Cộng tác liên tôn cho việc bảo vệ phẩm giá & các quyền của con người

 

Trước một thế giới đầy dẫy những thách đố,
công lý, hòa bình, hạnh phúc cho con người và vì con người đang bị đe dọa, bị khủng bố, bị nguy hại…
mỗi tôn giáo đều nhận ra con đường của mình
với những chương trình và hành động riêng
để mong muốn đi tìm một thế giới,
mà trong đó, con người được sống hạnh phúc như họ là
với những quyền căn bản.

Nt. Têrêsa Ngọc Lễ, OP.

Một thế giới của những con người đang bị tổn thương

 Một thời đại, vào thời khắc chúng ta đang sống, được xem như là một thời đại của sự tiến bộ nhanh chóng về nhiều lãnh vực: khoa học, kỹ thuật, kinh tế, xã hội… Toàn cảnh nguy nga, tráng lệ, mạnh mẽ của thời đại chỉ là cái vỏ bọc giả dối, che giấu những nỗi đau khôn nguôi của con người trong thời đại hôm nay.


Những thành tựu khoa học, những phát minh hiện đại, những chương trình mang tính toàn cầu… như mở ra một tương lai mới cho con người thời đại khiến mọi người cảm thấy mừng vui và hy vọng những chân trời mới.  Nhưng giấu ẩn bên trong của một thời đại văn minh ấy là cả một nền văn minh thiếu tình thương, một nền văn hóa của sự chết. Đó là bộ mặt thật của thời đại, của toàn cầu hóa, của những cuộc chiến khoa học, chính trị, kinh tế, y tế, giáo dục… mà con người đang là nạn nhân, bị bóc lột, bị chà đạp, bị coi thường và bị mất đi những quyền lợi căn bản của mình.

Ngày hôm nay, nhìn trong bối cảnh chung trên toàn thế giới và trong từng quốc gia nói riêng, hầu như trong mọi lãnh vực của đất nước: từ chính trị, kinh tế, y tế, giáo dục, văn hóa,… con người không phải là trung tâm của mọi tổ chức, hoạt động các cơ cấu xã hội phải qui hướng về. Các nhà nước, tổ chức xây dựng và phát triển bộ máy của mình trên những nền tảng, giá trị khác nên mới có những chuyện khập khiễng, mới có những mớ luật hão, không thực để có thể tôn trọng và bảo vệ con người một cách thật sự. Con người không phải là trung tâm của các dự án đầu tư, phát triển, nhưng chỉ là bàn đạp để tổ chức, chính phủ, tập thể hay cá nhân đạt đến mục đích của chủ nghĩa nó đi theo, để thiết lập và làm cho hệ thống cơ cấu nó tồn tại. Vì thế, sẽ không lạ gì khi các đảng phái, nhà nước hay tổ chức lập pháp nào đó tập trung sức mạnh quyền lực của mình để đàn áp con người nhằm đạt mục đích riêng của đảng phái, của chủ nghĩa họ đang theo đuổi. Vẫn còn ở đâu đó có những bộ máy nhà nước không cho công dân của mình có quyền tự do ngôn luận, tôn giáo, được đối xử công bằng, được hưởng các chính sách phúc lợi an sinh xã hội về y tế, giáo dục, trợ cấp thất nghiệp…

Các chương trình, dự án phát triển kinh tế của toàn cầu hay của một đất nước, mang tính vĩ mô hay vi mô, cũng chỉ lăm le đi tìm thặng dư kinh tế, lợi nhuận, cho ngân sách đất nước, chứ không chú tâm, coi trọng con người là chủ thể, là đối tượng chủ yếu để các chế độ, tổ chức, chính sách phục vụ. Ở nhiều nơi trên thế giới, và cũng có thể tại quê hương này, con người trở thành công cụ lao động với tiền lương rẻ mạt và bị tước mất nhiều quyền lợi, và bị coi thường. Kiểu độc tài chuyên chế làm cho quyền lợi của người lao động bị gạt ra bên ngoài, để thế chỗ cho lợi nhuận và thặng dư kinh tế của một nhóm, một công ty, hay của một cá nhân, cho dù không thiếu những khoản luật bảo vệ người lao động. Dù có hay không các luật lệ bảo vệ họ, thực tế, vẫn có những tình trạng con người bị đối xử bất công trong lãnh vực kinh tế. Một phần của bức tranh bóc lột con người cũng đã và đang xảy ra tại Việt Nam, chứ không cần phải đi ra ngoài thế giới. Loạt bài phóng sự trên báo Tuổi Trẻ với chuyên đề “Những kiểu “bán sống” con người” (tháng 11/2010) cho thấy sự bóc lột ghê sợ, nhẫn tâm của kẻ có tiền trên những người nghèo, những người khốn cùng trong cuộc sống. Ở những nơi ấy, những con người nghèo đói ấy được xem như những công cụ lao động chứ không phải là con người thật sự.

Không chỉ là đánh cắp của con người những quyền lợi căn bản, nhưng con người còn bị tổn thương sâu sắc hơn khi bị tước đoạt luôn quyền được sống và làm người của mình. Dưới các chiêu bài nhân đạo, các chính sách ngầm về kế hoạch dân số của nhà nước ban hành … các y bác sĩ đã trở thành những con người vô lương tâm, để lừa dối, dọa dẫm đồng loại nhằm phế bỏ quyền sống của các thai nhi một cách không thương tiếc. Chính quyền, y tế không màng đến đạo đức, nhưng chỉ biết đến chỉ tiêu, đến chỉ đạo của nhà nước để ép buộc giết chết mạng sống một cách trực tiếp và gián tiếp. Con người không có sự tự do chọn lựa sống với lương tâm, hành động theo luân lý (x. “Thảm kịch chính sách một con ở Trung Quốc”- Tuổi Trẻ 25-08-2012). Đảng phái chính trị, lập pháp nhà nước cưỡng ép những chính sách bảo hiểm trái luân lý tôn giáo đối với con người. Pháp luật nhà nước, guồng máy quân sự, chính trị, y tế, giáo dục không làm tốt phận vụ nên con người thời đại không được bảo vệ, bị đẩy vào thế giới của sự chết (x. “Sự thật kinh hoàng về đường dây buôn nội tạng xuyên lục địa” – Báo Pháp luật Việt Nam 24-08-2012).

  Không chỉ là quyền lợi, nhưng nhân phẩm của con người cũng bị hạ bệ, chà đạp, bị tổn thương không chỉ trong những đất nước nghèo, lạc hâu, nhưng ngay cả trong những xã hội văn minh, đất nước tiên tiến, giàu có. Nhân phẩm con người trở nên khái niệm xa lạ đối với những kẻ có quyền thế, những người nắm giữ vận mạng, bộ máy điều hành đất nước, những kẻ giàu, và đôi khi đối với những con người “ nghèo” về nhân bản, đạo đức.

Sự chà đạp nhân phẩm xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, nơi những cường quốc siêu mạnh về nhiều hạng mục, nơi những đất nước nghèo và trong những nơi đồng tiền là sức mạnh. Một thế giới với những kiểu kinh doanh tình dục, đã lừa gạt những con người yếu đuối, những người nghèo, và biến họ trở thành công cụ phục vụ cho bản năng hèn kém của những kẻ trụy lạc, biến chất… Bản báo cáo của tổ chức Fondation Scelles vào những tháng đầu năm 2012 đã xác định trên thế giới hiện nay có khoảng 40 đến 42 triệu người bị bắt để bóc lột tình dục, mà phần nhiều trong số này là trẻ em. Báo cáo của tổ chức Scelles Foundation chỉ rõ mại dâm đồng nghĩa với bóc lột tình dục, buôn người, tội phạm có tổ chức nguy hiểm, nó tạo ra những khoản lợi nhuận khổng lồ cho những kẻ sử dụng và bóc lột phụ nữ và trẻ em. Nó “bị thống trị bởi tình trạng bạo lực không kiểm soát, những bất cân bằng về tâm sinh lý, tình dục, xã hội…nó vi phạm vào quyền bất khả xâm phạm của con người…nó làm băng hoại những giá trị đạo đức mà chúng ta đang xây dựng…”

Nhân quyền theo công ước quốc tế vẫn đang có hiệu lực, nhưng vẫn tồn tại những những chính sách, nhà nước dùng uy lực, sức mạnh quyền hành để tước mất quyền tự do tôn giáo của con người bằng nhiều hình thức khác nhau, vi phạm công ước quốc tế về nhân quyền ngay đối với cư dân của mình. Thay vì tôn trọng và để cư dân trong đất nước có được sự tự do tôn giáo, hành đạo của mình, nhưng bằng nhiều hình thức, nhiều quốc gia, chính phủ đã đàn áp, ngăn cản việc thực hành tôn giáo của một cộng đồng, một nhóm, hay cá nhân. Không chỉ những cơ cấu tổ chức nhà nước nào đó vi phạm luật này, nhưng ngay cả đối với những thái độ quá khích về tôn giáo của một nhóm người cũng dẫn đến tình trạng bạo lực đàn áp quyền tự do tôn giáo của người khác.

Thời của hoàng kim, nhưng con người lại không có chỗ đứng của mình, bị tổn thương, bị xâm phạm, không được sống cách tròn đầy nhân vị, đúng như con người là. Thế giới của tiến bộ, của biết bao nhiêu thứ chủ nghĩa, đảng phái, của sự tư duy, triết lý giả hiệu dường như chẳng quan tâm đến cái chủ nghĩa “nhân vị trọn vẹn”, như J. Maritain đề nghị xây dựng trên tư tưởng của thánh Tô-ma “Mỗi một người, xét như là nhân vị, đòi hỏi phải được đối xử, trong xã hội, như một toàn thể”[1]. Vì chưa tôn trọng nhân vị, không màng đến phẩm giá con người, không có sự phân biệt sâu xa giữa trị giá và phẩm giá, không coi con người là chủ thể của mọi sinh hoạt xã hội, nên các cơ cấu tổ chức nơi các quốc gia, địa phương, tập thể… đều chưa nỗ lực và chưa tạo ra được nhiều những phương tiện và điều kiện thích hợp để giúp con người đạt tới sự phát triển một cách toàn diện ở nhiều lãnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, y tế , giáo dục…

Vì thế, để bảo vệ cho con người được phát triển cách toàn vẹn, thiết nghĩ, việc cộng tác liên tôn ở nhiều góc độ, với nhiều chương trình, phương thức hành động, có thể, được xem như là những nỗ lực tích cực để nâng cao phẩm giá con người, bảo vệ con người có được những quyền lợi chính đáng, cơ bản để con người được sống hạnh phúc trong bất cứ một quốc gia, một tổ chức, một đảng phái hay một cơ cấu tổ chức nào.

Hạnh phúc cho con người,
trung tâm của việc thực hành giáo lý nơi các tôn giáo

Trong bài viết “Ðức Phật và Căn Bản Nhân Quyền” đăng trên trang www.phatgiaohoc.com

 Ngày 29/05/ 2011, Hòa Thượng Bửu Chơn đã khai triển đề tài trên với một số ý tưởng để khẳng định rằng lời giảng dạy và con đường Đức Phật có liên quan đến sự công bằng của nhân loại, tôn trọng tự do tín ngưỡng của người khác, không có sự kỳ thị, phân biệt giai cấp, chủng tộc, giàu nghèo… Để khẳng định Giáo lý Phật giáo cũng quan tâm đến các vấn đề xã hội, trong đó, con người là đối tượng để các Phật tử thực hành giáo lý của mình như chủ trương bình đẳng giai cấp, từ bi, bất bạo động và một số vấn đề khác, tác giả Thích Chơn Thiện trong bài viết “Giáo lý Phật giáo và các vấn đề xã hội” đăng trên trang http://giadinh phattu.vn ngày 08/06/2012 đã nêu bật, làm rõ chủ đề này.

Tôn trọng sự sống, bảo vệ sự sống của con người là giới thứ nhất trong năm giới của giáo lý Phật giáo[2]. “Điều luật thứ nhất trong Ngũ Giới mà Đức Phật dạy là “không sát sinh”. Tức là không giết chết mạng sống chúng sinh, đặc biệt là mạng sống của một con người đang cần sự che chở trong cung lòng người mẹ. Chẳng những không được giết mà còn không được khởi ý làm tổn hại sinh mạng con người. Giết chết mạng sống là tội ác, là gây nhân quả – nghiệp báo – oán thù đời này đời khác”[3].  Trong giáo lý của đạo Hòa Hảo, sát sanh là một tội ác, do nghiệp chướng Thân nghiệp gây ra “… là họ giết nhau vì sự ích lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng cấp xã hội, của một quốc gia

Nhìn đến bao nhiêu đau khổ mà con người phải gánh chịu, mỗi tôn giáo đều hướng đến con đường, mà trên con đường giáo lý, hành đạo riêng của từng tôn giáo, đều mong muốn giúp con người thoát khỏi những đau khổ trần gian này. Những khổ lụy con người vương mang, đều bắt nguồn từ việc con người bị tước mất những quyền căn bản của mình. Bất bình đẳng sinh khổ lụy, đau thương; độc tài chuyên chế đàn áp người thấp cổ bé miệng nên con người sống trong đau khổ và tủi hận; nhân phẩm bị ô nhục từ những bạo hành thể xác và tinh thần, từ những dục vọng bản năng… Trong bài viết “Đạo Cao Đài và ước vọng hòa bình cho nhân loại” đăng trên http://www.asia-religion.com/, tác giả Hà Thanh Tâm đã đưa ra lý do đưa đến cảnh thực của đời sống bấp bênh, đau khổ của con người:

… Tự do chỉ là một mỹ từ, mà thực tế con người không bao giờ có tự do, vì thế giới luôn luôn có bất bình đẳng. Bất bình đẳng vì chế độ nô lệ, vì chánh sách thuộc địa, vì chủ nghĩa độc tài chuyên chế, vì phân biệt giàu nghèo, sang hèn, vì trọng nam khinh nữ v.v. Hạnh phúc của con người chỉ là ảo tưởng như phù du bọt bể,… do quyền làm người bị chà đạp và phẩm giá của nữ giới không bao giờ được tôn trọng, do quyền thế của kẻ thống trị đối với kẻ bị trị, do nạn cường hào ác bá… Hòa bình – Dân chủ – Tự do của nhân loại là ước vọng của Đạo Cao Đài.

Để đạt đến hành phúc đó “phải cư xử nhau trong tình anh em ruột thịt. Các chủng tộc bình đẳng nhau và đại đồng, không chủng tộc nào tự cho hơn chủng tộc nào, không chủng tộc nào có quyền thống trị, đàn áp chủng tộc nào, vì mỗi chủng tộc đều có phần linh diệu riêng, cùng do Thượng Đế mà ra. Đó là công lý, là công bình mang bản chất thiêng liêng, không do một thế quyền nào ban cho.

Con người là con đường của Giáo Hội Công Giáo [4]

Chính trong một thế giới mà con người đã và đang bị đe dọa, xâm phạm, Giáo Hội Công Giáo luôn mang trong long thao thức phải bảo vệ con người như con người đã được Thiên Chúa tạo dựng. “Con người và sự công nhận phẩm giá của con người là trung tâm của tư tưởng xã hội và cũng là của toàn bộ tư tưởng luân lý của Giáo Hội. Tại Công Đồng Vaticanô II, Hiến Pháp Tông Tòa về “Giáo Hội trong thế giới đương đại”, Gaudium et Spes, triển khai đúng là một bản “hiến chương” của chủ thuyết nhân vị Kitô giáo[5]. Con người chính là con đường của Giáo Hội trong sứ mệnh và lao nhọc của Giáo Hội “Giáo hội không thể bỏ rơi con người và rằng "con người này là con đường mà giáo hội phải đi để hoàn thành sứ mệnh của mình... con đường do chính Chúa Kitô vạch ra, con đường tiến tới không ngừng qua mầu nhiệm nhập thể và chuộc tôi"[6]. Con người trở thành nguyên tắc trung tâm của Học thuyết Xã hội Công giáo, liệt kê những quyền căn bản của con người và đưa ra những giáo huấn nhằm bảo vệ con người một cách toàn vẹn, xét như con người là chủ nhân, là nền tảng, là cứu cánh, là một thụ tạo tuyệt đỉnh trong kế hoạch tạo dựng và cứu độ con người của Thiên Chúa. Giáo Hội chống lại chủ thuyết vô thần khi “tước đoạt con người những chiều kích căn bản, chẳng hạn về tâm linh,.. giam hãm con người trong vòng ích kỷ cuối cùng làm hại cho cả con người lẫn những người khác nữa[7].

Vì Giáo Hội ý thức rất rõ vai trò về quyền “làm người thày cho nhân loại, một người thày về chân lý đức tin... về quyền loan báo học thuyết xã hội đặt nền tảng trên Phúc âm” nên Giáo Hội luôn mang trong lòng phận sự phải trung thành với sứ mệnh của mình và trung thành với Đức Ki-tô trong công cuộc Phúc âm hóa nhân loại, chú trọng đặc biệt đến con người là đối tượng, chủ thể loan báo Tin Mừng, là điểm quy chiếu cho mọi hoạt động nhằm bảo vệ phẩm giá, quyền lợi của con người một cách toàn vẹn. Giáo Hội xây dựng nền tảng học thuyết xã hội, bảo vệ con người dựa trên sứ điệp tuyệt vời nơi Thánh Kinh, nhìn xem con người trong tổng thể của nó như là một thụ tạo phức tạp mang tính thánh thiêng. Giáo Hội lưu tâm đặc biệt đến các tổ chức xã hội phải lấy con người là cơ sở của trật tự xã hội và các quy trình đa dạng của xã hội.

Mọi chương trình chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học và văn hoá đều phải được gợi hứng từ ý thức về sự ưu việt của từng con người vượt trên cả xã hội … Vì con người đại diện cho điểm khởi đầu của xã hội, thay đổi xã hội thực sự chỉ xảy ra khi khi các cá nhân bắt đầu thay đổi bằng cách hướng ý chí của mình đến công lý và tình yêu của Thiên Chúa. Việc đề cao công lý, tính lương thiện và chân thật trong xã hội “là nhiệm vụ của hết mọi người, đặc biệt là của những người đang nắm giữ các trách nhiệm về chính trị, tư pháp hay chuyên môn đối với những người khác.[8]

Trong học thuyết của Giáo Hội, nhân quyền là những gì được thể hiện từ phẩm giá con người, là những quyền lợi chính đáng mà con người được Thiên Chúa ban cho. Các quyền này phải được bảo vệ, được tôn trọng nơi bất cứ một cơ cấu tổ chức trần gian hay bất kỳ một cá nhân nào. Phẩm giá của con người xây dựng trên sự kiện "con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa" (St 1, 26-27) nên phải được tôn trọng[9]. Con người phải được xem như là nguồn gốc của mọi sinh hoạt xã hội. Vì thế, "Giáo Hội, do sức mạnh Phúc Âm được ủy thác cho mình, tuyên bố các quyền của con người, nhận biết và định giá cao cả tiến trình năng động mà qua đó, trong thời đại chúng ta, các quyền đó được thăng tiến khắp nơi" (Gaudium et Spes, 41).

Đi từ nền tảng Thánh Kinh, nơi sách Sáng Thế, con người khám phá ra cả một nền tảng thần học về khoa nhân học Kitô giáo: phẩm giá bất khả chuyển nhượng của con người… bản tính xã hội của con người… ý nghĩa của hoạt động của con người trong thế giới. Trong học thuyết của Giáo Hội, các quyền của con người mang những đặc tính phổ quát và không thể chia cắt. Mỗi người và từng người đều có những quyền căn bản, cho dù người đó là ai đi nữa, vì luật tự nhiên đã ban cho con người các quyền minh nhiên đó, hiểu theo nghĩa toàn vẹn, chân chính, đúng đắn, không tự lập sai trái. Vì thế, không thể có sự chia cắt giữa con người và các quyền của con người với bất kỳ một lý do nào, hay có một sự phân biệt thứ bậc cho quyền của con người. Con người phải được hưởng lợi các quyền căn bản:

Cần phải cho con người được tất cả những gì thiết yếu mà con người phải có để thực sự sống đời sống con người, như của ăn, áo quần, chỗ ở, quyền tự do chọn lựa bậc sống và quyền lập gia đình, quyền được giáo dục, quyền làm việc, quyền bảo tồn danh thơm tiếng tốt, quyền được kính trọng, quyền thông tin xứng hợp, quyền hành động theo tiêu chuẩn chính thực của lương tâm mình, quyền bảo vệ đời sống tư và quyền tự do chính đáng cả trong phạm vi tôn giáo nữa.[10]

Sẽ là một sự vi phạm nghiêm trọng về phẩm giá con người, là sự ô nhục đối với ngay chủ thể hành động khi bất kỳ một nhà nước, chính quyền dân sự hay cá nhân xâm phạm quyền con người, khi họ thự hiện “những gì đi ngược với chính sự sống, như giết người dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, giết chết cách êm dịu, hoặc tự tử trực tiếp; tất cả những gì xâm phạm sự toàn vẹn của con người, như cắt bỏ một phần thân xác, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý; tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp kém dưới mức độ phải có của con người, giam cầm vô cớ, lưu đày, nô lệ, mãi dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ con; kể cả những tình trạng làm việc nhục nhã khiến cho công nhân hoàn toàn trở thành dụng cụ cho lợi lộc, chứ không được coi như con người tự do và có trách nhiệm”[11].  

Sự bình đẳng trong phẩm giá dành cho hết mọi người, chứ không chỉ cho một nhóm, một chủng tộc, hay cá nhân nào.

 Việc công nhận nhân phẩm được tìm thấy nơi mọi người cho phép cá nhân và xã hội tiến tới một trật tự xã hội thực sự nhân bản và biết ưu tư cho số phận của những người yếu đuối nhất… Những người thiểu năng cũng là những chủ thể có đầy đủ nhân phẩm, bởi vì họ cho thấy rõ ràng hơn phẩm giá và sự cao cả của con người.[12]

Bảo vệ phẩm giá, các quyền của con người không chỉ là một mối liên hệ với con người nhưng còn là những hành vi tuyên xưng đức tin vào tình yêu, vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành con người, cho bất cứ tổ chức tập thể hay cá nhân trong khi thi hành các phận vụ này, và đón nhận quyền hạn tương đối của họ trong quyền uy của Thiên Chúa. Do đó, không có một cơ cấu tổ chức, quyền lực nhà nước hay cá nhân có thể phi bác quyền con người để đẩy mạnh thế lực của mình.n trọng các quyền của con người là định chuẩn để đánh giá tính cách chính danh của mọi quyền lực "Các quyền của quyền lực không thể được hiểu theo cách nào khác hơn là dựa trên việc tôn trọng các quyền khách thể và bất khả xâm phạm của con người"[13]. Sẽ không có hòa bình và sự phát triển bền vững, khi các quyền lợi căn bản của con người bị xâm phạm "... nói cho cùng, hoà bình được quy tóm vào việc tôn trọng các quyền bất khả xâm phạm của con người[14] "Cũng không thể thực sự xứng đáng với con người một công cuộc phát triển không tôn trọng và không phát huy các quyền con người, cá nhân và xã hội, kinh tế và chính trị, kể cả quyền các Quốc Gia và các dân tộc được phát triển"[15].  Giáo Hội cho thấy con người chính là nền tảng cho nhân phâm và nhân quyền, chứ không phải là nhà nước hay các cơ quan công quyền khác[16].

Về quyền tự do tôn giáo nơi con người, Giáo Hội khẳng định rằng:

Tự do tôn giáo thực sự được xây dựng trên phẩm giá con người, một phẩm giá đúng như lời Thiên Chúa mạc khải và chính lý trí cho biết được. Quyền tự do tôn giáo của con người trong cơ cấu pháp lý của xã hội phải được chấp nhận là một quyền lợi dân sự[17] , con người không thể chu toàn bổn phận đó một cách thích hợp nếu không được hưởng dụng sự tự do tâm lý đồng thời được đặc miễn đối với sức cưỡng bách bên ngoài. Vậy quyền tự do tôn giáo đặt nền tảng trên chính bản tính con người, chứ không phải trên thái độ chủ quan của con người.[18]

Khi con người bị tước mất quyền tự do tôn giáo, cũng đồng nghĩa với chuyện con người bị hạ nhục trong quyền căn bản của mình mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Vì thế,  quyền này phải được nhìn nhận và tôn trọng và xét như là một điều bất khả phân ly đối với con người, xét theo sự tôn trọng phẩm giá của họ “chối bỏ quyền tự do hành đạo của con người nơi xã hội, trong trường hợp trật tự công cộng vẫn được bảo đảm, tức là nhục mạ con người và trật tự mà Thiên Chúa đã ấn định cho con người”.[19].

Do đó, xét theo bản tính xã hội nơi con người và bản chất tôn giáo, các cộng đoàn tôn giáo sẽ được hình thành và có quyền lợi riêng của mình:

Tự do hoạt động theo quy luật riêng, công khai phụng thờ Đấng Tối Cao, giúp đỡ các tín hữu thực hành giáo lý...; có quyền đòi hỏi các cơ quan lập pháp, hành pháp dân sự không có quyền ngăn cản việc chọn lựa, đào tạo, bổ nhiệm và thuyên chuyển các viên chức riêng của mình, việc liên lạc với giáo quyền và những cộng đoàn tôn giáo ở những nơi khác trên hoàn cầu, việc thiết lập các cơ sở tôn giáo cũng như thu hoạch và quản trị những tài sản thích hợp;.. có quyền công khai giảng dạy và minh chứng đức tin của mình bằng lời nói và bằng chữ viết mà không bị cấm cản; ... không bị ngăn cản trong việc tự do biểu lộ các hiệu năng riêng của giáo thuyết mình trong việc tổ chức xã hội và làm cho toàn thể sinh hoạt nhân loại được sống động;... có quyền tự do hội họp hay thành lập những hiệp hội giáo dục, văn hóa, từ thiện và xã hội do cảm thức tôn giáo thúc đẩy[20].

Để bảo đảm được quyền tự do tôn giáo của con người, Giáo Hội nhấn mạnh đến vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của nhà nước, quyền bính dân sự:

Nhiệm vụ thiết yếu của quyền bính dân sự là bảo vệ và phát huy những quyền lợi bất khả xâm phạm của con người. Do đó, quyền bính dân sự phải bảo vệ cách hữu hiệu quyền tự do tôn giáo của mọi công dân bằng những đạo luật chính đáng và những phương tiện thích hợp khác, phải tạo nên những điều kiện thuận lợi giúp phát triển đời sống tôn giáo.[21] 

Sẽ không thể chấp nhận một chính sách đàn áp, hay tước đoạt quyền tự do tôn giáo của con người:

Công quyền không được phép dùng bạo lực, đe dọa hay những phương tiện khác để bắt buộc người dân phải tuyên xưng hay chối bỏ một tôn giáo nào, hoặc ngăn cản không cho họ gia nhập hay rời bỏ một cộng đoàn tôn giáo. Công quyền sẽ đi ngược với ý định của Thiên Chúa và những quyền lợi thiêng liêng của cá nhân cũng như của gia đình các dân tộc, nếu dùng bạo lực dưới bất cứ hình thức nào để tiêu diệt hay cấm đoán một tôn giáo trong toàn thể nhân loại, trong một miền hay một nhóm người nào đó.[22]

Vì thế, trong bối cảnh thế giới hôm nay, Giáo Hội càng ý thức hơn tầm quan trọng của nhân quyền trong bối cảnh xã hội, chính trị ở tầm mức quốc gia cũng như quốc tế nên Giáo Hội luôn luôn hướng về con người và lấy con người là con đường của Giáo Hội. Bảo vệ và thăng tiến các quyền của con người là thành phần nguyên vẹn sứ mạng của Giáo Hội.

Bác ái là liên hệ tiêu biểu nhất của Tin Mừng : Thực vậy, làm sao có thể loan truyền điều răn mới mà không làm phát triển sự lớn mạnh đích thực của con người trong công lý và hòa bình ?[23].. Giáo Hội lấy làm quan trọng và khẩn cấp phải xây dựng những cơ cấu nhân bản hơn, công bình hơn, tôn trọng quyền lợi của con người hơn.[24]

Để có thể mạnh mẽ bảo vệ quyền con người, bảo vệ phẩm giá của chính mình, Giáo Hội muốn tất cả mọi người phải ý thức được trách nhiệm, bổn phận bảo vệ và đề cao nhân quyền. Các quyền và các bổn phận nối kết với nhau và bổ sung cho nhau, bởi vì không thể nào có được các quyền mà mọi người lại không có bổn phận đề cao chúng[25].

Do đó, để bảo vệ quyền lợi, sự toàn vẹn của con người dựa trên Giáo huấn Học thuyết Xã Hội Công Giáo là nền tảng, thiết nghĩ, việc cộng tác liên tôn cho sự bảo vệ và đề cao nhân quyền cho con người trong thế giới, xã hội hôm nay, sẽ có nhiều điểm thuận lợi khi cùng nhau chung tay xây dựng một thế giới mà trong đó, con người được hạnh phúc, giảm bớt những thương tổn về cả tinh thần lẫn thể xác mà con người thời đại đang gánh chịu, bị đè nén.

Cộng tác liên tôn
cho việc bảo vệ phẩm giá và nhân quyền

Trước một thế giới đầy dẫy những thách đố, công lý, hòa bình, hạnh phúc cho con người và vì con người đang bị đe dọa, bị khủng bố, bị nguy hại… mỗi tôn giáo đều nhận ra con đường của mình với những chương trình và hành động riêng để mong muốn đi tìm một thế giới, mà trong đó, con người được sống hạnh phúc như họ là với những quyền căn bản. Ở đây, ta sẽ thấy những nét riêng được qui lại trong điểm chung để qui hướng về con người, và cho con người ngõ hầu con người đạt được hạnh phúc.

Với tiêu đề trên, hẳn không là một ý tưởng mới lạ, độc đáo. Có thể, với ai đó, với họ cũng đã từng làm và đang làm dưới nhiều hình thức vì đã có nhiều hoạt động liên tôn trong công tác bác ái xã hội nên công việc giúp con người, nâng dậy ai đó không là chuyện xa lạ.


Nếu mới, chỉ là cách đưa vào trong hoạt động cộng tác liên tôn cho việc bảo vệ con người cách toàn vẹn, một lăng kính khởi đi từ Giáo huấn Học thuyết Xã hội Công giáo và đưa ra những phương thức hoạt động cụ thể và nhạy bén hơn. Do đó, trong khi cộng tác với tôn giáo bạn, thiết nghĩ, cần dựa trên Giáo huấn Học thuyết Xã hội Công Giáo để làm phương hướng, mở ra một cái nhìn rộng hơn cho những hoạt động liên tôn, nhằm bảo vệ phẩm giá và quyền của con người. Điều này đòi buộc một sự tôn trọng đối với tôn giáo bạn, một sự khéo léo, linh hoạt, nhưng thật sắc bén trong việc thực hành Giáo huấn Học thuyết về việc bảo vệ nhân quyền khi cộng tác liên tôn. Và xét tự trong nội tại của việc cộng tác liên tôn, trước tiên, nó đã hàm chứa một sự tôn trọng phẩm giá, quyền của mỗi con người, xét như họ là.

Chúng ta sẽ hoạt động trong những lãnh vực nào và làm thế nào trong việc cộng tác liên tôn để bảo vệ sự toàn vẹn của con người?

Thiết nghĩ, dựa trên Giáo huấn Học thuyết xã hội Giáo Hội Công giáo, việc cộng tác liên tôn nên có những chương trình hoạt động nhằm bảo vệ phẩm giá con người, các quyền cơ bản của con người nói chung, đặc biệt quyền tự do tôn giáo nói riêng trong bối cảnh xã hội hôm nay:


-  Quyền được sốngquyền mỗi con người được bảo toàn mạng sống, từ lúc tượng thai trong lòng mẹ cho đến cái chết tự nhiên qua việc chống phá thai trợ tử, tạo sinh vô tính, trong việc bảo vệ sự chăm sóc các trẻ sơ sinh tật nguyền,[26] quyền được sống  trong một gia đình hợp nhất và trong một môi trường luân lý dẫn đến sự tăng trưởng nhân cách của trẻ em”;

-  quyền bình đẳng, không kỳ thị nguồn gốc hay khả năng, và cho sự chú ý và tôn trọng mỗi người, bất kể những thành công của họ (người tàn tật, không thu nhập, vô gia cư...); quyền tham gia vào đời sống kinh tế của xã hội ». sự công bằng về kinh tế và xã hội;[27]

-  quyền được phát triển trí khôn và tự do của mình trong việc tìm kiếm và biết sự thật;

-  quyền được chia sẻ công việc sử dụng một cách khôn ngoan các tài nguyên vật chất của trái đất và qua công việc đó có được phương tiện để độ thân và cấp dưỡng cho những người phụ thuộc;

-  quyền tự do tạo lập gia đình, nuôi nấng con cái thông qua việc thực thi một cách có trách nhiệm khả năng tính dục của mình.

-  Theo một nghĩa nào đó, nguồn gốc và sự tổng hợp các quyền này tự do tôn giáo, được hiểu là quyền được sống trong  chân lý đức tin của mình và phù hợp với phẩm giá siêu việt của con người”[28].

 KẾT

Các ý tưởng viết ra, chỉ là một chút gì đó đang suy tư ... cũng chẳng sắc bén, hay đáng giá…

… nhưng là những thao thức khi nhìn đến thế giới, là nơi, phẩm giá con người đang bị chà đạp, bị hạ nhục... con người bị tước mất những quyền căn bản: quyền được sống, quyền tự do tôn giáo...  để từ đó, ngẫm suy tìm cho mình một hướng đi ... một hành động, dù chỉ là hạt cát nhỏ nhoi giữa sa mạc biển đời hôm nay.


Gitanjali

R. Tagore

C hỗ này là thảm hoa để người đặt chân,
nhưng người lại đứng đằng kia
bên hàng hạ nhân tay trắng,
khốn cùng,
hèn mọn.

Cho dẫu muốn cúi đầu chào người,
lòng kính cẩn trong tôi cũng không thể chạm tới
chỗ chân người đang ngừng nghỉ
cùng những người tay trắng,
khốn cùng,
hèn mọn.

Lòng kiêu ngạo chẳng bao giờ đi tới
nơi người trong manh quần tả tơi, tấm áo đơn sơ
đang cùng đi với những người tay trắng,
khốn cùng,
hèn mọn.

Tim tôi chửa một lần tìm thấy đường đi
dẫn đến nơi người đang bước
cùng những kẻ lạc loài
trong đám người tay trắng,
khốn cùng,
hèn mọn.



[1] X. ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP, Một cái nhìn về Giáo huấn Xã Hội Công Giáo, NXB Phương Đông, 2010, tr. 125.

[2] Sư Cô Chân Đăng Nghiêm, Diệu Liên – Lý Thu Linh dịch, Những vấn đề trong gia đình và giải pháp của Phật giáo , http://www.lien-hoa.net,

[3]  x. Ts. Gioan Tô Hồng Tuấn, Giáo lý Công Giáo và Giáo lý Phật Giáo đồng quan điểm trong việc bảo vệ sự sống, http://www.mfvietnam.org

 [4] x. ĐTC Gioan Phaolô II,  Thông điệp Centessimus Annus (Bách Chu Niên)- chương VI.

[5] x. Alain Thomasset,SJ, Trung tâm Sèvres, Phẩm giá của con người

[6] x. ĐTC Gioan Phaolô II,  Thông điệp Centessimus Annus (Bách Chu Niên)- chương VI, số 53

[7] x. Ibid.

 [8] x. Cé sar J. Bal de Lomar, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công Giáo, chương 3 Con người và Nhân quyền, Lm A. Nguyễn Ngọc Sơn và nhóm Dịch thuật chuyển dịch.

[9] x. Vatican II, Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng ( Gaudium et Spes), s. 26.

[10] x. Vatican II, Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng ( Gaudium et Spes), s. 26.

[11] x. Vatican II, Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng ( Gaudium et Spes), s. 27

[12] x. Cé sar J. Bal de Lomar, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công Giáo, chương 3 Con người và Nhân quyền, Lm A. Nguyễn Ngọc Sơn và nhóm Dịch thuật chuyển dịch.

[13] x. ĐGH Gioan Phaolô II,  Thông điệp Đấng Cứu Độ con người, s.17

[14] x. ĐGH Gioan Phaolô II,  Thông điệp Đấng Cứu Độ con người, s.17

[15] x. ĐGH Gioan Phaolô II,  Thông Điệp Sollecitudo rei socialis, 33.

[16] . x. Cé sar J. Bal de Lomar, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công Giáo, chương 3 Con người và Nhân quyền, Lm A. Nguyễn Ngọc Sơn và nhóm Dịch thuật chuyển dịch.

[17] x. Vatican II, Tuyên Ngôn về Tự do tôn giáo (Dignitatis humanae), s. 2

[18] x. Ibid.

[19] x. Vatican II, Tuyên Ngôn về Tự do tôn giáo (Dignitatis humanae), s. 3

[20] x. Ibid. s. 4

[21] x. Ibid. s. 5

[22] x. Ibid. s. 6

[23] x. ĐGH Phaolô VI, Tông huấn Loan báo Tin Mừng, s. 31

[24] x. Ibid., s. 36

[25] x. Cé sar J.Bal de Lomar, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công Giáo, chương 3 Con người và Nhân quyền, Lm A. Nguyễn Ngọc Sơn và nhóm Dịch thuật chuyển dịch.

 

[26] x. Vatican II, Hiến chế Vui Mừng và Hy vọng ( Gaudium et Spes), s.27

[27] x. Ibid., s. 29 & 67.

[28] x. Cé sar J. Bal de Lomar, Tóm lược Học thuyết Xã hội Công Giáo, chương 3 Con người và Nhân quyền, Lm A. Nguyễn Ngọc Sơn và nhóm Dịch thuật chuyển dịch.

 

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn