MỞ ĐẦU
Khi niên lịch Phụng vụ bước sang mùa Vọng, một năm Phụng vụ mới bắt
đầu. “Mùa Vọng” trong tiếng Việt được dịch từ chữ “Adventus” trong tiếng
La-tinh và có gốc Hy-lạp là “παρουσία”. Trong văn hóa
Hy-lạp, παρουσία thường áp dụng cho việc các vua chúa đi thăm dân chúng, hay
đôi khi cũng nói tới việc các thần linh hạ phàm trong các buổi tế tự của dân.
Sang tiếng La-tinh cũng vậy, Adventus (tiếng Anh: Advent; tiếng Pháp: Avent) có
nghĩa là việc đến, sự đến. Mùa Vọng có hai ý nghĩa: 1/ Tưởng nhớ việc Ngôi Hai
hạ phàm qua biến cố nhập thể, đã xảy ra cách đây hơn 2021 năm; 2/ Hướng tới
ngày quang lâm, tức là Đấng Cứu Thế sẽ đến lần thứ hai để hoàn tất công trình
cứu độ, con người được giải thoát khỏi mọi âu lo, tội lỗi, đau khổ, tuyệt vọng…
và được đưa về chốn hạnh phúc đời đời.
Các cử hành Phụng vụ chính thức trong mùa Vọng đều xoay quanh hai
trục chính này. Cách riêng nơi Thánh lễ, các lời Tiền tụng mùa Vọng và mùa
Giáng sinh càng cho thấy rõ các ý nghĩa ấy. Bài viết này sẽ đề cập đến ý nghĩa
tạ ơn trong các lời kinh Tiền tụng mùa Vọng và mùa Giáng sinh như một nỗ lực
làm sáng lên các ý nghĩa tạo dựng, nhập thể và cứu độ của Thiên Chúa. Bài viết
gồm hai phần chính: phần thứ nhất khái quát về các phần của kinh Tiền tụng và ý
nghĩa của nó, phần thứ hai sẽ đi vào phân tích ý nghĩa tạ ơn trong các kinh
Tiền tụng mùa Vọng và mùa Giáng sinh.
I. CÁC PHẦN CỦA KINH TIỀN TỤNG VÀ Ý NGHĨA
Có thể có người sẽ cho
rằng, praefatio được gọi là “kinh Tiền tụng” vì
được đọc lúc khởi đầu Kinh nguyện Thánh Thể, một lời kinh tuyệt đẹp và là tột
đỉnh của toàn bộ việc cử hành[1]. Suy nghĩ này chưa chuẩn xác vì kinh Tiền tụng cũng nằm trong
Kinh nguyện Thánh Thể. Trong tiếng La-tinh, praefatio xuất phát từ chữ prae-fari
mang nghĩa là “tuyên xưng trước mặt”. Cũng vì thế mà ban đầu, toàn bộ Kinh
nguyện Thánh Thể được gọi là praefatio. Thánh Tôma Aquinô gọi kinh Tiền
tụng là phần của sự thánh hiến, được dành riêng để khơi lên lòng sùng mộ của
người tín hữu[2]. Thật vậy, Kinh Tiền tụng là phần đầu của Kinh nguyện Thánh Thể,
có ý nghĩa đánh thức cộng đoàn, nhất là khi đứng, để giúp họ tập trung vào mầu
nhiệm cực thánh đang cử hành. Mặt khác, trong tương quan đối thần, kinh Tiền
tụng nói lên lời tạ ơn mà toàn thể dân thánh dâng lên Thiên Chúa qua vị chủ tế.
Chúng ta biết rằng,
Sách lễ Rôma ấn bản mẫu III (2002) đã thêm nhiều mẫu Tiền tụng để các lời tạ ơn
trong Kinh nguyện Thánh Thể được biểu lộ rõ ràng hơn, và cũng để làm nổi bật
các khía cạnh khác nhau của mầu nhiệm cứu độ. Tạ ơn là tâm tình quan trọng bậc
nhất trong Thánh lễ và cộng đoàn sẽ tiếp tục tạ ơn trong suốt cuộc đời như một
Thánh lễ nối dài. Lời tạ ơn gắn liền với thân phận con người, một thụ tạo được
Chúa dựng nên và chỉ trưởng thành nhờ ân sủng của Người.
Có thể phân chia kinh
Tiền tụng thành ba phần: mở đầu là những lời đối đáp: “Hãy nâng tâm hồn lên…
thật là chính đáng”; tiếp đến là lời cầu nguyện của vị chủ tế; và phần cuối
cùng là kinh Sanctus.
1. Những lời đối
đáp
Ngay từ những lời đối
đáp đầu tiên, ý nghĩa tạ ơn đã được nêu rõ. Linh mục mời gọi cộng đoàn nâng tâm
hồn lên tới Chúa, tức là hướng mọi sự chú ý vào Đấng mà cộng đoàn chuẩn bị dâng
lời tạ ơn. Thật vậy, cộng đoàn tín hữu thường bị phân tâm chia trí vì nhiều lý
do lớn nhỏ trong cuộc sống; và lời mời gọi của vị chủ tế thức tỉnh cộng đoàn,
để họ sốt sắng hơn và để lời tạ ơn mà họ sắp dâng lên được trọn vẹn hơn. Mặt
khác, chính vị chủ tế cũng được nhắc nhở rằng, ngài không được nghĩ đến điều gì
khác ngoài Thiên Chúa khi bước vào phần cực trọng của Thánh lễ[3].
2. Lời nguyện của
chủ tế
Tiếp đến, lời cầu nguyện
của vị chủ tế cho thấy ý nghĩa hay lý do của những lời tạ ơn. Trong phần này,
có những lời đọc thay đổi theo từng ngày mùa, và cũng có thể tạm chia thành ba
phần nhỏ:
Phần trước tiên của lời
cầu nguyện luôn bắt đầu bằng biểu thức “Vere dignum et iustum est” (thật
là chính đáng và phải đạo). Cảm tạ Chúa là điều “chính đáng và phải đạo”, vì đó
là “bổn phận của chúng con và ơn cứu độ của chúng con”. Thật vậy, mọi sự trong
đời đều có thể được nhìn với lòng biết ơn, dù là hạnh phúc hay khủng hoảng.
Đừng quên rằng, mỗi cuộc khủng hoảng đều là một nguồn sự sống. Mỗi hoàn cảnh là
một ân ban từ trời, đặc biệt những hoàn cảnh mà trong đó con người trải nghiệm
những bất lực và giới hạn của mình, những sự phê bình và chỉ trích. Thiên Chúa
cho phép xảy ra đau khổ bởi vì Người biết điều Người sẽ thực hiện “vào ngày thứ
ba”. Như vậy, tạ ơn Chúa là một thứ công bình hoàn hảo, là điều xứng đáng nhất
và là bổn phận tối hậu của các tín hữu. Đó cũng là trọng tâm mối liên hệ giữa
nhân loại và Thiên Chúa.
Cộng đoàn tạ ơn Chúa ở
giây phút hiện tại, trong sự nối kết với quá khứ và tương lai. Cộng đoàn nhìn
lại quá khứ với tâm tình biết ơn vì những ân ban đã lãnh nhận, dù âm thầm hay
nổi nang. Nhưng cộng đoàn không dừng lại ở những lời trên môi miệng mà hướng
tới sứ mạng phải thắp lên cái gì mới, tức là làm lan tỏa ân ban đã lãnh nhận
trong tương lai. Cái mới ấy sẽ biểu hiện thế nào thì điều đó tùy thuộc vào sứ
mạng riêng của mỗi người, nhưng tiên vàn, sự hiện hữu của mỗi cá thể đã là điều
độc đáo, duy nhất và mới mẻ. Thật vậy, khi một con người ra đời thì đã có điều
gì đó mới mẻ được bắt đầu trên thế giới, và vì thế họ có khả năng làm cho Chúa
Kitô hiện diện theo cách mới mẻ và độc đáo mà chưa ai từng diễn tả và chẳng ai
sẽ có thể diễn tả được. Đó chính là ý nghĩa sâu xa nhất của cuộc đời người Kitô
hữu. Theo Hannah Arendt, điều mới mẻ “luôn tỏ ra dưới hình thức phép lạ”[4], và cộng đoàn dâng lời tạ ơn vì “phép lạ” mới mẻ ấy.
Phần thứ hai trong lời
cầu nguyện của vị chủ tế là phần thay đổi nhiều nhất, nhưng hầu như luôn bắt
đầu bằng giới từ La-tinh “per”, bởi vì. Phần này liệt kê những lý do
thật sự đúng đắn và phải đạo để cộng đoàn tạ ơn Chúa. Những lý do ấy thường
xoay quanh chủ đề tạo dựng và cứu chuộc. Bài viết sẽ đi sâu vào phần này ở mục
II.
Phần cuối tựa như một
lời tái khẳng định tính đúng đắn và phải đạo của những lời tạ ơn. Cộng đoàn
dâng lời tạ ơn Thiên Chúa không phải với tính cách riêng tư nhưng “cùng với
triều thần thiên quốc”, nghĩa là có tính vũ hoàn, không còn phân biệt không
gian và thời gian. Khoảnh khắc tạ ơn ấy, quá khứ và hiện tại, trần gian – thiên
đàng và nơi thanh luyện, tất cả đều cùng nhau chúc tụng vinh quang Thiên Chúa.
Kinh Sanctus, Thánh – Thánh –
Thánh, là một bài hát ngợi khen. Với bài ca này, người tín hữu được cùng với
các thiên thần và các thánh ngợi khen Thiên Chúa. Cả hai phần của kinh Sanctus
đều nhấn mạnh đến điểm này: trước hết là những lời cầu nguyện của các thần
Sêraphim trong Is 6,3, và sau là lời cầu nguyện của đám đông dân chúng
khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem trong Mc 11,9. Như thế, kinh Sanctus
kết hợp lời chúc tụng của cả thượng giới lẫn hạ giới. Trong kinh này, có hai lý
do để tạ ơn: “trời đất đầy vinh quang Chúa” và việc “Chúa đến”. Lời đầu tiên
nhắc nhớ chính Thiên Chúa đã sáng tạo nên muôn vật muôn loài, còn lời thứ hai
ám chỉ ơn cứu độ mà Người dành cho vũ hoàn sẽ được thành toàn trong ngày Đức
Giêsu Kitô quang lâm.
II. Ý NGHĨA TẠ ƠN
TRONG CÁC KINH TIỀN TỤNG MÙA VỌNG VÀ MÙA GIÁNG SINH
1.
Kinh Tiền tụng mùa Vọng
Khi ngự đến lần
thứ nhất, mặc lấy thân xác yếu hèn, Người đã thực hiện hồng ân mà Chúa dự định
từ xưa và mở đường cứu độ đời đời cho chúng con: để khi Người đến lần thứ hai
trong uy linh, nhờ hồng ân bấy giờ được tỏ hiện, chúng con sẽ lãnh nhận điều Chúa
đã hứa mà ngày nay chúng con đang tỉnh thức vững dạ đợi chờ.
Kinh Tiền tụng này diễn tả toàn bộ mầu nhiệm
cứu độ của Đức Giêsu Kitô qua hai lần ngự đến: biến cố nhập thể trong dòng lịch
sử và biến cố quang lâm trong thời sau hết này.
Ơn cứu độ đã được Thiên Chúa dự định từ ngàn xưa, và nó đã được
khởi sự nơi Đức Kitô qua cuộc nhập thể. Có thể nói, hồng ân mà Chúa dự định từ
ngàn xưa cũng chính là hồng ân cứu độ đời đời cho nhân loại. Như thế, qua kinh
Tiền tụng này, Giáo hội nhắc nhớ về biến cố ngự đến lần thứ nhất của Chúa. Đó
là một biến cố có thật trong dòng lịch sử chứ không phải huyền thoại.
Ở đây, bản văn tiếng Việt chưa diễn tả hết sự thâm sâu của mầu
nhiệm nhập thể, bởi vì động từ assumere trong bản văn La-tinh cần được
dịch là “đảm nhận” thay vì “mặc lấy”. Đức Kitô không phải mặc lấy thân xác phàm
nhân tựa như một chiếc áo bề ngoài mà không có thực chất bên trong, nhưng Người
thật sự nhận lấy thân xác của nhân loại, trở nên một con người thật và sống
giữa thế gian. Mầu nhiệm ấy thật cao siêu và có thể được xem là độc đáo của
Kitô giáo: Thiên Chúa không phải một vị thần ở xa con người nhưng thật sự đã
đến cư ngụ giữa con người, và người ta sẽ không tìm thấy một vị Thượng đế nào
trong các tôn giáo khác có cách thức yêu thương con người như thế.
Từ biến cố ngự đến lần thứ
nhất, người tín hữu hy vọng và mong chờ biến cố ngự đến lần thứ hai: Quang lâm.
Đó chính là niềm hy vọng hồng phúc cho những người tin, vì họ sẽ nhận được lời
Chúa hứa. Lời hứa đó là ơn cứu độ, là hạnh phúc viên mãn dành cho những ai kiên
tâm bền chí. Như thế, cộng đoàn phụng vụ tạ ơn Chúa vì được sống trong niềm hy
vọng hồng phúc ấy.
Hai ý nghĩa của kinh Tiền tụng này cũng cho thấy hai ý nghĩa chính
của mùa Vọng. Thật vậy, mùa Vọng, Adventus (sự đến), không chỉ là kỷ
niệm biến cố nhập thể của Chúa Con qua lễ Giáng sinh mà còn là niềm hy vọng về
ngày Quang lâm của Người.
Người là Ðấng
các tiên tri loan báo, Ðức Mẹ đồng trinh đã cưu mang với tình yêu khôn tả,
thánh Gioan đã loan tin sắp đến và chỉ cho thấy khi Người xuất hiện. Người là
Ðấng làm cho chúng con hân hoan đón nhận mầu nhiệm Giáng sinh; để khi Người đến
sẽ thấy chúng con đang tỉnh thức và hân hoan ca tụng Người.
Kinh Tiền tụng này giải thích Đấng nhập thể là ai. Thật vậy, biến
cố Ngôi Lời nhập thể đã được các ngôn sứ tiên báo trong Cựu ước. Chính Gioan Tẩy
giả, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước, cũng tiên báo về điều này. Ở đây, kinh
Tiền tụng nhắc đến Gioan Tẩy giả ra như muốn cho thấy rằng, nếu cuộc đời của
Gioan Tẩy giả nổi tiếng đến độ nhiều người nghĩ ngài là Đấng Cứu Thế, thì Ngôi
Lời nhập thể, vị cứu tinh đích thật, sẽ còn cao trọng hơn ngài biết chừng nào.
Ngay chính việc hạ sinh của Ngôi Lời đã là một điềm lạ: hạ sinh bởi một người
phụ nữ đồng trinh.
Ý kế tiếp của kinh Tiền tụng cho thấy sự tiếp nối
của hai cuộc viếng thăm. Nhân loại đã hân hoan đón nhận mầu nhiệm nhập thể
trong dòng lịch sử, và Giáo hội qua mọi thời vẫn không ngừng cử hành biến cố ấy
hằng năm bằng tất cả lòng tôn kính của mình. Niềm vui Giáng sinh sẽ được tiếp
nối bằng sự tỉnh thức và đợi chờ, bởi lẽ những ai đã nhận ra Thiên Chúa nhập
thể thì cũng sẽ không ngừng chờ đợi Người quang lâm để hoàn tất những gì Người
đã hứa. Niềm vui của nhân loại chỉ nên trọn trong Đức Giêsu Kitô quang lâm.
Như thế, cộng đoàn phụng vụ qua mọi thời dâng lời tạ ơn vì họ hiểu
rằng, những ân ban họ đã nhận lãnh không phải ngẫu nhiên, nhưng thật sự đã có
một vị Thiên Chúa chân thật và duy nhất đã đến với họ và nhận lời họ. Vị Thiên
Chúa ấy là niềm hy vọng của họ, không phải để được nhậm lời ở những lần cầu xin
tiếp theo, nhưng là một niềm hy vọng được cứu độ, hy vọng hồng phúc, hy vọng
đích thật.
2.
Kinh Tiền tụng mùa Giáng sinh
Vì nhờ mầu
nhiệm Ngôi Lời nhập thể, một luồng sáng mới từ vinh quang Chúa chiếu rọi vào
tâm trí chúng con, để khi nhận biết Thiên Chúa xuất hiện hữu hình, và nhờ Người
lôi cuốn, mà chúng con yêu mến Ðấng vô hình.
Ngôi Lời nhập thể đã
chiếu một luồng sáng mới từ thượng giới vào trần gian. Luồng sáng ấy cũng chính
là vinh quang của Ngôi Hai Thiên Chúa. Đó là luồng sáng của ơn cứu độ, mở ra
một viễn tượng mới cho nhân loại. Trước hết, nhân loại sẽ được mở trí để đón
nhận một nền giáo huấn mới của Đức Giêsu, kiện toàn lề luật Môsê trong Cựu ước.
Thật vậy, như chúng ta sẽ thấy trong cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu, không phải
ai cũng dễ dàng đón nhận các giáo huấn của Người, chưa kể có những kẻ chống
đối, còn nhà cầm quyền Do-thái giáo thì luôn tìm cách bách hại Người. Chỉ có
những ai được Thiên Chúa soi sáng cho hiểu và có tấm lòng mở ra với luồng sáng
từ thượng giới ấy thì mới có thể đón nhận lời của Đức Giêsu.
Luồng
sáng ấy cũng mở trí cho nhân loại, để họ yêu mến một Thiên Chúa vô hình qua
hình ảnh Hài nhi bé nhỏ trong máng cỏ Bêlem. Không dễ để nhìn ra một Thiên Chúa
toàn năng trong hình hài một trẻ thơ nghèo hèn. Ý định của Thiên Chúa khác hẳn
với suy nghĩ của con người, và chỉ những ai nhận lãnh luồng sáng thần linh thì
mới có thể hiểu được.
Như thế, phụng vụ Hội
thánh dâng lời tạ ơn Chúa vì đã nhận được luồng sáng thần linh để nhờ đó mà nắm
bắt các mặc khải cao siêu. Luồng sáng từ vinh quang Thiên Chúa dẫn đưa Hội thánh
đến một chân trời mới: chân trời của tình yêu mà không còn nệ luật, chân trời
của niềm hy vọng được giải thoát.
Trong ngày lễ
mừng mầu nhiệm đáng kính này, Người là Ðấng vô hình, đã xuất hiện hữu hình giữa
chúng con, và Người vốn được sinh ra trước mọi thời gian, nay bắt đầu hiện hữu
trong thời gian; để khi làm cho mọi loài sa ngã được trỗi dậy trong Người,
Người phục hồi tình trạng nguyên tuyền cho vạn vật, và dẫn đưa con người lầm lạc
trở về quê trời.
Nếu kinh Tiền tụng I
diễn tả ý nghĩa: nhân loại sẽ yêu mến Đấng vô hình nhờ việc nhận biết Thiên
Chúa xuất hiện hữu hình trong cuộc Nhập thể và được Người lôi cuốn, thì kinh
Tiền tụng này khẳng định rõ một Thiên Chúa vô hình nay đã xuất hiện hữu hình
giữa trần gian. Ở đây, cặp tính từ đối lập visibilis
và invisibilis đúng hơn cần được dịch là “có thể
nhìn thấy” (khả kiến) và “không thể nhìn thấy” (bất khả kiến). Thật vậy, nếu
Thiên Chúa là Đấng không ai có thể nhìn thấy được, thì đến thời sau hết này,
chính Người đã tự tỏ lộ mình ra để nhân loại có thể nhìn thấy.
Lấy lại tư tưởng của
thánh Augustinô, kinh Tiền tụng khẳng định Ngôi Lời “vốn được sinh ra trước mọi
thời gian, nay bắt đầu hiện hữu trong thời gian”. Tin mừng Gioan còn đi xa hơn
nữa khi khẳng định: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên
Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa.” (Ga 1,1). Như thế, Ngôi Lời vốn vượt trên thời
gian thì nay lại chịu sự giới hạn của thời gian qua việc đảm nhận một bản tính
nhân loại vào mình.
Thế giới này được tạo
thành đã là một ân ban, và mỗi giây phút đều là những món quà quý giá đến từ
Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự hạ cố (sinkatábasis) của Thiên Chúa trong cuộc
nhập thể lại càng là món quà vô giá hơn, vì qua đó, Người mặc khải những mầu nhiệm
cao siêu, và sâu xa hơn là để diễn tả một tình yêu lớn lao Người dành cho nhân
loại. Kinh Tiền tụng đưa ra ba mục đích: nâng loài người sa ngã lên, phục
hồi tình trạng nguyên tuyền cho vạn vật và dẫn đưa con người lầm lạc trở
về quê trời. Thật vậy, nếu vì tội Ađam mà nhân loại đánh mất sự công chính
nguyên thủy, tội lỗi đi vào trần gian và dẫn đến cái chết, thì nay Ngôi Lời
nhập thể như một Ađam mới sẽ phục hồi nhân loại và nâng người tín hữu lên một
tầm cao mới: trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa nhờ được thông dự vào địa vị
trưởng tử của Đức Kitô. Như thế, Ngôi Lời nhập thể không chỉ phục hồi bản tính
sa ngã của nhân loại, mà còn ban cho họ một địa vị danh giá không chi sánh
bằng.
ü Kinh Tiền tụng
III:
Nhờ Người, mà hôm nay đã bừng sáng lên cuộc trao
đổi làm cho chúng con được đổi mới. Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận
mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết không những được hưởng vinh
dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống
muôn đời.
Kinh Tiền tụng mẫu ba
của mùa Giáng sinh làm nổi bật một “cuộc trao đổi” không cân xứng: một bên là
Thiên Chúa hạ cố đảm nhận một thân xác khả tử, còn bên kia là loài người khả tử
được sự sống muôn đời. Đó là cuộc trao đổi kỳ diệu trong mầu nhiệp Ngôi Lời
nhập thể, có lợi cho con người.
Niềm
vinh dự vĩnh cửu ở đây là niềm vinh dự của một thụ tạo được chính Đấng sáng tạo
ghé mắt đến, và thậm chí nâng lên cho làm con cái của Người. Sự sống muôn đời
được ban tặng cũng chính là niềm vinh dự lớn lao. Các giáo phụ, nhất là Clêmentê
Alexandria, Grêgôriô Nazienzênô, Athanasiô… đã diễn tả rất hay mầu nhiệm cao
siêu này qua khẳng định: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”.
Kinh Tiền tụng này cũng
mời gọi cộng đoàn phụng vụ biết đặt cuộc đời mình vào bàn tay quan phòng của
Chúa để được thông phần vào niềm vinh dự vĩnh cửu. Tuy nhiên, đặt cuộc đời vào
bàn tay Thiên Chúa và sẵn sàng tạ ơn trong mọi hoàn cảnh thì không hề dễ dàng.
Nhưng đó lại là đỉnh cao của lời tạ ơn, bởi được xây móng vững vàng bằng đức
tin, đức cậy và đức mến. Thiên Chúa luôn muốn điều hạnh phúc cho con người, chỉ
có điều tư tưởng hiện tại của họ không thể hiểu hết ý định bền vững ngàn đời
của Người. Cho nên, con người cần được đổi mới toàn diện để có khả năng thấu
hiểu những mầu nhiệm cao siêu.
Như thế, lời tạ ơn mà
cộng đoàn phụng vụ dâng lên Thiên Chúa quả thật chính đáng và phải đạo. Hồng ân
mà nhân loại nhận lãnh không chỉ nhưng không, mà còn bất cân xứng về phía Thiên
Chúa. Sự bất cân xứng ấy chỉ có thể được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
ü Kinh Tiền tụng
Lễ Hiển linh:
Vì hôm nay Chúa đã mặc khải chính mầu nhiệm cứu độ chúng con để soi sáng
muôn dân, vì khi Người xuất hiện trong bản tính phải chết của chúng con, Chúa
đã dùng vinh quang mới bất diệt của Người mà phục hồi chúng con.
Nếu
kinh Tiền tụng mẫu ba của mùa Giáng sinh nêu bật “cuộc trao đổi” không cân
xứng, thì kinh Tiền tụng lễ Hiển linh nêu rõ mầu nhiệm được mặc khải là “mầu
nhiệm cứu độ”. Ngôi Lời nhập thể mang ơn cứu độ vào trần gian và chính Người là
Thiên Chúa cứu độ. Người là ngọn đèn soi sáng muôn dân. Hình ảnh ba vị đạo sĩ
phương Đông nhận ra ngôi sao lạ để đến thờ bái Chúa đủ để cho thấy điều đó.
Nhưng
ơn cứu độ của Thiên Chúa không phải ơn ban một chiều mà không cần sự đáp trả
của con người. Thiên Chúa không áp đặt nhân loại. Con người có tự do để đáp
trả, hoặc không, trước ân ban này. Tự do là món quà vô giá, và nhân loại không
chỉ có quyền lợi mà còn có nghĩa vụ phải sử dụng tự do của mình, đặc
biệt trong một thế giới hiện nay vốn đang khống chế họ. Không ai được phép biến
thành một con “robot”, không có khuôn mặt cũng chẳng có chi độc đáo. Tuy nhiên,
để được giải thoát, nhân loại buộc phải ý thức sự phong phú của cuộc sống con
người và tìm ra những con đường dẫn đến điểm “trở nên người tốt hơn nữa” qua
việc đón nhận ân ban của Chúa, chứ không phải là những hữu thể choáng váng, sợ
sệt, ủ rũ.
Qua
việc đảm nhận một thân xác khả tử, Thiên Chúa cho thấy linh hồn và thể xác con người
đều có giá trị của nó. Thân xác không phải một thứ gì đó xấu xa mà con người
phải loại trừ. Sự phục hồi mà Ngôi Lời mang đến có cả sự phục hồi thể xác lẫn
tâm hồn. Giáo hội dạy rằng, con người chỉ trọn vẹn khi có đủ xác và hồn, và vào
ngày sau hết, thân xác sẽ sống lại để hợp với linh hồn bất tử mà hưởng sự sống
muôn đời. Như vậy, lời tạ ơn mà cộng đoàn phụng vụ dâng lên Thiên Chúa không
chỉ là những tình cảm trong tâm hồn mà còn phải kết hợp với những hành động nơi
thân xác, tức là với tất cả con người của mình, tất cả những gì mình có.
KẾT
LUẬN
Tóm lại, các lời Tiền tụng mùa Vọng và mùa Giáng sinh làm nổi bật
mầu nhiệm tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Những mầu nhiệm ấy bao trùm
nhân loại và không một giây phút nào con người nằm ngoài bàn tay quan phòng của
Người. Cha Timothy Radcliffe từng nói, “mọi sự tốt lành đều là ân ban, và lời
cầu nguyện mở mắt tôi trước ân sủng”[5]. Thật
vậy, mỗi bước chân trong cuộc đời người tín hữu đều có thể được nhìn dưới viễn
cảnh tạ ơn, vì không một giây phút nào họ thôi lãnh nhận ân sủng. Ngay cả sự
hiện diện của họ trong từng khoảnh khắc, từng nhịp thở, cũng đã là một hồng ân
rồi. Cơn đại dịch Covid-19 hiện nay cho thấy rõ một nhịp thở nhỏ cũng quan
trọng như thế nào.
Như thế, sở dĩ kinh Tiền tụng là một phần quan trọng của Thánh lễ
vì nó khơi dậy lòng sùng kính của cộng đoàn, khơi dậy tất cả những ân ban của
Thiên Chúa trong suốt dòng lịch sử nhân loại và dòng lịch sử của mỗi cá nhân.
Qua kinh Tiền tụng, cộng đoàn không chỉ được mời gọi dâng lời tạ ơn trong Thánh
lễ mà còn tiếp nối trong suốt cuộc đời mình. Thật vậy, chỉ khi biết tạ ơn và
ngợi khen, con người mới nhận thức rõ mình là ai: nếu chúng ta có thể trở nên
cái mà chúng ta phải là, tức là căn tính của mỗi người, thì đó là nhờ vào Thiên
Chúa và tình yêu của Người. Và chỉ khi nào nhận thức rõ về thực tế này thì
chúng ta mới có thể đến gần Thiên Chúa hơn.
Tài liệu tham khảo
Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo
(1992).
Bản dịch của UBGLĐT-HĐGMVN.
Hà Nội: Tôn giáo, 2010.
Sách lễ Rôma. Dg. UBPT-HĐGMVN,
in lần thứ
2, 1992.
Đức Phaolô VI. Tông hiến
Missale Romanum
(1969).
Arendt, H.. La
condición humana.
Barcelona:
Paidós, 1993.
Martos, Joseph. Cửa vào thánh thiêng.
Dg.
Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông, CSsR.
Hà Nội:
Tôn giáo, 2015.
Radcliffe, Timothy,
O.P. Tại sao đi Lễ?
Dg. Phạm
Hoàng Dũng, O.P..
Tp. HCM: Học viện Đa Minh, 2008.
Sri, Edward. Tìm
hiểu Thánh lễ.
Dg. Trần
Công Thượng, O.P.
Tp. HCM:
Học viện Đa Minh, 2011.
Phan Tấn Thành, O.P.. Cử
hành Bí tích Tình yêu
(Đời sống
Tâm linh tập X).
Tp. HCM:
Phương Đông, 2017.
Phan Tấn Thành, O.P.. Niềm
hy vọng hồng phúc
(Đời
sống Tâm linh tập XIV).
Hà Nội:
Tôn giáo, 2016.
[1] X. QCTQSLRM, số 30.
[2] ST, III, q.83, a.4, res.
[3] X. St. Cyprian, De dominica oratione,
c. 31.
[4] H. Arendt, La condición humana (Barcelona: Paidós, 1993), p.
202.
[5] Timothy Radcliffe,
O.P., Tại sao đi Lễ?, dg. Phạm Hoàng Dũng, O.P.
(Tp. HCM: Học viện Đa Minh, 2008), tr. 152.
Đăng nhận xét