá những con người
và những tương quan hơn là học thuyết; cho nên trong công cuộc rao giảng Tin Mừng,
Giáo hội nên học biết người ta đánh giá con ngưởi và những mối tương quan như
thế nào… và ngài chỉ ra rằng chính những đặc trưng châu Á này là lời mời gọi đầu
tiên để Giáo hội bắt đầu sứ vụ của mình.[40]
Cũng trong tầm nhìn đó, Hồng y Joseph Mary Phạm Đình Tụng vạch ra cho thấy yếu
tố đối thoại tại châu Á phải là đối thoại về cuộc sống và không được phòng thủ
với bất kỳ ai. Ngài cho thấy một chứng nhân cụ thể là Mẹ Têrêsa Calcutta, chính
bằng cách đó, mẹ đã chỉ cho Giáo hội con đường đối thoại với Ấn giáo cũng như với
tất cả các tín đồ các tôn giáo khác tại Á châu này.[41]
Thượng Hội đồng
cũng không ngần ngại đề nghị những sáng kiến mới về truyền giáo cho bối cảnh cụ
thể tại Á châu này. Một trong những sáng kiến quan trọng và được quan tâm đặc
biệt nhất là việc khuyến cáo mọi Giáo hôi địa phương ở châu Á, nơi nào chưa có,
nên thành lập các tu đoàn tông đồ truyền giáo[42],
có đặc tính là dấn thân hoàn toàn cho sứ vụ Ad
Gentes, Ad Exteros, và Ad Vitam. Bên cạnh đó Thượng Hội đồng
cũng tái khẳng định lại vai trò của từng người Kitô hữu, dù thuộc thành phần
nào, lứa tuổi nào[43].
Người nữ tại Á
châu cũng là điều Thượng Hội đồng quan tâm lưu ý đến cho các Giáo hội. Khi suy
nghĩ về hoàn cảnh người nữ trong xã hội Á châu, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng
ghi nhận rằng việc gây ý thức cho người nữ về nhân phẩm và quyền lợi của họ là
một dấu chỉ thời đại có ý nghĩa nhất[44].
Mặc dầu không
trực tiếp đề cập đến cộng đồng người Á châu, nhưng mô hình Evangelii Nuntiandi cũng gióng lên một sứ diệp về việc giải phóng
con người:
Giữa việc truyền
bá phúc âm hoá và việc thăng tiến của con người - việc phát triển và giải phóng
- thực sự có những liên hệ sâu xa.
Các dân tộc đang tận lực gắng sức và chiến đấu để thắng vượt những gì áp
buộc họ cứ phải sống bên lề cuộc đời: như đói khát, bệnh tật kinh niên, nạn mù
chữ, bần cùng, những bất công nơi các liên hệ quốc tế và nhất là nơi những giao
dịch về thương mại, những trường hợp tân thực dân về kinh tế và văn hoá đôi khi
cũng dữ tợn như chủ nghĩa thuộc địa cũ. Như các vị giám mục lập đi lập lại,
Giáo hội có nhiệm vụ phải loan báo việc giải phóng cho triệu triệu con người,
trong đó nhiều người là con cái của Giáo hội - có nhiệm vụ tiếp tay giúp vào việc
chào đời của cuộc giải phóng này, giúp vào việc làm chứng
cho nó, giúp vào việc bảo đảm đạt thành nó.[45]
Giáo hội chắc chắn lấy làm quan trọng trong
việc xây dựng những cơ cấu nhân bản hơn, chính trực hơn, tôn trọng nhân quyền
hơn, ít bị đàn áp và cầm buộc hơn, thế nhưng, Giáo hội cũng nhận thức
rằng, các cơ cấu hay nhất và những tổ chức lý tưởng nhất chẳng bao lâu sẽ trở
thành vô nhân bản, nếu những bản năng vô nhân bản của tâm can con người không
được lành mạnh hoá, nếu những ai sống trong những cơ cấu này, hay những ai quản
trị chúng, không chịu hoán cải cõi lòng và quan niệm của mình.[46]
Toàn bộ chương VI của Ecclesia in
Asia mở ra như một hướng đi của nền thần học sứ vụ tại Á châu tiếp tục nhắm
đến đến sự phục vụ của Giáo hội đối với sự thăng tiến con người. Á châu được mô
tả với những hạn chế về quyền con người và vì lý do tôn giáo (số 33), nghèo khổ
về mặt kinh tế (số 34), văn hóa sự chết và loại trừ (số 35). Hoàn cảnh đó tạo
nên hằng triệu người nghèo, trẻ em bị bóc lột, phụ nữ bị đối xử như nô lệ, các
người tị nạn, di dân, người thổ dân, những người không được chăm sóc về y tế.
Việc bảo vệ nhân quyền và cổ võ công lý là một thách đố "không thể tránh
và không thể khước từ" đối với Giáo hội. Phương tiện để thực hiện điều đó
là dạy bảo về học thuyết xã hội của Giáo hội ; tạo sự liên đới mới giữa các quốc
gia giàu và quốc gia kém phát triển (số 32) ; dấn thân trong việc giáo dục và y
tế với một "căn tính Kitô giáo rõ rệt" (số 37) ; nỗ lực tìm kiếm hòa
bình trên phương diện liên tôn giáo và quốc tế (số 38). Ðức Thánh Cha nhắc đến
"những đau khổ của nhiều người dân tại một số nước ở Á châu mà do những hệ
lụy khác nhau, phải thiếu thốn các tiện nghi căn bản để sống". Ngài kêu gọi
những người có trách nhiệm hãy tìm kiếm "một giải pháp thích đáng cho sự
khủng hoảng" (số 38). Ngài vạch ra cho Giáo hội những dấn thân trong thế
giới toàn cầu hóa, khuyến khích giáo dân tìm kiếm "những qui tắc đạo đức
và pháp lý để đảm bảo "sự toàn cầu hóa mà không gạt một số người ra ngoài
lề" (số 39) ; để giảm bớt nợ nần quốc tế, bằng cách kêu gọi các chính phủ
chủ nợ diệt trừ nạn tham nhũng (số 40) ; bảo vệ môi sinh ; dấn thân cho công lý
là một khía cạnh của sự thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực (số 41).
4. Hướng tới Ơn cứu độ
Đây
là một thực tại trung tâm của Tin Mừng tại Á châu, thực tại này đặt câu hỏi cho
chính Giáo hội. Chúng ta có thể hiểu và nói về ơn cứu độ nơi Đức Kitô như thế
nào giữa một thế giới có thật nhiều tôn giáo và cứu độ học như Á châu?
Khi
cố gắng trình bày về mầu nhiệm Ơn cứu độ cho mọi người, Giáo hội và các nhà
truyền giáo học trong Giáo hội khởi đi ít nhất từ hai chân lý căn bản đó là:
Thiên Chúa không kết tội ai về điều mà họ không có trách nhiệm; và Thiên Chúa
muốn mọi người được cứu độ. G. Stellin tiếp tục triển khải đường hướng chủ đạo
này để cho thấy: vì Thiên Chúa không kết tội ai về điều mà người đó không có
trách nhiệm, nên cũng chẳng thể coi một ai đó là tội nhân chỉ vì họ sinh ra
trong truyền thống tôn giáo Phi châu hay Á châu, hoặc trong Thần đạo, Ấn giáo
hay Phật giáo… và vì Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ[47]
chính là tín điều về ơn cứu độ phổ quát nơi Thiên Chúa[48],
nên Ngài không ngần ngại ban cho hết các con cái của mình những phương tiện đầy
đủ để được cứu độ, những phương tiện này nằm ngay trong môi trường lịch sử và
văn hóa mà người đó đang sống[49].
Chính trong khung cảnh của lịch sử và văn hóa Á châu này, Giáo hội có một niềm tin vững vàng vào sự hoạt động
năng động của Chúa Thánh Thần. Điều này được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, đại
diện cho Giáo hội hoàn vũ, xác tín và tái khẳng định trong tông huấn cùa ngài:
Giáo
hội xác tín rằng tự sâu trong lòng dân chúng, trong các nền văn hoá và tôn giáo
tại Á châu, có một cơn khát "Nước Hằng sống" (x. Ga 4,10-15), một cơn
khát chính Thần Khí đã tạo ra. Và xác tín chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể
thoả mãn trọn vẹn. Giáo hội trông chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị các dân
tộc Á châu vào cuộc đối thoại cứu độ với Đấng Cứu Thế của mọi người. Được Thần
Khí hướng dẫn trong sứ vụ phục vụ và tình yêu, Giáo hội có thể trao tặng một
cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và các dân tộc tại Á châu khi họ đi tìm cuộc sống
viên mãn. Chỉ trong cuộc gặp gỡ đó, mới gặp được nguồn Nước Hằng Sống vọt đến
sự sống đời đời, nghĩa là, sự hiểu biết một Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu
Kitô mà Người đã sai đến (x. Ga 17,3).[50]
Trong
mục này ta tạm thời đừng lại ở niềm xác tín về Ơn cứu độ. Còn câu trả lời sẽ
phải là sự tích hợp, một cái nhìn tổng quát, chính những hằng số về sứ vụ được
trình bày trong toàn bộ bài viết này.
5. Giới thiệu Đức Kitô
Các Giám
Mục Á châu nhắc đến các khó khăn khi
rao giảng Đức Giêsu như Đấng Cứu độ duy nhất. Trong Hội nghị, hoàn cảnh
được diễn tả như sau:
Một số người theo các tôn giáo lớn tại Á
châu, không có vấn đề gì khi chấp nhận Đức Giêsu như một hiển hình của Thần
Thánh hay Đấng Tuyệt Đối, hay là một minh chủ. Nhưng đối với họ thật khó mà
công nhận Người như một hiển hình duy nhất của Thiên Chúa.
Thật thế, nỗ lực chia sẻ ơn huệ đức tin vào Đức Giêsu như Đấng Cứu Độ duy nhất, gặp đầy dẫy những khó khăn về phương diện triết học, văn hoá và thần học, đặc biệt trong ánh sáng của những niềm tin của các tôn giáo lớn tại Á châu, đan kết sâu xa với các giá trị văn hoá và những lối nhìn riêng biệt về thế giới. Nhưng các Nghị Phụ Thượng Hội đồng cũng nhìn nhận hoạt động của Thần Khí trong các xã hội, văn hoá và tôn giáo Á châu, nhờ đó mà Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn cho các dân tộc Á châu đón nhận đầy đủ sự sống trong Đức Kitô.
Như vậy sứ vụ rao
giảng Đức Giêsu theo một cách thức làm cho các dân tộc Á châu được đồng hoá với
Người, đang khi vẫn trung thành với giáo thuyết thần học của Giáo hội và với
những nguồn gốc Á châu của mình, sứ vụ đó là một thách đố tột bậc.
Phát biểu của Giám mục Ramon B. Villena, người
Philippines, trong Thượng Hội đồng có lẽ là một ý tưởng hay trước các vấn nạn về
Đức Giêsu được đặt ra tại vùng đất phức tạp này. “Đức Giêsu được sinh ra tại
châu Á. Tin Mừng cũng được viết tại châu Á. Bằng đời sống chứng nhân, chúng ta
truyền giáo cho người châu Á để họ có thể nói: ‘Đức Giêsu đã trở lại Á châu’”.[51]
Điều có thể tác
động đến người Á châu để đi tới một sự hoán cải tâm trí phải đến từ một kinh
nghiệm sống thực tế. Cũng vậy, để người châu Á để họ có thể nói: ‘Đức Giêsu đã
trở lại Á châu’ đòi hỏi Giáo hội phải cho họ những kinh nghiệm thực tế mà họ có
thể nhận diện sự hiện diện của Đức Giêsu. Như Thượng Hội đồng đã vạch ra cho thấy
trong bối cảnh và con người Á châu, những tác động từ kinh nghiệm sống thực sự
có ý nghĩa như thế nào đối với họ. Cái quan trọng hơn cả về lời loan báo Tin Mừng
tại Á châu này trước hết phải là đời sống chứng tá sâu xa với tình yêu thương,
sự quan tâm, lòng trắc ẩn, trong thái độ khiêm tốn lắng nghe của nhà truyền
giáo, đúng hơn là của bất kỳ ai ý thức bản thân mình là Kitô hữu, là người có sứ mạng và có trách nhiệm về
sứ mạng.
Làm
chứng về Đức Giêsu Kitô là công việc phục vụ cao cả nhất mà Giáo hội có thể
trao tặng cho các dân tộc Á châu, bởi vì việc đó đáp ứng với sự ước mong sâu xa
của họ được gặp Đấng Tuyệt Đối, và nó cũng vén mở những chân lý và những giá
trị bảo đảm sự phát triển toàn diện con người.[52]
Vì
ý thức sâu xa đến tính phức tạp của rất nhiều hoàn cảnh khác nhau tại Á châu,
và phải "nói sự thật trong tình bác ái" (Ep 4,15), nên Giáo hội loan
báo Tin Mừng với lòng kính nể và tôn trọng đầy yêu thương đối với thính giả của
mình. Việc loan báo mà tôn trọng các quyền của lương tâm thì không xúc phạm tự
do, bởi vì đức tin luôn đòi hỏi một sự đáp trả tự do về phía cá nhân. Tuy nhiên
sự kính trọng không loại đi sự cần thiết phải rao giảng công khai Tin Mừng
trong sự toàn vẹn của nó. Cách riêng trong bối cảnh nhiều nền văn hoá và tôn
giáo tại Á châu, phải nêu rõ rằng "không phải sự kính nể và tôn trọng các
tôn giáo này, cũng không phải tính phức tạp của các vấn đề nẩy sinh, là một lời
mời gọi Giáo hội rút lui khỏi sự rao giảng Đức Giêsu cho những người không Kitô
hữu này".
Các Nghị phụ Thượng
Hội Đồng ý thức rõ về nhu cầu khẩn khiết của Giáo hội tại Á châu, muốn trình
bày mầu nhiệm Đức Kitô cho các dân tộc mình, theo những kiểu mẫu văn hoá và cách suy nghĩ của họ. Nhưng sự chấp nhận
đức tin của một con người phải được đặt nền tảng trên một sự hiểu biết chắc chắn
về con người Đức Giêsu.[53]
Việc
trình bày Đức Giêsu Kitô là một Đấng Cứu Độ duy nhất, cần phải theo một khoa sư phạm, từng bước dẫn đưa dân
chúng đến việc đón nhận trọn vẹn mầu nhiệm. Rõ ràng là việc loan báo Tin Mừng
lần đầu tiên những người không Kitô hữu, và việc rao giảng Đức Giêsu tiếp theo
đó cho những kẻ tin, phải khác nhau trong cách tiếp cận. Trong lần loan báo đầu
tiên, chẳng hạn, "có thể trình bày Đức Giêsu Kitô như sự hoàn thành những
khát vọng được diễn tả trong các thần thoại và văn học dân gian của các dân tộc
Á châu". Nói chung, phương pháp kể truyện, quen thuộc với văn hoá Á châu,
thì đáng được dùng ưu tiên. Các Nghị Phụ
lưu ý, Giáo hội phải cởi mở với những phương cách mới và gây ngạc nhiên, nhờ
vậy mà gương mặt Đức Giêsu có thể được trình bày tại Á châu.
1.
Một “Thế Giới Mới”
– một cái nhìn cánh chung
Câu hỏi được đặt ra là khi nào thì vương quyền của Thiên Chúa ngự trị hoàn toàn ? Và Giáo hội tham dự vào tiến trình này như thế nào ?
Cuối cùng, công
cuộc truyền giáo phải tất yếu dẫn tới điểm này: Nước Thiên Chúa, hay Vương quốc
Thiên Chúa, hay Vương quyền Thiên Chúa, trước hết, là ở ý nghĩa hoàn toàn thần
học.[54] Mọi người
đều được Giáo hội mời gọi, nhưng không phải là mời gọi để đến với Giáo hội, mà
là đến với Nước Thiên Chúa. Giáo hội tự thân tồn tại cũng là tồn tại cho Vương
quốc này. Ngang qua Công đồng Vaticano II, Giáo hội đặt hy vọng vào tất cả những
ai ý thức mình là Kitô hữu, là những người mang trong mình niềm hy vọng vô biên
trong tình yêu thương của Thiên Chúa, biết cách và rộng tay trao cho con người
đương thời hay hậu thế niềm tin và niềm hy vọng sống[55]. Giáo hội
đặt hy vọng vào các con cái của mình, không phải vì Giáo hội không thể trả lời
cho ngày của Vương quyền Thiên Chúa, nhưng vì Nước Thiên Chúa là sự hoạt động của
Ngài trong dòng lịch sử để biến đổi tạo vật. Và Giáo hội hy vọng niềm tin cùng
niềm hy vọng sẽ là tiền đề cho ngày nhân loại gặp thấy Nước ấy. Hy vọng này căn
cứ trên bản chất con người vốn được định nghĩa như một kẻ biết mở lòng ra đến với
tha nhân và Thiên Chúa – Đấng Siêu Việt - để
có thể thấy được chính mình đang phản chiếu trong đó. Mà kinh nghiệm cho
thấy sự cởi mở vốn chỉ được hoàn thành khi con người sống trong một cộng đồng bằng
tương quan mật thiết với niềm tin và hy vọng.
Đàng khác,
Thánh Thần lại hiện diện trong lòng của mỗi con người, đồng thời hiện diện năng
động trong văn hóa và lịch sử của các dân tộc[56] để mời
gọi con người, trong văn hóa và lịch sử của mình, cộng tác với Thánh Thần để
nhân hóa và giải phóng các hình thức hiện diện của văn hóa và lịch sử như suy
tư, truyền thống và tập quán…Qua đó ta thấy được Vương quốc Thiên Chúa trải rộng
khắp thế giới chứ không giới hạn nhỏ bé trong Giáo hội. Nên sự hoàn thành Nước
Thiên Chúa tại trần gian này chỉ có thể tìm thấy được trong nỗ lực của con người
tìm kiếm ý nghĩa thế giới.
Đối với người Á
châu, cần thiết phải minh chứng mà trong đó, Giáo hội phải cho thấy được sự nỗ
lực không ngừng nghỉ của mình trên đường hy vọng, tìm kiếm, khám phá thực tại
thế giới.
Vậy, khi rao giảng việc giải phóng và liên
kết mình với những ai đang hoạt động và chịu khổ vì việc rao giảng, Giáo hội
nhất định không muốn giới hạn sứ vụ của mình vào lãnh vực tôn giáo mà thôi (…),
và không chịu thay thế việc loan báo vương quốc, bằng việc loan báo những thể
thức giải phóng thuộc về nhân loại; Giáo hội còn nói lên rằng, việc đóng góp
của Giáo hội vào việc giải phóng sẽ không trọn vẹn, nếu Giáo hội lơ đãng trong
việc loan báo ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô.[57]
KẾT LUẬN
Khi tìm hiểu về
sứ vụ truyền giáo tại Á châu, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng sứ vụ của Giáo
hội là truyền giáo. Sứ vụ này cần đi vào trong những miền đất, những địa phương
với những con người cụ thể. Chính khi Giáo hội thực thi sứ vụ cách cụ thể như vậy,
Giáo hội thường gặp phải không ít những khó khăn từ chính những nơi đó. Những
khó khăn hiện nay mà Giáo hội nơi lục địa này đang gặp phải, với những vấn đề về
đa nguyên, đa tôn giáo, đa sắc tộc, đa văn hoá. Chúng thực sự là những rào cản
trong việc đem Tin Mừng cứu độ đến cho lục địa này. Tuy nhiên, những khó khăn
đó không thể làm cho bước chân truyền giáo của Giáo hội bị dừng bước hay bị huỷ
bỏ ở nơi đây. Ngược lại, Giáo hội đã tìm ra những phương thế thích hợp cho công
việc này, Giáo hội đã thích ứng với các nền văn hoá, đi sâu vào lòng các dân tộc
bằng cách hội nhập văn hoá và đối thoại với các tôn giáo khác trong sự cởi mở[58]. Giáo hội
đã có những bước tích cực để hoà nhập và đi tìm những cách thức để có thể gặp gỡ
với các nền văn hoá đó, vì Giáo hội không mang tính thụ động, nhưng mang tính
chất đối thoại và mang tính nhập thể trong lòng dân tộc để trở thành Giáo hội địa
phương[59]. Chính
Giáo hội này không ngừng đối thoại trong khiêm tốn và yêu thương những truyền
thống, những nền văn hoá và các tôn giáo sống động.
Tuy nhiên, để sứ
vụ của Giáo hội đạt được kết quả thì sứ vụ này nhất thiết cần đến sự cộng tác của
chính những con người cụ thể nơi đây. Vì chính những con người này đã và đang sống
trong nền văn hoá, sống cùng các tôn giáo bạn, nên họ có thể hiểu được những
khó khăn mà Giáo hội đang vấp phải, đồng thời cũng có thể tìm ra những phương
thế cụ thể để sứ vụ của Giáo hội có thể thành công nơi lục địa này. Vì thế, các
Kitô hữu thuộc mọi tầng lớp đều được mời gọi và trao cho nhiệm vụ “làm chứng
cho thế gian về đời sống Kitô giáo và thể hiện những giá trị của Nước trời.”[60] Cách đặc
biệt, các Kitô hữu sống đời dâng hiến, những người sống ơn gọi theo chân Đức Kitô
chính là những cộng tác viên đắc lực nhất cho sứ vụ của Giáo hội. Đó chính là
chúng ta. Chúng ta được Đức Kitô cũng như Giáo hội mời gọi trở thành chứng nhân
của Tin Mừng cho lục địa của mình, để qua đó người châu Á có thể nói “Chúa
Giêsu đã trở lại Á châu”.[61]
Gitanjali
R. Tagore
Thời gian cuộc hành trình tôi đi
thì dài và đường đi cũng thế.
Tôi ra xe lúc trời vừa tảng sáng,
ruổi rong qua bao thế giới hoang vu,
dấu chân in trên nhiều vì sao và hành tinh.
Đây là cuộc ra đi xa xôi nhất,
cuộc ra đi dẫn tôi đến bên người;
cuộc tập dượt phức tạp nhất chính là cuộc tập dượt
đưa tới vẻ giản đơn tột cùng của một hòa âm.
Trước khi về tới nhà mình,
lữ khách đã phải gõ cửa biết bao căn nhà xa lạ;
lữ khách phải lang thang qua bao thế giới bên ngoài
cuối cùng mới đến miếu thất sâu thẳm bên trong.
Mắt tôi đã lang thang khắp bốn phương trời
trước khi tôi nhắm mắt lại và nói:
“Mình đến nơi rồi!”
Câu hỏi và tiếng kêu: “Ồ, nơi nao?”
biến tan thành ngàn suối lệ,
nhận chìm thế giới dưới sóng xác tin:
“Ta tới rồi đây”.
[1] James H. Kroeger, “Á châu, một
lục địa đang xuất hiện niềm hy vọng truyền giáo”, tr. 22.
[2] Theo thống kê năm 1995 thì dân
số Á châu là gần 3.5 tỉ người trong đó Phật giáo có khoảng 300 triệu tín đồ; Hồi
giáo khoảng 700 triệu; Ần giáo khoảng 650 triệu; trong khi đó Công giáo chỉ khoảng
100 triệu người.
[3] Ibid., tr. 13.
[4] x. Edgar G. Javier, SVD., “Đối
thoại liên tôn tại Á châu những vấn đề và thách đố hiện nay”, tr. 123
[5] James H. Kroeger, ibid., tr.14.
[6] Ba mặt của cuộc đối thoại của
Giáo hội Á châu là: đối thoại với các nền văn hoá Á châu, đối thoại với các tôn
giáo Á châu, và đối thoại với các dân tôc Á châu, nhất là người nghèo. Ibid.,
tr.17.
[7] Edgar G. Javier, SVD., “Đối thoại
liên tôn tại Á châu những vấn đề và thách đố hiện nay”, tr. 132
[8] Ibid.
[9] Ibid., tr. 131.
[10] Nguyễn
Thái Hợp, Đường vào thần học về tôn giáo,
(tái bản lần 2), Dấn thân, Houston, 2004, tr. 64
[11] Ibid., tr. 59.
[12] Giám mục Luis Antonio Tagle đứng
trong vai trò là một chuyên viên trong ban cố vấn hậu Thượng Hội đồng Giám mục
Á Châu, và là người giúp đức Thánh cha soạn thảo tông huấn Ecclesia in Asia mà đức Thánh cha sẽ công bố sau Thượng Hội đồng.
X. Luis Antonio Tagle, “Những thách đố trong sứ vụ truyền giáo tại Á châu :
Nhìn từ Thượng Hội đồng Giám mục Á châu”, Sứ
vụ truyền giáo tại Á châu hôm nay, Nguyễn Văn Chữ biên tập, Trung tâm Học vấn
Đaminh, 2007, tr. 64-73.
[13] Luis Antonio Tagle, ibid., tr.
73.
[14] Một câu hỏi thiết thực được đặt ra là tại sao ở châu Á, với các
lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe, bệnh viện, bác ái hay các dịch vụ xã hội
khác.. người ta dễ tìm kiếm phẩm chất trong các tổ chức của ngừơi Công giáo,
nhưng khi cần đến sự hướng dẫn tâm linh thì họ lại thích đến với các nhà sư Phật
giáo hay các đan sĩ Ấn giáo?
[15] Tại kỳ họp của Thượng Hội đồng,
một Giám mục Irak, người Chalde, là Giám mục duy nhất cho toàn nước Irak và
toàn thể người Chalde, trong một lần nói chuyện với Giám mục Antonio Tagle,
ngài hỏi:
- Giáo phận của Đức cha có bao nhiêu Linh mục
?
- Chúng tôi có gần 80 người - Giám mục
Antonio Tagle trả lời.
- Xem nào, đó chỉ là một giáo phận, còn
chúng tôi chỉ có 60 Linh mục cho toàn thể quốc gia. Hãy gửi cho chúng tôi một
vài Linh mục nhé !
- Vâng, chúng tôi sẽ gửi…
Vị Giám mục người Chalde lại hỏi tiếp: “Xin
giúp chúng tôi suy nghĩ về điều kỳ lạ này là tại sao ngày nay đã không còn các
Giáo hội tiên khởi ? (…) Tại sao Thiên Chúa lại để cho các Giáo hội này biến mất
? Phải chăng chúng ta không thành thật với ơn gọi của chúng ta ở Á Châu ? Phải
chăng chúng ta không được kêu gọi để thực sự trở nên đàn chiên nhỏ bé? (…) Có
thể chúng ta thực sự được gọi để mãi là một đàn chiên nhỏ bé không ?...”. Giám
mục Antonio Tagle trả lời: “Thưa Đức cha, tôi không biết trả lời thế nào. Đó là
một câu hỏi khó ”. X. Luis Antonio Tagle, ibid.
[16] Chính đức Giám mục Hamo, Nhật Bản
đã thúc đẩy việc này khi ngài nhắc lại một số bất công mà quân đội Nhật đã làm
trong thế chiến thứ 2 mà Giáo hội nhật đã không hề lên tiếng chống lại.
[17] Thựơng hội đồng có trực giác
sâu sắc về điều này rằng đã hẳn Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong việc
truyền giáo, nhưng tại Á Châu, chính các Giáo hội địa phương là tác nhân ttruyền
giáo chứ không phải cá nhân, và tất cả các thành phần khác nhau làm nên hay thuộc
về Giáo hội địa phương đều phải được thúc đẩy để truyền giáo.
[18] Ecclesia in Asia, số 20.
[19] Peter Phan Đình Cho, ibid., tr. 50.
[20] Arija. Roest Crollius, James H.
Kroeger & Peter Phan Đình Cho, eds. “Hội nhập văn hoá và Giáo hội tại Á
châu”, Sứ vụ truyền giáo tại Á châu hôm
nay, Nguyễn Văn Chữ biên tập, Trung tâm học vấn Đaminh, 2007, tr. 109.
[21] Ecclesia in Asia, số 22.
[22] Ad Gentes, số 11.
[23] Phaolô VI, Ecclesiam Suam.
[24] Redemptoris Missio, số 39.
[25] Ecclesia in Asia, số 20.
[26] Liên Hội đồng Giám mục Á châu I, 12.
[27] Peter Phan Đình Cho, ibid., tr.
51.
[28] Nostra Aetate là Tuyên ngôn về
liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, một văn kiện ngắn của
Công đồng Vaticanô II ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965. Bản tuyên ngôn nhắm đến
tình bác ái hiệp thông giữa con người với nhau, và đưa ra một vài chỉ dẫn quan
trọng như là những nguyên tắc cho việc đối thoại của Giáo hội như: bác ái, tôn
trọng, đối thoại, chân nhận những giá trị luân lý và tôn giáo, cổ võ sự hiệp nhất
và yêu tương giữa hết mọi người…
[29] Ecclesia in Asia, số 31.
[30]
Redemptoris Missio là
Văn kiện được ban hành sau hai mươi lăm năm sau khi Công Đồng kết thúc và phổ
biến Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo Ad Gentes, mười lăm năm sau Tông
Huấn Evangelii Nuntatiandi do Đức Phaolô VI ban bố, và để tiếp tục giáo
huấn thuộc huấn quyền của các vị tiền nhiệm của mình, Đức Gioan Phaolô II muốn
kêu mời Giáo Hội hãy canh tân lại việc dấn thân truyền giáo của mình.
Văn kiện này nhắm đến việc canh tân nội tâm về đức tin và đời sống Kitô giáo –
một mô hình thần học sứ vụ nhấn mạnh vai trò trung tâm của Đức Giêsu và tầm
quan trọng của việc chia sẽ sự thật của Thiên Chúa cho nhân loại.
[31] Ngài muốn nói đến những nguyên
tắc đã được đưa ra trong tuyên ngôn Nostra
Aetate
của Công đồng.
[32] Cho đến nay, một kiểu mẫu vẫn luôn
được xem là xứng hợp nhất là mẹ Têrêsa Cancutta.
[33] Edgar G. Javier, “Đối thoại
liên tôn tại Á châu: những vấn đề và thách đố hiện nay” ( Quezon City:
Claretian Publications, 2006 ), Sứ vụ
truyền giáo tại Á châu hôm nay, Nguyễn Văn Chữ biên tập, Trung tâm Học vấn
Đaminh, 2007.
[34] Ecclesia in Asia, số 7.
[35] Ecclesia in Asia, số 6.
[36] “Chúng ta phải viết lên những
chương mới về chứng từ Kitô giáo trong mọi lãnh thổ của thế giới và tại Á châu,
từ Ấn Độ tới Indonesia, từ Nhật Bản tới Liban, từ Hàn Quốc tới Kazakhstan, từ
Việt Nam tới Phillippines, và từ Serbia tới Trung Quốc”.
[37] Ga 10, 10. X. James H. Kroeger,
ibid., tr. 9.
[38] James H. Kroeger, ibid., tr.
18.
[39] Ibid., tr. 19.
[40] Ibid., tr. 16.
[41] Ibid., tr. 17.
[42] Cha Edward F. Malone, trợ lý tổng
thư ký Thượng Hội đồng Giám mục Á châu ghi nhận: đã có sáu tu hội nam xuất hiện
ở Châu Á. Đó là (1) Hội Thừa sai Philippines, (2) Hội Thừa sai thánh Toma tông
đồ ở Ấn Độ, (3) Hội Thừa sai Công giáo Hàn Quốc, Hội Thừa sai Thái Lan, Hội Thừa
sai Lorenzo Ruiz ở Philippines, và hội Các Sứ giả Tin Mừng ở Ấn độ. Các nhóm
này có đặc sủng truyền giáo ad gentes (đến với những ai chưa hề được nghe Tin Mừng
giải thoát và cứu độ của Đức Giêsu ), ad exteros (đến với những người ở ngoài
nhóm văn hóa, ngôn ngữ và dân tộc mình), và ad vitam (tự nguyện hiến dâng đời sống
dấn thân suốt đời cho mô hính truyền giáo này.
[43] Ông Nicholas Somchai Tharaphan,
Thái Lan, trong suốt khóa họp của Thượng Hội đồng, ông cứ nhắc đi nhắc lai “Khi
Giáo hội cố gắng tìm kiếm một lối hiện hữu mới tại Á châu, Giáo hội phải học
cách đồng hành với giới trẻ.
[44] Ecclesia in Asia, số 7.
[45] Evangelii Nuntiandi, số 30.
[46] Ibid., số 36.
[47] 1Tm 2, 4.
[48] Lumen Gentium, số 2.
[49] Victorino Ginardi Stellin,
ibid., tr. 96.
[50] Ecclesia in Asia, số 18.
[51] James H. Kroeger, ibid., tr.,
13.
[52] Ecclesia in Asia, số 20.
[53] Ibid., số 23.
[54] Evangelii Nuntiandi, số 32.
[55]Gaudium
et Spes, số 31.
[56] Redemptoris Missio, số 28.
[57]Evangelii
Nuntiandi, số 34.
[58] Victorino Ginardi Stellin,
ibid., tr. 96.
[59] Arij a. Roest Crollius, James
H. Kroeger & Peter Phan Đình Cho, eds., ibid., tr.111
[60] James H. Kroeger, ibid., tr.,
19.
[61] Ibid., tr. 13.
Đăng nhận xét