Vũ Đinh, OP.
DẪN NHẬP
Về từ ngữ có sự khác biệt
sâu xa giữa cứu độ, cứu chuộc và giải thoát – lý do bắt nguồn từ giáo lý
của mỗi tôn giáo – theo đó, tùy theo nội dung giáo lý của tôn giáo được trình
bày mà ý nghĩa của cứu độ, cứu chuộc và giải thoát của mỗi tôn giáo như được
“mặc định” một ý nghĩa rất khác biệt. Thậm chí trong một tôn giáo như Phật giáo
thì hai phái Đại thừa và Tiểu thừa cũng trình bày những giáo lý về giải thoát
rất khác biệt nhau như hai con đường song song cứ đi mãi mà không có điểm
chung…; còn nếu trình bày về lập trường của phái Bảo thủ và Cấp tiến trong mỗi
tôn giáo thì vấn đề sẽ trở thành “tát cạn thái bình dương để bắt cá”.
Vì vậy, người viết chỉ
cố gắng trình bày những điểm cốt yếu của một số tôn giáo về chủ đề cứu
độ và giải thoát như là những gợi ý để quý độc giả suy tư và tìm hiểu
thêm. Vì có quá nhiều tôn giáo trên thế giới, nên người viết xin được chọn năm tôn giáo lớn đã và
đang có ảnh hưởng quan trọng trên thế giới hiện nay là: Khổng giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo, Kitô giáo và
Hồi giáo.
I. KHỔNG GIÁO
Có vấn đề cứu độ và giải
thoát trong Khổng giáo không? – Thưa không có gì cả. Vì khổng giáo không phải
là một tôn giáo – vì vậy khi dùng từ “Khổng giáo” đã là không đúng, không chính
xác!
“Khổng giáo” xuất phát
từ Khổng Tử, một nhà biên soạn có công rất lớn với tư tưởng và văn học Trung
Quốc. Các tác phẩm do Khổng tử và các môn sinh của ông còn để lại như Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ nhạc, Dịch và
Xuân thu), Tứ thư (Đại học, Trung
dung, Luận ngữ và Mạnh tử) – dù ông xác định mình chỉ biên soạn (sưu tầm và san
định) “thuật nhi bất tác”, nhưng việc hình thành các tác phẩm trên đã là một
công việc lớn lao trong lịch sử văn hóa và tư tưởng của Trung Quốc. Vì vậy mà
ông được tôn vinh là “vạn thế sư biểu” (ông thầy của ngàn đời, tất nhiên chỉ là
đối với người Trung Quốc thôi), chứ cả thế giới thì Không Tử đâu có cửa, vì còn
nhiều vĩ nhân có tầm cở hơn cả Khổng Tử. Gần như hoàn toàn không có yếu tố siêu
nhiên (Trời, linh hồn, ơn thánh, ơn trời) trong tư tưởng của Khổng Tử, mà chỉ
bao gồm các yếu tố trong “Đạo làm người” mà tùy theo phái tính mà thi hành: nam
thì “tam cương ngũ thường”, gái thì “tam tòng tứ đức”. Các chuẩn mực cố định
này cột chặt nam nữ trong xã hội Nho giáo trong nhiều thế kỷ cho đến thời hiện
tại thì nó chỉ còn là những hoài niệm đáng buồn mà thôi.
Hai mẫu người: quân tử
và tiểu nhân (một tốt, một xấu) cũng được Khổng Tử đề cập đến nhiều, riêng sách
Trung Dung được xác định là sách trình bày về cái Đạo của người quân tử - còn
tác phẩm được coi là lớn nhất chính là cuốn “Kinh Dịch”, nội dung trình bày về
lẽ biến hóa của trời – đất (các tinh tú) và con người. Sự biến dịch phong phú
và khôn lường – tính tương tác (hỗ trợ hoặc hủy hoại lẫn nhau) mà con người cần
học hỏi, suy gẫm… để tìm ra cho bản thân những giải pháp tốt nhất cho cuộc
sống.
Bện cạnh công trình
biên soạn các tác phẩm quý đã nêu trên, Khổng Tử luôn canh cánh tư tưởng về một
chế độ “quân chủ” lý tưởng để đem lại sự ấm no, hạnh phúc cho con người. Nhưng
khi đã thất bại về lãnh vực này, vì ông đã “lý tưởng hóa” các bậc vua chúa – là
điều phi thực tế - ông buồn phiền và chuyển hẳn sang lãnh vực giáo dục. Ở lãnh
vực này, Khổng Tử là người khai sáng nền giáo dục tư thục đầu tiên của Trung
Quốc.
Người ta xây các đền
thờ Khổng Tử nhiều nơi với lễ bái khói hương nghi ngút - như ở Việt Nam các
danh tướng trong lịch sử cũng được xây đền thờ và bái lạy khói hương nghi ngút…
Dân chúng tự ý “phong thần” cho các vị ấy – chứ họ cũng chỉ là người phàm – đâu
phải thần thánh gì.
Tóm lại, Khổng giáo không
phải là một tôn giáo, nên không có đạo lý hay giáo lý về cứu độ hoặc giải thoát
như Phật giáo hay Kitô giáo. Dù người ta có xây dựng nhiều đền thờ Khổng Tử và
lễ bái ông – như người Trung Quốc và Việt Nam vẫn làm như thế đối với nhiều
danh nhân, danh tướng trên các thành thị. Dân chúng ái mộ nên phong “thần
thánh” cho họ, chứ chính họ có phải là thần thánh đâu!
II. ẤN ĐỘ GIÁO
Ấn Độ là quốc gia lớn
thứ hai của Châu Á (sau Trung Quốc). Địa lý nước Ấn cũng có tác động rất lớn
với người dân Ấn. Miền Bắc nhiều rừng rậm và những dãy núi cao chót vót (Hy Mã
Lạp Sơn). Miền Nam là những đồng bằng bao la sông Hằng và các phụ lưu với hơn
một tỷ dân, mà đời sống còn khá nghèo. Ấn Độ từng bị các vua Hồi giáo chiếm
đóng và cai trị. Mãi tới năm 1947 Ấn Độ mới được Anh Quốc trao trả độc lập –
khát vọng hòa bình độc lập của dân Ấn và Ấn giáo đã hòa nhập với khát vọng giải
thoát khỏi chiến tranh, nghèo đói và khổ đau.
Ấn Độ giáo không có vị
sáng lập – dòng tâm linh Ấn giáo khởi phát từ 1500 – 500 (Trước Công nguyên là
thời của các kinh Veda – hiện còn bốn kinh Veda nổi tiếng)
- Rig Veda: gồm các thơ ca dâng thần
- Yajup Veda: các công thức hiến tế
- Sama Veda: nói về sáng tạo vũ trụ và bao gồm cả những lời cầu nguyện
- Arthava Veda: tập hợp các bùa chú và phép thuật.
Vào khoảng 500 trước
Công nguyên – Các Upanishat (Áo nghĩa thư) ra đời. Đây là công trình của nhiều
vị Đạo sư đã miệt mài suy tư, cầu nguyện từ nền tảng kinh Veda trong nhiều năm
để hình thành Upanishad như là các công trình tri thức để hiểu và thực hành các
kinh Veda.
Ấn
Độ giáo không có vị lãnh đạo hay chỉ đạo mà vẫn phát triển âm thầm thành một
cây đại thụ và trổ sinh hoa trái phong phú và nổi danh khắp thế giới. Thi hào
Tagore với những tác phẩm thơ tâm linh tuyệt vời. Mahatma Gandhi với thuyết
“Bất bạo động” (Ahimsa) đã dành
độc lập cho Ấn Độ năm 1947 mà không tốn một viên đạn, và còn nhiều đứa con tinh
thần của Ấn giáo đã và đang nổi danh khắp thế giới.
Chính vì thiếu yếu tố
lãnh đạo thống nhất trong tổ chức và điều hành nên cũng không có sự thống nhất
về giáo lý và những luật lệ quy định về giải thoát trong Ấn giáo.
Tuy vậy, nhờ và qua các
Upanishad, tín đồ Ấn giáo có thể khám phá ra con đường hay tiến trình đạt được
giải thoát vừa bao gồm hai yếu tố nhận thức (nhờ thụ giáo, học hỏi, suy tư,…)
và hành động chân chính.
Yếu tố nhận thức: Qua
và nhờ thụ giáo học hỏi – người cầu tìm giải thoát cần nhận thức rõ về linh hồn
cá nhân mình (Atman, Atvaita) bị chi phối bởi một chuỗi vòng tròn kỳ quái
của luật vũ trụ gọi là pháp (Dharma gắn liền với nhau) luật này có tiềm năng
sinh và tái sinh đến vô tận. Con người bị trói buộc vào cái vòng kỳ quái đó vì
sai lầm – rồi khổ đau và chết – và lại tái sinh trong sai lầm và khổ đau khác,
thực tại khác… và cứ thế…
Do hậu quả của tinh
thần và các hành động của Atman (cá nhân) mà tạo thành các nghiệp chướng
(Karma) khiến con người sẽ bị luẩn quẩn mãi trong vòng kỳ quái của luật vũ trụ,
gọi là luật Luân hồi (Samsara). Để phá vỡ được vòng luân hồi này, con người
phải nỗ lực tẩy uế hành động vị kỷ… chỉ hành động theo pháp riêng của mình – là
sống chân chính, thanh thoát và an tịnh – là luôn gieo cái nhân tốt để gặt cái
quả tốt – không còn gây nghiệp chướng. Nhờ đó, khi hữu thể là thân xác tan biến
(chết) thì linh hồn – Atman mới thoát vòng luân hồi oan nghiệt mà được hòa với
đại hồn (Brahman) vũ trụ bao la hạnh phúc.
Giải thoát (Moksa,
Koksa)
Là hạnh phúc viên mãn,
là ước mơ vô giá của một tín đồ Ấn giáo (Moksa, tiếng Sancrit có nghĩa là vô
giá). Khi cái Atman tiểu hồn nhận biết đại hồn (Brahman) là “thực thể của mọi
thực thể” cũng là cái bất sinh bất diệt – vượt xa, rất xa khỏi mọi sức mạnh và
mọi vị thần – theo đó mọi Atman trong sáng sẽ hòa nhập trọn vẹn với đại hồn vũ
trụ Brahman – không còn sự phân biệt nào nữa: Brahman và Atman chỉ là một duy
nhất mà thôi. Thiên nhân đồng thể hợp nhất.
Một vị tôn sư Ấn giáo
diễn tả về ý tưởng giải thoát trong ngụ ngôn bất hủ sau:
- “Đem lại cho ta một
trái sung”
- “Thưa tôn sư đây”
- “Bửa nó ra”
- “Thưa tôn sư, con bửa
nó rồi đây”
- “Con thấy gì?”
- “Thưa tôn sư, con
thấy nhiều hột nhỏ”
- “Cắt một hột đi”
- “Thưa tôn sư, con cắt
rồi đây”
- “Con thấy gì ”
- “Thưa tôn sư, con
chẳng thấy gì cả”
- “Đúng vậy đấy”.
Chính từ cái bản thể tế
vi đó, phải chính từ cái bản thể tế vi đó là linh hồn của vũ trụ. Nó chính là cái
thực thể. Chính là Atman: TAT TVAM ASI. Chính là con đấy, Shewetaketu ạ!
- “Thưa tôn sư, có cần
phải hiểu thêm gì về điều đó nữa không?”
- “Thôi, thế đủ rồi”!
Tiến trình đạt giải
thoát của Ấn Độ giáo xem ra có vẻ ngắn gọn – nhưng thực ra con đường hành động
mà không tạo nghiệp chướng (KARMA) để thoát khỏi vòng luân hồi (Samsara) không
hề giản đơn chút nào? Nó gần như bơi qua
Thái Bình Dương với sức của bản thân mình…
III. PHẬT GIÁO
Phật giáo là một tôn
giáo lớn trên thế giới, mà hơn nửa thế kỷ qua đã hấp dẫn và lôi cuốn giới có
học thức châu Âu và châu Mỹ. Phật giáo đã được coi là “con tinh thần vĩ đại”
của Ấn Độ giáo. Điều này hoàn toàn xác đáng khi mà một giáo lý quan trọng trong
Phật giáo là luật luân hồi – đã có từ trong Ấn Độ giáo – chính Đức Phật cũng
từng là du sĩ Bà la môn sáu năm, có nhiều bằng hữu là du sĩ Bà la môn – sau này
khi ngộ được chân lý giải thoát, ngài đã thu phục nhiều du sĩ Bà la môn thành
môn đệ của ngài.
Đức Phật xuất thân từ
Hoàng gia ở Ấn Độ thế kỷ thứ V trước Công nguyên – ngài có tên là Tất Đạt Đa Cồ
Đàm (Sidatha Gautama) sau khi đạt giác ngộ được gọi là Phật Đà hay Bụt Đà
(Buaddha) có nghĩa là người giác ngộ hay “người tỉnh thức” – lý thuyết hay giáo
lý mà ngài dạy cho con người để ai muốn thực hành hầu đạt được giải thoát gọi
là Phật pháp (Dharma).
Chân lý nền tảng của
Phật pháp chính là Tứ Diệu Đế, bốn điều mà Đức Phật đã chứng ngộ khi đạt đạo
sau bốn mươi chín ngày thiền định. Ngài còn thiền định thêm bốn mươi chín ngày
nữa, để sắp xếp các tư tưởng của ngài cho trật tự - rồi sau đó ngài mới khởi sự
thuyết pháp cho chúng sinh biết con đường chứng ngộ của ngài.
Vào thời của ngài, hầu hết dân chúng sống
trong nghèo nàn khổ lụy. Thuở thiếu thời và thanh niên, vì là thái tử, ngài
sống trong giàu sang, không biết gì đến khổ - rồi sau bốn lần xuất du ra ngoài
bốn cổng thành, ngài gặp bốn tình huống: sinh, lão, bệnh, tử - đều là cảnh khổ
- có lẽ còn qua các cuộc gặp gỡ và đối thoại với nhiều người, ngài càng thấy rõ
kiếp người như bị bao vây bởi đủ thứ khổ đau triền miên, không bình an, không
hạnh phúc…
Và thế rồi, mới ngoài
ba mươi tuổi đời, vị vua trẻ với tấm lòng từ bi, từ giã cuộc sống giàu sang,
lên đường quyết tìm ra “phương thế” giúp chúng sinh thoát vòng đau khổ… khởi
đầu ngài trở thành một du sĩ Bà la môn, qua sáu năm tìm hiểu và tu tập, ngài
cho rằng, Bà la môn không giúp con người giải thoát được đau khổ.
Sau khi ngồi thiền định
bốn mươi chín ngày dưới gốc cây Bồ đề, ngài đã chứng ngộ ra con đường giải
thoát. Các yếu tố mà Đức Phật chứng ngộ đã trở thành một tiến trình đạt giải
thoát. Tiến trình đó như sau:
Tứ Diệu Đế
Đây chính là cơ sở cốt
lõi của Phật pháp, là câu trả lời cho khắc khoải của con người thời đại: làm
sao thoát khỏi vòng luân hồi (Samsara) đau khổ triền miên. Tứ Diệu Đế là bốn
cánh cửa mà Đức Phật đã mở ra:
1. Khổ đế (chân lý về
sự đau khổ)
Chân lý này cho rằng,
mọi thực tại tồn tại đều mang tính chất khổ não, không trọn vẹn. Sinh, lão,
bệnh, tử, xa lìa người mình yêu quý, ở gần người mình ghét bỏ, không đạt sở
nguyện, là tám điều khổ. Sâu xa hơn bản chất của năm nhóm thân tâm ngũ uẩn
(sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là các yếu tố tạo nên cái ta, đều là khổ.
2. Tập đế (chân lý về
sự phát sinh của khổ)
Nguyên nhân của khổ là
sự ham muốn; ái, tìm sự thỏa mãn
dục vọng, thỏa mãn được trở thành, thỏa mãn được hoại diệt. Các ham muốn này là
gốc của Luân hồi.
3. Diệt đế (chân lý về
diệt khổ)
Một khi gốc của mọi
tham ái được tận diệt, thì sự khổ cũng được tận diệt.
4. Đạo đế (chân lý về
con đường dẫn đến diệt khổ)
Phương
pháp để đạt được diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh – bát chánh đạo. Không
thấu hiểu Tứ Diệu Đế được gọi là Vô Minh – Đức Phật xác định ba đặc tướng của
cuộc đời là vô thường, vô ngã và vô minh – khi con người khắc phục được ba đặc
tướng này thì con người thoát vòng sinh tử - chấm dứt luân hồi và chứng ngộ
Niết Bàn. Tứ Diệu Đế chỉ ra con đường dẫn tới Niết Bàn là Bát Chính Đạo, gồm:
a.
Chính kiến: Gìn giữ quan niệm xác đáng về Tứ Diệu Đế và giáo lý vô ngã.
b.
Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách
không sai lầm.
c.
Chính ngữ: Không nói dối hay không nói những gì phù phiếm.
d.
Chính nghiệp: Tránh phạm giới luật.
e.
Chính mệnh: Tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh (đồ tể, thợ săn, buôn
vũ khí, buôn ma túy).
f.
Chính tinh tiến: Phát triển nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
h.
Chính niệm: Tỉnh giác trên ba phương diện: thân, khẩu, ý.
k.
Chính định: Tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gian.
Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo là Phật pháp,
là giáo lý nền tảng của Đức phật mà người khát mong giải thoát nếu thành tâm
thể hiện – có thể được như sở cầu – vì chính Đức Phật tuyên bố: “Ta là Phật đã
thành, còn chúng sinh là Phật sẽ thành”.
Giai
đoạn nguyên thủy của Phật giáo: Từ khi đạt giác ngộ (giữa thế kỷ VI trước Công
nguyên) Đức Phật cùng với các đệ tử đã rao giảng về giáo lý giải thoát (Tứ Diệu
Đế và Bát Chánh Đạo) – thời kỳ này kéo dài hết thế kỷ thứ V. Thời kỳ này được
gọi là Phật giáo nguyên thủy, Tiểu thừa, Nam Tông (Therevada hay Thượng Tọa Bộ)
có ảnh hưởng lớn. Từ thế kỷ thứ IV vì những luận giải về Phật pháp khác nhau mà
Phật giáo chia thành nhiều phái. Đến thế kỷ thứ nhất Công nguyên thì Phật giáo
Đại thừa (Mathayana hay Bắc Tông, Đại Chúng Bộ) ra đời – phái này phát triển
khá nhanh tại nhiều quốc gia châu Á – phái Đại Thừa đã đi quá xa Phật pháp nguyên
thủy của Đức Phật – biến Đức Phật và các Bồ tát thành các vị có thể phổ độ
chúng sinh đạt giải thoát… Ngoài ra còn du nhập nhiều nghi thức tế tự, cúng tế
của các tôn giáo khác.
Quả
đúng như nhận định của Will Durant: “Đức Phật đã sáng tạo một tôn giáo vô thần
(không thượng đế và thần thánh) nhưng sau khi ngài viên tịch thì các đệ tử đã
biến Phật giáo thành tôn giáo đa thần và cả một ‘rừng kinh điển’” (Will Durant,
Bài học lịch sử).
Trong
khi giáo lý Phật giáo Tiểu Thừa đòi hỏi nỗ lực của chính bản thân phải thực
hành Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo để đạt giải thoát mà không có sự trợ giúp của
bất kỳ ngoại lực nào, thì giáo lý Đại Thừa lại dạy con người có thể thành tâm
khẩn xin Đức Phật, các Bồ tát gia hộ (phù giúp, phù trợ) để đạt được giải
thoát. Phải chăng có nhiều cõi Niết Bàn với cấp độ khác nhau – xin Đức Phật gia
ơn giải đáp.
IV. KITÔ GIÁO
Xin khẳng định ngay
rằng, đối với Kitô giáo, cứu độ hay giải thoát cũng như nhau và là một Ân Sủng
Vĩ Đại do chính Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại nhằm giải thoát
nhân loại (và mỗi người) vì cái ách thống trị của tội lỗi gây nên.
Theo đó, con người cũng
được mời gọi cộng tác vào công trình cao quý trên, để chương trình cứu độ của
Thiên Chúa sớm được thành toàn cho mỗi người và toàn thế giới. Tình yêu của
Thiên Chúa ví như biển cả bao la vẫn cần mỗi cá nhân như những giọt nước cộng
lại.
Chương trình cứu độ
nhân loại của Thiên Chúa đã chính thức khởi đầu từ hơn hai mươi thế kỷ qua, mà
Giáo hội do chính Đấng Cứu độ là Đức Giêsu Kitô thành lập đang kế thừa và thi
hành sứ mệnh cứu độ nhân loại do Ngài trao phó (xc Mt 28,18-20).
Cánh đồng truyền giáo
là thế giới mênh mông mới chỉ có khoảng 17% là Kitô hữu, trong khi thợ gặt lại
cứ giảm sút dần. Tất nhiên Thiên Chúa biết tất cả, với quyền năng vô biên mà
chúng ta đã nhận biết rõ qua Đức Giêsu Kitô và các thánh của Người, thì chúng
ta không được phép quên rằng, cứu độ nhân loại là công trình của chính Thiên Chúa,
Đấng quyền năng vô biên và vô cùng nhân hậu. Và chúng ta tiếp tục tìm hiểu
chương trình quý giá vô cùng và duy nhất này: Kế hoạch cứu độ nhân loại do chính Thiên Chúa thực hiện.
1. Ađam: “Đứa con hoang đàng”
Dù được Thiên Chúa cho
ở trong môi trường tối ưu là Vườn Địa đàng, vậy mà ông bà Nguyên tổ vẫn nghe
lời dụ dỗ của ma quỷ xảo quyệt để lỗi phạm đến Thiên Chúa.
Nhờ ánh sáng Tân ước,
ta nhận ra Ađam tương tự như đứa con hoang đàng (Xc Lc15,11 tt) đã tưởng mình
tìm được con đường hạnh phúc, nhưng thật ra là con đường dẫn đến đau khổ. Thế
nên, người cha nhân hậu chính là Thiên Chúa không đành để con người trầm luân
trong khổ đau, mà Ngài đã khởi động một chương trình cứu độ nhân loại.
2.
Các ngôn sứ loan báo và các biến cố thời cựu ước
Gần một ngàn năm trước
Chúa Giáng sinh, các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êgiêkien, Đaniel, nhất là ngôn sứ
Isaia đã loan báo về Đấng Mesia, Đấng cứu tinh sẽ đến giải phòng nhân loại khỏi
ách lầm than đau khổ (x Is 9,1-6).
Thiên Chúa giao ước với
Nôê sau lụt Đại Hồng Thủy (xc. St 9,9-17).
Giao ước với tổ phụ
Abraham để thiết lập một dân, qua họ ơn cứu độ đến với cả nhân loại.
Giao ước với Môsê khi
thoát họ khỏi Ai cập.
Loan báo về Đấng Mesia
đến cứu độ qua các ngôn sứ.
3. Chúa Giêsu và Hội thánh của Ngài
Sau hết, khi tới Giờ Thiên Chúa ấn định,
Con Thiên Chúa là Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể vào trần gian làm người để
hoàn tất công cuộc cứu độ nhân loại qua cuộc khổ nạn và phục sinh vinh quang.
Ngày nay, thần khí của
Đức Kitô phục sinh hướng dẫn Giáo hội, tiếp tục công cuộc cứu độ của Đức Kitô
và hướng về ngày Cánh chung.
Kế hoạch cứu độ nhân loại còn gọi là chương trình hay Nhiệm Cục Cứu Độ nhân loại được Thiên
Chúa thực hiện qua Giáo hội do chính Đức Kitô thiết lập từ khi khởi đầu sứ vụ
loan báo Tin Mừng, Ngài trực tiếp kêu gọi mười hai vị Tông đồ, huấn luyện họ,
và sau khi phục sinh từ cõi chết, Ngài đổ ơn Chúa Thánh Thần để biến đổi họ
thành những Tông đồ, để các ông làm chứng và loan báo Tin Mừng Phục sinh cho
đến tận cùng thế giới. Được đầy ơn Chúa Thánh Thần, các Tông đồ trở thành những
con người khôn ngoan, sáng suốt và can đảm lạ lùng. Các ngài đều sẵn sàng hy
sinh mạng sống mình vì Thầy Chí Thánh.
Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu với tình yêu và quyền năng vô biên vẫn hiện hữu sống
động trong Kinh Thánh và các bí tích mà Giáo hội hằng ngày cử hành để ban ơn
phù trợ các chi thể của Người. Vì thế khi đọc Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích
với tâm tình tin tưởng và yêu mến là chúng ta được ơn phù trợ từ chính Đấng Cứu
Độ là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Amen.
V. HỒI GIÁO
Đọc và tìm hiểu
về các tôn giáo, cảm xúc của tôi là bình thường, nhưng khi đọc đến Hồi giáo thì
cảm xúc của tôi luôn căng thẳng và buồn phiền. Vì có thể nói rằng, Hồi giáo cực
đoan là tôn giáo ngay từ đầu và cho tới ngày nay vẫn luôn luôn là nguyên nhân
và tâm điểm của nhiều cuộc chiến tranh.
1. Allah và Muhammad
Toàn bộ cuốn
Kinh Koran đều xác định Allah là Thượng đế, hay Thiên Chúa tối cao, duy nhất,
nhân từ, quyền năng và Muhammad là sứ giả cuối cùng và duy nhất của Allah.
Muhammad còn được gọi là nhà tiên tri, theo đó Kinh Koran là lời Thiên Chúa
được thiên sứ Grabriel đọc cho Muhammad (và ông đọc lại cho người vợ trẻ thứ
năm ghi lại).
Muhammad sinh
năm 570, lên sáu tuổi thì mồ côi cha mẹ, và được ông nội và người chú Abutalib
nuôi dưỡng. Khi là thanh niên, ông làm công cho bà góa Khadija giàu có, sau đó
hai người kết hôn với nhau, dù gần bốn mươi tuổi, bà vẫn sinh cho ông bảy người
con, tiếc rằng chỉ còn lại bốn người con gái, vì ba người con trai đã chết khi
còn nhỏ. Sau khi Khadija mất, Muhammad còn cưới thêm mười một cô vợ nữa và có
cô chỉ mới mười hai tuổi. Mỗi đêm ông có thể quan hệ với chín bà vợ, và điều
này được giải thích là ông đã nếm trước “hoan lạc thiên đàng” (Hồi giáo thôi).
Ông từ trần đột ngột vào năm 632
trong vòng tay người vợ trẻ mười tám tuổi, Laisha. Việc ông chết đột ngột mà
không để lại di chúc hay “lệnh truyền”
gì, hoặc Allah Đấng mà Muhammad rất mực suy tôn đã đối xử “bất công” với ông khi
không báo cho ông biết ngày giờ ông từ trần, để ông chuẩn bị di chúc, hoặc những
“giáo lệnh” cho Hồi giáo. Vì ngay sau khi ông mất, việc kế thừa đã rất “đẫm
máu”. Và rồi Hồi giáo đã đi đến phân ly thành hai phái Sunny và Shiite. Rồi vô
số các cuộc tranh chấp và chiến tranh đẫm máu giữa quân đội của hai phái này đã
xảy ra từ đó đến thời chúng ta ngày nay và không có chút hy vọng nào là hai
phái Hồi giáo Sunny và Shiite sẽ hợp nhất. Dó đó mà nhiều điểm giáo lý của hai
giáo phái này cũng khác nhau.
2. Quyền bính và chính trị trong Hồi
giáo
Muhammad có khả
năng quân sự và giống như Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp được mười một sứ quân để lên làm
vua (thế kỷ X) thìcũng đã chiến thắng nhiều lãnh
chúa bán đảo Ả Rập để thống nhất lãnh đạo và quyền bính đều nằm
trong tay Muhammad. Sau khi ông bất ngờ từ trần năm 632, thì bốn vị tiếp theo
đã có công bành trướng Hồi giáo ra nhiều vùng lãnh thổ mới.
- Abu Bacr
(632-634) dù chỉ cai trị hai năm, ông đã khiến cả bán đảo Ả Rập theo đạo Hồi.
- Umar Khattab
(634-644) là tài năng quân sự lớn trong mười năm, ông đã biến Hồi giáo thành đế
quốc mênh mông từ Âu sang Á và cả Phi châu. Ông dùng bạo lực dữ dội với các
lãnh thổ chiếm được với tiêu chí CƯỚP (tài sản) GIẾT (nếu không mau mắn tung hô
Allah thì bị giết) và HIẾP (phụ nữ và thanh thiếu niên nữ không phải Hồi giáo
thì bị hiếp và bị giết), vì vậy mà nhiều sử gia gọi Hồi giáo là: “Đức tin bạo
lực” (Aviolent Faith) hoặc “tôn giáo quân phiệt” (A militaristic Religion).
- Uthman (644 -
656) từng là cánh tay mạnh của Umar Khattab, ông tiếp tục chiếm thêm nhiều lãnh
thổ từ Âu sang Á tới Bắc Phi, các tướng tá bất mãn đã giết ông và đưa Ali lên
kế vị.
- Ali Talib
(656-662) ông này là em họ và là con rể của Muhammad, ông bị người nhà của
Uthman là Muawyah chống đối và chiến tranh đã xẩy ra giữa hai người này. Sau
khi Ali bị ám sát chết thi Muawyah với quân đội trong tay đã thừa kế và mở ra
một triều đại Hồi giáo kéo dài sáu thế kỷ. Các vua trong triều đại này đều tự
xưng Caliph (kế vị Muhammad 662-1250). Trong thời gian này, những người Hồi
giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi
giáo còn lại được gọi là Sunny (nghĩa là đa số). Năm 680, vua Yazid (con
Muawyah) đến Medina chặn bắt con trai của Ali là Husayri và giết cùng với nhiều
người Hồi giáo Shiite. Năm 681 Yazidtrở lại Medina tàn phá và dìm Medina trong
biển máu, phái Shiite đến chiếm thánh địa Meccka và phá tan thành phố này, mười
ba thế kỷ nay hai giáo phái Sunny và Shiite thường xuyên xung đột và nhiều trận
đẫm máu, số tử trận hai bên lên tới hàng chục triệu, thật là thảm họa quá lớn!
Từ thế kỷ XIII
đến thế kỷ XX, thế giới Hồi giáo đã xuất hiện ba đế quốc hùng mạnh:
- Đế quốc
Mughul: suy tàn vào cuối thế kỷ XIX bởi đế quốc Anh.
- Đế quốc Ottoman: thành lập cuối
thế kỷ XIII và suy tàn đầu thế kỷ XX bởi ba cường quốc Anh, Pháp và Đức.
- Đế quốc
Safavids: thành lập đầu thế kỷ XVI và suy tàn vào thế kỷ XVIII bởi các nước
châu Âu đã hùng mạnh trở lại. Sang đầu thế kỷ XX (1917), Nga đã chiếm các lãnh
địa của đế quốc Mongul và Ottman và nhuộm đỏ các quốc gia này thành Liên Bang
Xô Viết.
Như vậy, Hồi
giáo bùng lên với những yếu tố rất con người, các chiến thắng Hồi giáo mạnh mẽ
khi bạo lực được thúc đẩy bởi cướp, giết và hiếp, đem lại vô số của cải… nên
nhiều sử gia đã gọi Hồi giáo là tôn “giáo của lưỡi gươm” (Religion of Sword),
hoặc “tôn giáo quân phiệt” (Militaris Religion). Đức tin Hồi giáo là đức tin
hung bạo (A Violents Faith). Kinh Koran của Hồi giáo thì được gọi là “cuốn sách
của tử thần” (The Book of deat).
Hơn một thế kỷ
nay, Hồi giáo bị phương Tây đẩy vào thế suy yếu, nên họ đã dùng khủng bố để đối
lại. Theo đó, nhờ các phương tiện hiện đại, chính sách khủng bố càng ngày càng
đáng sợ và khủng khiếp, mức độ tàn bạo khiến cả thế thế giới phải kinh hoàng và
như vậy không thể không dẫn đến…
1.
Những mối hoài
nghi lớn về Hồi giáo
Allah của
Muhammad, Allah có nghĩa là Thiên Chúa, nên tôi phải xác định rằng, Allah của
Kinh Koran và của Muhammad là Allah “riêng biệt” và hoàn toàn khác với Thiên
Chúa của Kitô giáo. Vì vậy, từ nội dung của Kinh Koran, tôi nêu ra những điểm mà
tôi gọi là các mối hoài nghi lớn về Hồi giáo.
1. Thiên Chúa
của Muhammad là Thiên Chúa quá nghiêm khắc và rất ưa dùng bạo lực. Kinh Koran
dài gần một ngàn năm trăm trang, mà cứ vài trang lại có những từ đả kích, nguyền rủa, lên án những
kẻ không tin Allah của Muhammad, hoặc cả người không nghe lời Muhammad. Lịch sử
của Hồi giáo từ thế kỷ VII đến nay cho thấy Hồi giáo rất thường dùng bạo lực
với cả trong nội bộ Hồi giáo và cả bên ngoài. Allah chỉ chấp nhận một tôn giáo
là Hồi giáo, còn các tôn giáo khác bị loại bỏ hay hủy diệt (Sura: 256).
2. Bất công
nặng nề với phụ nữ: Đàn ông có quyền lấy bốn vợ, khi vợ không vâng lời chồng,
thì chồng có quyền đánh và có quyền li dị vợ. Phụ nữ không được học hành, không
được ra khỏi nhà một mình, và phải trùm kín khi ra khỏi nhà, cũng không được
đảm nhận phần lớn các công việc ngoài xã hội.
3. Vì Allah chỉ
công nhận một đạo Hồi và chính quyền Hồi giáo, nên các quốc gia Hồi giáo đều là
các quốc gia độc tài toàn trị. Chính quyền dân sự đều được bầu vẫn phải chịu sự
khống chế bởi các giáo sĩ Hồi giáo và phải chịu sự chỉ đạo của Hội đồng giáo sĩ
Hồi giáo.
4. Nhận định về các vụ khủng bố gần đây
- Vụ nhà văn Anh Salman Rushdie
(gốc Ấn Độ) vào năm 1996 xuất bản một tác phẩm khá dài (gần bốn trăm trang) có
tên “Những vần thơ của quỷ Satan”. Nhà văn gọi đích danh cuốn Kinh Koran của
Hồi giáo là “những vần thơ của quỷ Satan”. Vậy tác giả Kinh Koran là Muhammad
chính là quỷ Satan. Ngay lập tức thế giới Hồi giáo dậy sóng. Giáo chủ Iran là
Khomeini kêu gọi người Hồi giáo khắp nơi, hễ thấy nhà văn Salman Rushdie thì
phải giết. Liên hợp quốc và cả thế giới phương Tây lên án bản án bạo lực và bất
công của Hồi giáo. Hai mươi hai người đã chết vì liên quan đến vụ án này. Nhà
văn Salman Rushdie phải nhờ cơ quan mật vụ Anh bảo vệ 24/24. Khomeini còn đòi
lên án tử tất cả những ai cộng tác vào việc in ấn tác phẩm này.
- Vụ khủng bố ngày 11/9/2001: Mười chín tên không tặc Hồi giáo đến Mỹ
sống, học lái máy bay Mỹ và rồi dùng chính những máy bay Mỹ để đâm vào hai tòa
tháp đôi ở New York. Hai tòa tháp cháy và đổ sập, 2897 người chết (không kể 19
tên không tặc), một máy bay cũng bị không tặc chiếm, nhưng hành khách đã can
đảm chống lại bọn khủng bố gồm bốn tên và máy bay đã đâm xuống đất nổ tan tành.
- Các cuộc đánh bom tự sát: Người
đeo bom, xe đầy bom… và đâm vào những đám đông hoặc căn cứ quân sự rồi nổ tung,
gài bom nhiều nhà thờ Kitô giáo vào các Chủ nhật hoặc đại lễ có đông người tham
dự. Sự dã man tàn nhẫn của Hồi giáo là không thể tưởng tượng nổi!
5. Phải chăng là từ chính năm trụ cột
của Hồi giáo?
1. Shahadah là sự tuyên xưng
và đồng thời là điều cốt lõi trong đức tin của một tín đồ Hồi giáo phải luôn
luôn lập lại câu “không có Chúa Trời nào
khác ngoài Allah” và Muhammad là sứ giả cuối cùng của Allah. Islam là danh xưng
của tín đồ Hồi giáo, có nghĩa là “tuân phục” không những Muhammad và cả các
giáo sĩ đưa ra các “giáo lệnh” là tín đồ Hồi giáo phải tuân phục. Nếu bất tuân,
bị coi như ngoại đạo và bị giết.
2. Salat tín đồ Hồi giáo
phải cầu nguyện năm lần mỗi ngày (bình minh, trưa, chiều, vừa sau mặt trời lặn
và tối). Nội dung chính của cầu nguyện là lập đi lập lại là những lời: “không
có Chúa Trời nào khác ngoài Allah”.
3. Giakat: bố thí cho người
nghèo.
4. Sawm: nhịn ăn, đặc biệt
trong tháng Ramadan thì từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối không được ăn gì cả.
5. Hajj: hành hương tới
thánh địa Mecca ít nhất một lần trong đời.
6. Ảo tưởng và ảo tưởng
Khi nhận lệnh
của các giáo sĩ để đeo bom (hoặc một hình thức tương tự như chở xe bom) để tàn
sát quân đội, hoặc người phương Tây, Mỹ, thì các chiến sĩ Hồi giáo chết sẽ được
gọi là “tử vì đạo”, và sẽ được lên thẳng “thiên đường”. Ở đó mỗi chiến binh sẽ
được bảy mươi hai trinh nữ phục vụ và hưởng khoái lại đến “muôn đời”. Ôi, thật
là chuyện ảo tưởng đến kinh sợ cho tài năng bịa đặt của Muhammad. Vì ông từng bảo khi
còn sống, hàng đêm ông quan hệ với cả chục bà vợ, là hưởng trước khoái lạc thiên đường.
Vì vậy, tôi dám cho rằng, Allah của Muhammad chỉ là “phiên bản tưởng tượng” mà
Muhammad đã coppy của các tôn giáo khác và cố tình làm khác đi cho nổi hơn mà
thôi. Vì thế, tôi hoàn toàn không thể tin Kinh Koran là của Thiên Chúa –
Muhammad và cũng không hề tin Muhammad là sứ giả cuối cùng của Thiên Chúa. Theo
tôi, qua những sự kiện về Hồi giáo, nhất là cái chết của
Muhammad thì không có “vấn đề giải thoát” trong Hồi giáo. Tôi phải khen
Muhammad về trí tưởng tượng của ông (đã sáng tác kinh Koran), về tài quân sự
của ông đã chiến thắng nhiều đối thủ, nhưng tôi sợ hãi ông vì ông đã là nguyên
nhân của quá nhiều cái chết đau thương, vô tội và chuyện khinh miệt phụ nữ của
Hồi giáo là không thể tha thứ.
THAY KẾT LUẬN
Trong
bộ sách “Dẫn luận về tôn giáo” (Intro duction to the studies of
Religion) do
Nhà xuất bản Oxford University Press, năm 2016, có đề cập về năm tôn giáo: Kitô
giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo và Ấn Độ giáo. Mỗi tôn giáo do một soạn
giả riêng và dịch giả cũng thế. Đọc xong cả bộ sách này, tôi thấy buồn và thất
vọng, nhất là về cuốn “Dẫn luận về Kitô giáo” do Linda Woodhead soạn. Đọc cuốn
sách của bà viết về Kitô giáo mà tôi có cảm tưởng như bà viết về một tổng công
ty nào đó với vị Tổng giám đốc tài năng và rất con người là Đức Giêsu Kitô. Tôi
đồng thời nhận ra rằng, bà chẳng hề có đức tin và lòng yêu mến đối với Ngài, là
Đấng cứu độ quyền năng cao cả và vô cùng nhân hậu – theo đó, yếu tố nền tảng để
Kitô giáo phát triển qua hơn hai ngàn năm nay chính là tình yêu và quyền năng
siêu việt của Đức Kitô: vị thủ lãnh và là đầu của Giáo hội Công giáo; khi lên mươi
hai tuổi đã có khả năng và ý thức sứ vụ của mình từ Chúa Cha (Lc 2,49);
“cả gan” xây Giáo hội trên “viên đá tảng Phêrô” (là Tông đồ vừa kém cỏi vừa
nhút nhát đã chối Ngài ba lần) và còn khẳng định rằng, dù quỷ ma cũng không thể
phá nổi (Mt 16,18).
Từ
hơn hai ngàn năm qua, xảy ra biết bao cuộc bách hại Giáo hội của các chế độ
quân chủ, độc tài… thật dữ dội và dã man, với con số các vị tử đạo là hàng
triệu người, cùng bao nhiêu thánh đường và cơ sở tôn giáo bị trưng dụng hoặc bị
đốt phá. Nhưng vô số cơn sóng dữ đã không thể vùi dập được Giáo hội của Ngài –
và hiện nay người có uy tín nhất thế giới là ai - nếu không phải là vị Giáo
hoàng Rôma – soạn giả khá thiên vị về các giáo phái Tin lành, Anh giáo về những
điều bà đồng cảm với họ và bà cũng không hề cảm nhận được những “nỗi đau buồn”
lớn của Giáo hội Công giáo về các cuộc đại ly giáo (do các yếu tố con người) và
cố gắng của Giáo hội để tái tạo sự hiệp nhất Giáo hội theo ý nguyện của chính
Đức Kitô. Có lẽ bà đã đọc và quan sát Giáo hội Công giáo từ xa, nên bà không có
được “cái nhìn của đức tin” khiến bà không thể cảm xúc sâu xa, rung động về
Đấng Cứu độ vô cùng nhân hậu và kỳ diệu là Đức Kitô Giêsu, Đấng Cứu độ duy
nhất. Do vậy mà khi đọc “Dẫn luận về Kitô giáo” của bà, tôi thấy như mình vào
nhà hàng nổi tiếng “Oxford Univercity Express” để ăn một món ăn không có gia vị
gì cả. Đáng tiếc thay!
Bài
viết chắc chắn còn hạn chế và nhiều thiếu sót, xin coi đây là một đóng góp nhỏ
để chia sẻ về một chủ đề lớn mà người viết thì lại nhỏ bé thôi ạ. Cảm tạ!
Đăng nhận xét