GB. Nguyễn Ninh, O.P
Khi bắt đầu vào học năm nhất triết học tại Trung tâm Học vấn Đa Minh, cha
giáo Hòa giới thiệu với chúng tôi cuốn hồi ký của thầy Têphanô Thế Tâm Nguyễn
Khắc Dương[1].
Cha nói hay lắm, đọc đi, cha muốn dịch sang Pháp ngữ, khi nào có dịp cha sẽ
làm. Tôi về đọc, đọc hăm hở, đọc một lèo hết tập hồi ký. Tập hồi ký cuốn hút
nhưng không chỉ bởi nhiều tư tưởng hấp dẫn cho bằng một trải nghiệm sống động,
thực tế. Đó là cả một hành trình tìm kiếm mà như thầy chia sẻ, đi tìm bản lai diện mục của đời mình. Hành trình
đó khởi đi từ một nền tảng Nho giáo, rồi ghé thăm cửa Phật. Thời cuộc thay đổi,
đẩy đưa thầy vào con đường chính trị, và sau cùng ông đã
cập bến nơi Hội thánh Công giáo.
Với chủ đề Ơn cứu độ nơi các tôn giáo của Báo Chia
Sẻ thật là một cơ hội để trình bày không chỉ là lý thuyết, nhưng hơn thế là một
nhân chứng đi tìm ơn cứu độ nơi các tôn giáo của thầy.
1.
Đôi
nét sử liệu về cuộc đời
Thầy
Têphanô Thế Tâm Nguyễn Khắc Dương sinh ngày 24/09/1925, trong một gia đình danh
gia vọng tộc ở xã Sơn Hòa (nay là xã An Hòa Thịnh), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh. Cha là Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889-1954), một vị quan nổi tiếng
trong triều đình nhà Nguyễn, đời vua Thành Thái. Mẹ là Đoàn Thị Viên, cũng thuộc
một gia đình Nho học, khá giả. Anh trai là bác sĩ, nhà văn hóa Nguyễn Khắc
Viện, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Ngoại văn (nay là Nhà xuất bản Thế giới); em
là nhà văn Nguyễn Khắc Phê, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương; dược sĩ
Nguyễn Thị Thiếu Anh; kỹ sư Nguyễn Thị Nhuần; bà Nguyễn Thị Phương Thảo, nguyên
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các khóa V, VI. [2]
1938:
Học tại trường Thiên Hựu, một trường Công giáo. Trong thời gian này cảm thấy
gắn bó yêu mến đời sống nơi môi trường Công giáo.
1945:
Tham gia Thanh niên Cứu quốc, cứu trợ trong nạn đói năm 1945 tại quê nhà.
1946:
Vào Huế thi đậu tú tài II, trọ học tại chùa Linh Quang, được học hỏi nhiều nơi
các vị cao tăng và có ý muốn xuất gia.
1946
– 1947: Phải trở lại quê nhà vì anh đau bệnh. Dạy học tại trường Đậu Quang
Lĩnh, ngày càng gắn bó với mỗi trường Công giáo ở giáo xứ Nghĩa Yên và Thọ Ninh
và có ý muốn gia nhập Công giáo.
1948:
Gia đình thúc bách phải cưới vợ theo truyền thống Nho giáo và đã hứa hôn. Tuy
nhiên ông đổ bệnh nặng, chỉ khi từ hôn mới khỏe lại. Từ đây ông quyết tâm tìm
đến Công giáo.
9/1/49:
Lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy tại thánh đường giáo xứ Nghĩa Yên, giáo phận Vinh, với tên thánh là Têphanô
1950 – 1951: Đi tu dòng Phanxicô, ở Vinh.
1951 – 1954: Tu học ở Nha Trang
1954 – 1956: Bị buộc tòng quân cho quân đội chính phủ
miền Nam, được điều động lên Buôn Mê Thuột.
7/1956: Trở về nhà dòng ở Nha Trang
10/1956: Du học tại trường thần học của dòng Phanxicô ở
Pháp.
1957: Rời khỏi dòng Phanxicô vì lý do sức khỏe.
1957-1960: Học triết học tại Đại học Sorbonne.
1963:
Xin gia nhập dòng Cát Minh nhưng không được vì lý do sức khỏe. Sau đó tu dòng
Biển Đức ở Thụy sĩ.
1964: Rời khỏi dòng Biển Đức và về lại Pháp.
1965: Về Việt Nam, bỏ dở chương trình tiến sĩ triết học.
Dạy học tại một số trường tư thục Công giáo ở Sài Gòn.
1966 – 1975: Dạy học tại Viện Đại học Đà Lạt. Trưởng Ban
triết học và quyền trưởng Khoa Văn Đại học Đà Lạt. Thỉnh giảng tại Đại học Văn
khoa Sài Gòn và Huế.
1975 - 1976: Viện
đại học tư thục Công Giáo Việt Nam bị giải thể. Đi trại cải tạo sỹ quan chế độ
cũ Sông Mao.
1976 – 1978: Về vườn ở Đà Lạt.
1977: Về thăm mẹ già lúc này 80 tuổi.
1978 –1980: Làm cán bộ ở Lâm Đồng.
1981 -1985: Làm cán bộ ở Đà Lạt. Giáo sư thỉnh giảng tại
một số đại học
1985 - 1996: Nghỉ hưu ở Đà Lạt. Viết hồi ký.
1996 – 2002: Sống tại Tu hội Bác Ái Bình Triệu. Dạy triết
học cho một số nhóm đại chủng sinh và tu sinh.
11/2002 - 2010: Về Huế cư ngụ tại nhà người em ruột. Làm
giáo sư thỉnh giảng môn Triết học và Tâm lý học tại các Đại chủng viện ở Huế.
Hiện nay (2021) sống tại Tu đoàn Chúa Kitô Tôi Tớ, Hàm Tân,
Bình Thuận.
2.
Thửa
đất Nho giáo
Lý
do nào khiến thầy cảm thấy
phải dấn thân triệt để trong việc tìm cho bằng được bản lai diện mục của đời
mình dù gặp vô vàn khó khăn thử thách? Như chúng ta đã nói, đó là nỗi khát khao
sâu thẳm trong tâm hồn ông. Tuy nhiên thầy cũng
thừa nhận, mọi sự tiên vàn là nhờ hồng ơn, nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thiên Chúa như là nguyên nhân đệ nhất cho hành trình tìm kiếm ơn cứu độ. Còn
những sự kiện, những biến cố diễn ra trong cuộc đời ông là nguyên nhận đệ nhị,
mà Ngài sắp đặt quan phòng. Ta có thể kể ra ba biến cố chính tác động đến hành
trình đến với nguồn ơn cứu độ cuộc đời ông.
Một
gia tộc nho gia thời mạt vận
Cậu
bé Nguyễn Khắc Dương sinh ra trong một gia tộc có truyền thống nho học, đỗ đạt
cao. Cha là Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889-1954) làm đến chức phó Viện
Trưởng Quốc Tử Giám tại Huế. Cho đến khi nho học suy tàn, chuyển sang làm quan
tri phủ Anh Sơn, rồi lên đến chức Thượng Thư. Tuy là một bậc nho học tài cao
hiểu rộng nhưng cha cậu nổi tiếng thanh liêm, được mọi người hết mực kính
trọng, có phần tôn sùng như một bậc chân nhân, đạo hạnh. Những nét thanh cao đó
nơi một bậc túc Nho nên khi Nho học suy tàn, cậu nhận thấy nơi cha mình một nỗi
ưu tư trầm mặc, dường như là chán nản bất lực trước sự tấn công của văn hóa Tây
phương.
Thêm
nữa, Nho học bãi, ông phải chuyển sang làm quan, chứ không còn dạy học, là điều
trái với mong ước của thầy.
Làm quan cho triều Nguyễn dưới chế độ bảo hộ của Pháp cũng chỉ như một nghề để
sinh sống, chứ không lấy làm hãnh diện gì. Cái cốt cách trầm tư nghĩ ngợi về
một nền Nho giáo thời mạt vận cũng khiến ông không mấy háo hức với chính trị.
Có nhiều vị chí sĩ như cụ Phan Bội Châu, Võ Bá Hạp, Huỳnh Thúc Kháng đến đàm
đạo văn chương thời cuộc với ông nhưng ông cũng không tỏ ý đấu tranh cho thể
chế chính trị nào. Chỉ làm quan như một nghề sinh nhai, miễn đừng gây tội ác,
cố gắng dạy dỗ con cái nhân nghĩa, sống bình an lương thiện là đủ rồi. Cho đến
những năm cuối đời ông có phần nghiêng về Phật giáo, trong việc thực hành giáo
lý nhà Phật, và ý thức về cái nhân quả, mà phần nào nguôi ngoai bớt nỗi đau
buồn nhân tình thế thái.
Sự
sụp đổ nhãn quan về những chế độ thế trần
Hình
ảnh người cha trong thời buổi Nho giáo suy tàn đã gợi lên trong lòng cậu bé
Nguyễn Khắc Dương cái gì đó bất túc, không hoàn hảo. Hình ảnh đó khiến ông
không tin vào vương đạo của Nho giáo nữa. Nho giáo thời Nghiêu Thuấn đã qua đi
và không bao giờ có được ở trần gian này nữa. Thêm vào việc chứng kiến sự diệt
vong của Nho giáo, triều Nguyễn và chế độ quân chủ là sự thất bại của những
cuộc cách mạng sau này của các chí sĩ yêu nước càng khiến thầy ngán ngẩm thế sự chính trường.
Mặc
dù lòng cảm thương dân nghèo bị chà đạp, bách hại đau khổ nhưng ông không còn
hy vọng vào một sự tranh đấu của cách mạng của chính trị để giải thoát. Thầy cảm thấy dù có thành công chăng nữa rồi
cũng không đi tới đâu, hết chế độ này lại đến chế độ khác, xong cuộc đấu tranh
này lại đến cuộc đấu tranh khác. Ngay cả khi một thể chế chính nghĩa dành chiến
thắng thì rồi nó cũng sẽ trở nên tha hóa bởi quyền lực. Và rồi ông đi đến một
thái độ dứt khoát đối với chính trị. Ông không tham gia vào bất cứ thể chế
chính trị nào. Với cách mạng của đảng Cộng sản sau này thầy khẳng định không chống cũng không theo. Với thầy mọi quyền lực trên trần thế đều không vững bền.
Thầy muốn tìm một sự giải thoát
triệt để nơi đời sống tu hành (x. tr. 20 – 27)
Một
tâm hồn đa cảm
Chính
trong một môi trường Nho học thanh cao mà ông được hưởng thụ một nền giáo dục
trọn vẹn cả đức dục lẫn trí dục. Tuy thuộc hàng danh gia vọng tộc, nhưng cha
ông luôn dạy dỗ con cái nề nếp gia phong, lấy nhân nghĩa làm chính. Phải biết
hiếu để phụng dưỡng cha mẹ, kinh trên nhường dưới, không được hách dịch kiêu
căng, sống thanh liêm đơn giản, không ham bả vinh hoa phú quý, tránh xa những
điều bạc ác. Nếu làm được những việc thiện lương cho người khác càng tốt. Về
trí dục, ông học hành giỏi giang, thầy yêu bạn mến, ở nhà mọi người quý mến yêu
thương.
Chính
những yếu tố về sự giáo dục nhân bản Nho giáo cộng thêm sự hiểu biết khôn ngoan
mà ngay từ bé ông đã sớm bộc lộ những đức tính ngoan ngoan ngoãn, chăm chỉ học
hành, biết thương người, và không coi khinh những người làm trong nhà, hay bất
cứ ai nghèo hèn, đói khổ. Trái lại, ông luôn cảm thấy xúc động thương cảm mỗi
khi gặp ai đó phải chịu những đau khổ, nhất là những người thân trong gia đình.
Đó là lòng thương cảm vì phận côi cút, mẹ ghẻ con chồng (dù mẹ kế là mẹ cậu rất
yêu thương họ và họ cũng quý bà) nơi những người anh chị của bà mẹ trước. Rồi
những đau khổ tuyệt vọng của người chị thứ hai khi người yêu từ hôn. Cái cảnh
buồn bã ưu sầu của chị cả khi li dị chồng, về sống với ba mẹ.
Ý thức về những trải nghiệm đau khổ ngay từ
bé, cùng với việc tiếp cận những áng văn chương, nhất là thơ ca, tiểu thuyết
viết về nỗi thống khổ bi thương của con người như Truyện Kiều, Cung Oán, Chinh Phụ, Tắt Lửa Lòng .v.v. nên tâm hồn
ông đã sớm có một con mắt nhìn đời nhuốm màu bi ai, chịu ảnh hưởng bởi những tư
tưởng bi quan về nhân sinh. Cái ý thức đời là bể khổ đã sớm nhen nhúm trong tâm
hồn ông.
Cũng
cần phải kể thêm về truyền thống Nho giáo đã hình thành niềm tin tôn giáo nơi thầy. Điều mà thầy gọi là cảm thức tôn giáo tự nhiên. Thật vậy, nơi truyền thống Nho giáo
trong gia đình ông, tuy không rõ ràng về vị trí của thần linh nhưng cũng có
dáng dấp, hình ảnh của một ông Trời, một Đấng tối cao mà các tôn giáo vẫn tôn
thờ. Từ cảm thức tôn giáo tự nhiên đó, người ta dùng lý trí để suy xét và xem
mình có tin vào Đấng ấy hay không, có người tin, có người không. Ông thuộc vào
số những người tin vào ông Trời. Ông Trời đó được củng cố thêm nơi tư tưởng đạo
Trời, Thiên tử của Khổng giáo. Hơn nữa với quan niệm con người linh ư vạn vật,
cho thấy con người có một cái gì đó ling thiêng cao quý hơn loài vật. Và sự cao
quý đó gắn kết với một Đấng tối cao, một thế lực linh thiêng mà chỉ con người
có được. Hay là những niềm tin vào một giá trị siêu việt vượt trên cái chết,
kiểu như sinh ký tử quy, thác là thể phách còn là tinh anh, hương khói phụng
thờ.v.v. Do đó, trong tâm trí thầy,
đã có một cảm thức tự nhiên hướng về một thực tại siêu nhiên vượt ra ngoài thế
giới tự nhiên.
Tóm
lại, từ một con người có vị thế cao trong xã hội, hoàn cảnh thay đổi, cùng
những tâm tính cá nhân, ông đã cất bước đi tìm một sự giải thoát. Tuy nhiên đó
không đơn thuần là một sự tuyệt vọng, chạy trốn, né tránh thực tại. Đúng hơn
ông nhìn thấy một sự không chắc chắn, mong manh, dễ đổ vỡ của thưc tại. Sự mỏng
dòn của mọi sự trên thế gian và khao khát đi tìm một điều gì đó vững bền, chắc
chắn. Sự chắc chắn chắn đó nơi các triết gia là cái một, chứ không phải cái nhiều,
cái phổ quát chứ không là cái đặc thù. Và với Âu tinh hay Pascal, sự chắc chắn
đó là chính Thiên Chúa, chứ không phải là thế gian.
Tự đáy tâm hồn, tôi khao khát một cái gì trường tồn vĩnh
cửu tuyệt đối cho cái ngã vị của con người mà tôi nghĩ rằng có in dấu vết của
trường tồn, vĩnh cửu tuyệt đối, nỗi khao khát mà bất cứ giá trị cao quý nào của
trần thế cũng không khỏa lấp được (tr. 83).
2.
Câu
hỏi về giải thoát nơi Phật giáo
Cái
duyên đến với Phật giáo phải kể là từ khi thầy lên 11 tuổi. Tuy gia đình không phải là Phật giáo nhưng mẹ ông quen với
mấy bà bên Phật giáo nên đôi khi cũng lên chùa. Bản thân thầy cũng được mẹ dẫn đi. Cảm giác đầu tiên đến
với cửa Phật là cảm giác an bình thư thái, thanh tịnh nhẹ nhàng. Khung cảnh
chùa trang nghiêm yên tĩnh, hình ảnh vị sư trẻ ngồi chăm chú gõ mõ đọc kinh gợi
lên trong tâm trí ông một khao khát được bước vào đời tu hành. So với những
điều ông ngẫm nghĩ về nhân tình thế thái trong hoàn cảnh đã phân tích trên đây
thì đúng là cửa Phật chính là nơi cực lạc, là nơi thầy vẫn hằng khao khát mong mỏi. Tuy nhiên thì
đó cũng chỉ là một mơ ước hay dự tính xa xôi nào đó thôi.
Cho
đến năm 1945, khi vào Huế chuẩn bị thi tú tài 2, thầy được một người bạn giới thiệu cho tá túc tại chùa Linh Quang. Tại đây,
với một khoảng thời gian trải nghiệm, trầm tư đàm đạo với các vị cao tăng về
những sự thế trần, ông càng khao khát muốn được tìm giải thoát nơi của Phật. Dù
rằng, như ông thành tâm chia sẻ, niềm khát mong tựa nương nơi cửa Phật cũng chỉ
vì muốn thoát khỏi những khổ ải, lụy trần nơi cuộc sống đời thường. Còn như
những giáo lý Phật pháp thì không chú ý đến, chỉ muốn thoát ly cuộc đời. Thầy thú nhận đã chỉ thu thu phần tiêu cực nơi
Phật pháp, tức xa lánh cuộc nhân sinh đau khổ, mệt mỏi, ồn ào chứ không do tiếp
nhận phần tích cực nơi giáo lý phật giáo, vốn có tính xây dựng để trở nên một
tu sĩ Phật giáo đắc đạo. (Xc. tr. 72-73)
Sau
này hoàn cảnh đẩy đưa, trải qua nhiều đau khổ tổn thương về tầm hồn, thầy đã thường lui tới cửa Phật để tìm an ủi.
Tuy nhiên, như ông thú nhận, ông đến đó và chỉ cảm nhận được sự bằng yên thoa
dịu khi ở trong chùa, tạm quên đi cuộc sống thực tại. Nhưng khi ra khỏi chùa,
trở về với cuộc sống đời thường thì lòng cứ ngổn ngang trăm mối tơ vò. Đối với thầy, dường như Đức Phật chỉ an ủi khi ở trong chùa, chứ Ngài
không cùng ông đi trên con đường đời gian nan mỏi mệt. Ngài chỉ cho thầy con đường chứ không là người bạn đồng hành
với ông trên con đường trần lụy (Xc. tr.94).
3.
Đường
“Chúa đưa tôi về”
Nếu
phải lấy một cột mốc trong hành trình đến với Kitô giáo của thầy Nguyễn Khắc
Dương, ta phải khởi đi từ biến cố thầy thi trượt trường quốc học Huế, năm 1938. Vì không đậu trường quốc học
Huế nên mẹ ông quyết định cho thầy thi vào trường Thiên Hựu, một trường học Công giáo theo chương trình
Pháp. Đây là một biến cố mà sau này thầy tin là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhờ thi hỏng mà thầy được biết đến Chúa Giêsu, mới trở thành tín
hữu Công giáo.
Quả
vậy ngay khi bước vào môi trường Công giáo, thầy đã có những cảm nghiệm mới lạ và dần khám phá ra những giá trị của Công
giáo. Trước hết, thầy nhận ra sự tận tâm gần gũi của các vị giáo sư. Nơi những vị giáo sư
này, đa phần là linh mục hội thừa sai Ba-lê, tận tâm dạy dỗ học trò, sự tận tâm
mà ông không cảm nhận được ở những trường học khác trước đây. Họ dạy không chỉ
như một bổn phận mà rất tận tình chỉ dẫn. Tuy chỉ là một đứa trẻ nhưng thầy cảm thấy họ tôn trọng thầy, gần gũi thăm hỏi và ân cần chu đáo, quan tâm như thể một
người quan trọng vậy. Sống với bạn bè trong trường, đa phần là Công giáo, thầy cảm nhận nơi đây có một bầu không khí gia
đình ấm áp, khác hẳn với bầu khí lạnh lẽo thờ ơ hồi ở trường Khải Định. Thêm
vào đó là sự quan tâm, gần gũi của những bạn học cùng trường. Cùng với những
trải nghiệm đời sống là sự khai mở soi sáng đặc biệt thầy lãnh hội được qua các tác phẩm văn chương
Kitô giáo, đặc biệt phải kể đến Pascal. Tất cả cho thầy thấy một tình yêu khác với những trải
nghiệm về lòng từ bi hay đức thương người nơi truyền thống Phật giáo hay Nho
giáo.
Quả
vậy, thầy nhận thấy tình yêu nơi Công
giáo có những nét khác với lòng từ bi của Phật giáo. Tình yêu người ở đây như
là thái độ yêu thương dành cho một người tình duy nhất. Sự quan tâm yêu thương
làm cho đối tượng được yêu cảm thấy như mình có một giá trị độc nhất vô nhị,
mình cảm thấy được yêu vì chính mình, chính ngã vị của mình, bao hàm trong một
sự hiện hữu có đủ mọi khía cạnh tốt xấu. Thái độ tình yêu đó không đơn thuần là
một sự luyện tập nhân bản đạo đức nào đó như một đức thương người, nhưng là một
sự thấm nhuần về một sự nhận thức về chính mình được yêu thương với một giá trị
cá vị, riêng biệt, một sự nhận thức về giá trị ngã vị con người. Tình yêu thương có vẻ như vương vấn, lụy
tình, có phần nào ngọn lửa tình yêu đó theo lối nhìn Phật giáo dường như ít
nhiều đeo mang dục tính, bởi có cái gì như si tình chứ không là thanh thoát,
giác ngộ. Còn như vị cao tăng ở chốn thiền môn, có thế toát ra một phong thái
của bậc chân tu, đạo hạnh, nghiêm trang và thanh thoát. Tình thương của Ngài, ông
có cảm giác đó là lòng tư bi vô ngã đối với một chúng sinh vô ngã như bất cứ
chúng sinh nào (Xc. tr.32-34).
Thầy Cũng nhận ra những sự khác
biệt giữa tình yêu người nơi Công giáo so với đức thương người nơi truyền thống
Nho giáo. Chữ “Nhân” trong Nho giáo hiểu theo nghĩa căn bản là tình thương
người. Tình thương người đó tối thiểu là không làm hại ai, tránh xa những việc
thất đức. Nếu có thể thì nên giúp đỡ những người hoạn nạn cơ bần. Tình thương
đó đôi khi thể hiện như một sự ban bố của người trên đối với kẻ dưới, một người
có tri thức, sống thanh cao đối với một người bình dân. Đức thương người đó có
chút gì như là cầu lợi. Ông ba cha mẹ sống thiện lương, để bây giờ bản thân
mình được hưởng cái phúc đó của tổ tiên, thì mình cũng phải ăn ở cho có đức để cho
con cháu sau này cũng được hưởng (Xc. tr. 17-18).
Thêm nữa, nơi Nho giáo, theo thầy cái phẩm vị của
một con người dường như bị giới hạn trong cái chức năng, cái bổn phận, cái
danh, vai trò. Một
người chỉ được coi là cha, là mẹ, là con, là chị hay là em. Chẳng hạn nghĩ về
mẹ, thầy
cho rằng xưa nay dường như mẹ ông được đối xử như là con, là vợ,
là mẹ, là bà cụ thượng, là bà chủ nhà, là con mẹ địa chủ… chứ chưa bao giờ được
thật sự đối đãi như một con người thuần túy, không nhãn hiệu, không danh vị ngoài
cái ngã vị độc đáo duy nhất của chính mình (xc. tr.109).
Và chỉ khi bước vào môi trường
Công giáo, thầy mới nhận thấy một tình yêu ngã vị
độc đáo. Tình yêu đó cho ông thấy khi yêu một con người không chỉ đặt trong một
mối tương quan, bổn phận đơn thuần, nhưng là mở rộng ra toàn thể hiện hữu cá vị
của con người đó, có tốt có xấu, không bị giới hạn vào một khía cạnh nhưng là
toàn thể. Toàn thể một con người và tất cả đều là con cái của Thiên Chúa. Và
khi yêu như vậy, thì dù những mối tương quan có bị bẻ gãy nhưng ta vẫn yêu
chính con người họ. Tình yêu đó trong Đức Kitô muôn đời tồn tại.
Lối nhìn đặc biệt về tình yêu
ngã vị nơi Công giáo dẫn thầy đi đến một sự liên kết tương liên
giữa các ngã vị, đó là tính ltương giao liên ngã vị. Như đã nói, thầy cảm nhận được nơi môi trường Công giáo một bầu khí gia đình, gắn kết
với nhau. So sánh với các thiền viện thầy thấy có thể nơi nơi các cộng đoàn
Công giáo có lúc ồn ào, to tiếng thậm chí gây gổ với nhau nhưng đều có một
tương quan liên ngã vị, hữu ngã và hữu tha trong cái với nhau, với ai đó. Còn
thì trong các môi trường tu hành bên Phật giáo hay Ấn giáo thì có thể có một sự
an hòa, trầm lắng và vô sự hơn. Vì cái đích cuối cùng là hướng tới cái vô ngã,
hòa trong cái đại ngã tuyệt đối, tuyệt đối đơn độc (xc. tr. 57).
Cái tương quan liên ngã vị nơi
Công giáo là tương quan phát xuất từ tương quan một Chúa Ba Ngôi. Tình yêu
thông hiệp trong một tương quan liên ngã vị tồn tại muôn đời. Nhờ đó mà tình
yêu nơi con người với nhau cũng được vững bền. Khi chẳng may những mối tương
quan cha mẹ con cái có bị hủy hoại thì vẫn còn tương quan giữa con người với
nhau. Đó là mối tương giao liên ngã vị đặt trong mối tương quan ngã vị với
Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhờ mối tương giao liên ngã vị đó mà mọi hận thù nơi con
người được hòa giải và có thể yêu được cả kẻ thù. Đó là tình yêu trọn vẹn, vĩnh
cửu và tuyệt đối.
Sau này, dấn bước sâu hơn vào
giáo hội Công giáo, thầy nhận ra cái lạ kỳ của tình yêu tương
liên ngã vị nơi các cộng đoàn xứ đạo phát xuất từ một tình yêu còn lạ kỳ bội
phần, tình yêu Giêsu. Đức Giêsu là cả một sự lạ kỳ. Ấn tượng đầu tiên của ông
về Giêsu không phải là những triết lý dạy dỗ của Ngài mà chính là con người của
Ngài, con người và cuộc đời Giêsu. Tuy là một Đấng cao cả được con người tôn
sùng nhưng nơi cuộc đời Ngài có cái gì đó thật rất người. Ngài sống cuộc đời
phiêu bạt, không chỗ tựa đầu, khởi đi từ lúc mới sinh nằm trong máng cỏ, chạy
trốn vua quan bách hại. Ngài ăn uống đi lại với phường tội lỗi, dân bần cùng, đôi khi còn chửi
mắng cáu gắt. Ngài cầu nguyện, xin các môn đệ thức với Ngài và xin Chúa Cha cất
chén đắng nếu có thể. Nhưng rồi Ngài đã vâng lời hiến tế chính mình trên thập
giá. Nếu Đức Phật thanh thoát, miệng cười tươi tắn rạng rỡ, thì nơi Đức Giêsu
lại khắc họa một hình ảnh quằn quại, khổ đau. Hình ảnh đâu tiên về Giêsu gợi
lên trong ông tình cảm thương mến nơi một người dịu dàng, hiền lành, đơn sơ,
yêu thương những người yếu thế. Sau là lòng thương cảm đối với một người vô tội
bị oan khiên. Thầy cảm nhận được nơi Giêsu một sự an ủi của người
mẹ hiền, sự sẻ chia của một người bạn quý khi cả hai đều có những tâm trạng như
nhau, hiểu nhau.
Hình ảnh Đức Giêsu bê bết máu
treo trên thập giá gây cho thầy một ấn tượng mạnh. Ban đầu là một
sự ghê sợ, dị ứng. Nhưng dần dà ông hiểu ra đó là tình yêu mãnh liệt lạ kỳ. Một
tình yêu dâng hiến trọn vẹn, cho những đau khổ, phi lý của con người. Giải
thoát không còn là sự trốn chạy khổ đau nhưng dính dấp với nó. Dính dấp với con
người bằng một tình yêu dâng hiến, dù cho đó là kẻ đóng đinh mình. Tình yêu
giải thoát đó thật lạ lùng. Một mặt, tình yêu đó như chỉ dành cho riêng ông,
một hiện hữu cá vị cụ thể. Thầy cảm thấy mình được yêu thương
cách đặc biệt, những nỗi khốn khổ ưu tư nơi ông như được Giêsu quan tâm, yêu
thương, sẻ chia như một tình yêu yêu duy nhất của Ngài. Mặt khác, trong tình
yêu của Giêsu, thầy cảm nhận tất cả mọi nỗi đau
khổ ưu phiền của nhân loại, của mọi con người đều được thâu gom trong tình yêu
của Ngài. Cảm nhận tất cả mọi người, là ba mẹ, anh chị em và tất cả những người
thân yêu đều được bao bọc chở che trong cái tình yêu phổ quát của Giêsu.
Đó là một sự khám phá lạ lùng
về tình yêu Giêsu. Sâu xa trong tâm hồn, thầy tìm thấy cái ý nghĩa cho những
đau thương nơi cuộc đời. Con thuyền đời chòng chành giữa biển trần muôn trùng
gió bão được thả neo vào một bến bờ tình yêu vững bền. “Nếu tâm hồn tôi từ tấm bé đã bị câu: “Đời là bể
khổ” ám ảnh đè nặng, thì hình ảnh Giêsu quằn quại trong vườn Giêt-si-ma-ni và
chết trên khổ Giá đã đem lại liều thuốc (hay nói đúng hơn: Một tiếng trả lời
vọng lại, rền vang, in sâu vào tâm khảm) chữa lành trong hiện thực chứ không
phải bằng tư duy trừu tượng.” (tr.37)
Nhưng đó mới chỉ là cảm nghiệm mà thầy xét trên bình
diện nhân loại, nghĩa là xét về sự đồng cảm an ủi của tình yêu Đức Giêsu như
một con người chứ chưa hẳn là một sự cứu rỗi đời đời trong tình yêu vĩnh cửu
vào niềm tin Thiên Chúa. Sau này khi đã trải qua biết bao nhiêu biến cố cuộc
đời, thầy càng xác tín hơn vào tình yêu của Đức Giêsu, là Đấng Cứu Độ cuộc đời thầy. Thầy đã cật lực dấn
thân không mệt mỏi để bước theo Ngài trên con đường tìm kiếm sự cứu độ vĩnh
hằng tuyệt đối. Để rồi thầy thốt lên :
Điều mà tôi tìm kiếm thấy là Đức Giêsu người
Na-da-rét, là Đức Kitô, là Ngôi Hai Thiên Chúa
xuống thế làm người, chịu tử nạn và Phục sinh mà Hội Thánh Công giáo là tổ chức
do Ngài thành lập để giới thiệu Ngài với mọi người đau thương và tội lỗi cần ơn
cứu độ, là phương tiện để Ngài luôn luôn hiện diện và tác động, tuy kín nhiệm
nhưng hiện thực, qua các bí tích mà trung tâm là bí tích Thánh Thể, nhằm giúp
con người thực hiện được cứu cánh của mình, là qua cuộc sống ở đời này, tiến về
cuộc lai sinh mà trong đó ngã vị chủ thể của họ, kể cả thân xác, được trường
tồn tham dự vào cuộc sống tình yêu của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là Thiên Chúa Ba
Ngôi (tr.84).
Tạm kết
Có
thể nói cuộc đời thầy Têphanô Thế tâm Nguyễn Khắc Dương là một cuộc vật lộn với
những trăn trở thao thức mà như thánh Âu-tinh nói: “Chúa
đã dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi nghỉ
yên trong Chúa”. Trong lòng thầy luôn ưu tư một nỗi khao khát cần được lấp đầy. Nỗi khao khát đó ông
dành cả cuộc đời để tìm kiếm. Đọc lại hồi ký, chúng ta bắt gặp nơi cuộc đời thầy không chỉ là những sự kiện, những khúc
quanh, những biến cố bình thường hay lớn lao, cho bằng cả cuộc đời thầy toát lên một nỗi niềm khao khát, tranh đấu
quyết liệt, trăn trở lao tâm lao lực đi tìm ý nghĩa cuộc đời mình, cứu cánh
cuộc đời mình. Nhất là niềm vui viên mãn của chính thầy khi tìm được cội nguồn hạnh phúc, tìm được
ý nghĩa sống và ơn cứu độ đời mình nơi tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Tất cả hành
trình đó nơi cuộc đời thầy,
một chứng nhân, củng cố và gia tăng nơi chúng ta niềm tin vào Đức Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ con người.
[1] Bản in phô tô năm 1997 với tựa đề tiếng La
Tinh QUIA
RESPEXIT HUMILITATEM MEAN.
Có thể tìm đọc trên: http://daihoithunhan. weebly.com/hoiky_nkduong.html
[2] X. Francis Cao, “Thánh lễ tạ ơn mừng thượng thọ 95 tuổi thầy
Stêphanô Nguyễn Khắc Dương” truy cập ngày 30-10-2021, https://giaophanhatinh.org/thanh-le-ta-on-mung-thuong-tho-95-tuoi-thay-stephano-nguyen-khac-duong-11680
Đăng nhận xét