Đau Khổ: Một Thử Thách Đức Tin

 

Ambrôsiô Mai Quang Nghĩa,
Đan viện Biển Đức Thiên Phước

DẪN NHẬP

Nhân loại đang nếm trải cơn đại dịch Covid-19, đây là một nỗi đau kinh hoàng, làm đảo lộn tất cả cuộc sống, đẩy bao người vào cuộc khủng hoảng đức tin. Nhân biến cố này, chúng ta cùng nhau suy tư về đau khổ. Đau khổ là một huyền nhiệm mà bất cứ ai khi suy nghĩ về thánh ý Thiên Chúa cũng đều chạm phải. Thiên Chúa là Đấng trọn hảo và quan phòng, tại sao Ngài lại đế cho sự dữ, sự đau khổ xảy ra trong thế gian này? Nếu Thiên Chúa yêu thương con người tại sao Ngài lại đế cho sự dữ, sự đau khổ xảy đến cho con người? Vì thế có thế nói đau khổ là thước đo lòng tin của người Kitô hữu. Vậy người Kitô hữu phái có thái độ nào khi đứng trước đau khổ. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô có lần đã nói “đề tài đau khổ là một đề tài phố quát gắn liền với con người ở khắp mọi nơi. Có thể nói đề tài này có mặt thường xuyên cùng với con người trên khắp thế giới, và vì thế cần phái quan tâm đến”.[1]

Thật vậy, hết mọi người dù nam hay nữ, già hay trẻ, giàu sang hay ghèo hèn, có tôn giáo hay không có tôn giáo, ở địa vị cao hay địa vị thấp trong xã hội, đều phải nếm mùi đau khổ. Và Đức Hồng y Veuillot đã từng nói về đau khổ trong lúc ngài bị đau bệnh rằng:

Chúng ta có đủ tài đế nói rất hay về đau khổ. Và bản thân tôi cũng từng nói về đau khổ với tất cả nhiệt thành. Nhưng bây giờ tôi xin hãy bảo các linh mục đừng nên nói gì về đau khổ cả, chúng ta chẳng biết đau khổ là gì, tôi chỉ biết khóc thôi.[2]

Ai đã trải qua những đau khổ sẽ thấy câu nói trên đây quả rất đúng. Nói về đau khổ và đau khổ không đi đôi với nhau. Bởi vì đau khổ là khi trong ta có một cái gì đó bất ngờ xuất hiện, một cái gì đó khác với điều lâu nay ta vẫn nghĩ. Quả thật đau khổ là vấn đề muôn thủơ của con người mà “bất cứ tôn giáo nào cũng đều cố gắng giải đáp cho vấn đề đau khổ, và mọi người cũng tùy theo cách chọn lựa cho mình một thái độ xây dựng trên truyền thống tôn giáo hoặc một ý thức hệ nào đó. Dẫu biết rằng đã mang thân phận làm người là mang lấy thân phận đau khổ”.[3] Khi đối diện với đau khổ, có người nổi loạn, có người cam chịu, có người buông xuôi, và cho đời là bể khổ.

Tuy nhiên nhờ mặc khải của Thiên Chúa và ánh sáng đức tin soi dẫn người Kitô hữu luôn ý thức rằng đau khổ thuộc bản tính của con người, là một trong những hậu quả của tội nguyên tổ, dẫn đến sự mỏng dòn, yếu đuối, tội lỗi mà con người đã, đang và sẽ gây ra cho mình và cho nhau. Đó là một thực tại khó lòng thoát khỏi, có chăng thì cũng chỉ là làm giảm bớt khi người ta biết đón nhận, cảm thông và chia sẽ cho nhau. Con người sống mầu nhiệm đau khổ trong niềm tin đã là con người ngôn sứ loan báo một đời sống tồn tại ở đời sau.

 Quả thật, đau khổ là một thách đố lớn lao đối với đức tin. Trước đau khổ và bệnh tật con người luôn tỏ ra sợ sệt, mất tinh thần và vì thế khi nói về đau khổ cũng khó khăn như nói về thập giá và cái chết. Từ khi xuất hiện trên mặt đất con người đã chịu đau khổ, đã rống lên lời phạm thượng hay âm thầm cầu nguyện, đã tỏ ra bất lực, tuyệt vọng hay dũng cảm tràn đầy hoan lạc. Đau khổ với con người quả là một mầu nhiệm và người Kitô hữu cũng như người vô thần cũng đều cảm thấy bị lung lạc trước mầu nhiệm này. 

Vậy người Kitô hữu sống mầu nhiệm đau khổ trong niềm tin như thế nào? Đau khổ là một lĩnh vực rộng lớn đã được đề cập đến qua những trang Kinh Thánh cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, đã được các nhà tư tưởng lớn suy tư và trình bày, đồng thời cũng là một thực tại vẫn đang tiếp tục xảy ra hàng ngày với cuộc sống con người. Trong sự thực đó, chúng ta được thôi thúc tìm hiểu, dưới ánh sáng đức tin và theo lời dạy của Giáo hội, để nhận ra ý nghĩa cứu độ của đau khổ. Vì thế, “ĐAU KHỔ: MỘT THỬ THÁCH ĐỨC TIN” là một đề tài người viết muốn phần nào trình bày thái độ cần có của người Kitô hữu trước đau khổ trong cuộc sống. Khi mà các giá trị tôn giáo bị giải thiêng liệu người tín hữu có có thể biến sự phẫn nộ này thành một mầu nhiệm? Nội dung người viết sẽ trình bày trong ba phần, trước tiên là khái quát về đau khổ dưới nhãn quan Kitô giáo, sau đó trình bày những thử thách đức tin mà đau khổ tạo ra trên người tín hữu và thái độ của họ trước đau khổ, cuối cùng trình bày giá trị đau khổ và điểm mục vụ cần thực thi để phục vụ anh chị em đau khổ.

I.     Tổng quan v đau khi nhãn quan Kitô giáo

1.   Khái niệm về đau khổ

Tại sao con người lại đau khổ? Đâu là nguồn gốc, là ý nghĩa của đau khổ nơi con người? - Đó là câu hỏi mà con người đặt ra khi đối diện với đau khổ, sự dữ và cái chết. Khi đau khổ đến gõ cửa mình. Câu hỏi không nhất thiết thành công thức mà ngầm dưới thái độ người ta đương đầu với đau khổ như phản động hay cam chịu, trốn tránh, nguyền rủa hay đối diện với nó. Trong vô số dị biệt của các giải đáp, người ta có thể trích ra ba điển hình nền tảng: Đau khổ như định mệnh, đau khổ như luật sống, đau khổ như hậu quả của lỗi lầm.[4] Nếu đau khổ là định mệnh thì con người làm sao tránh được, còn nếu nó là luật sống, là quy luật thì chúng ta có thể thay đổi được chăng? Và nếu là hậu quả của tội lỗi, là hậu quả từ việc chọn lựa của con người, thì đó là trách nhiệm mà con người phải gánh chịu!

Quả thực khi nói tới đau khổ người ta thường nghĩ gì? Hạn từ đó không phải là quá mơ hồ để mô tả các sự dữ đủ loại có thế xảy đến con người trong cuộc sống. Có thể đau khổ về thể xác, hay đau khổ về tâm lý và ai trong chúng ta lại đã không cảm nghiệm được rằng có những lúc chính những đau khổ lại làm cho chúng ta nhận ra được sự bất toàn của mình trước những cơn đau thế xác, để biết cậy trông vào Chúa hay có khi lại nghi ngờ về tình thương yêu của Thiên Chúa.

Tây phương chịu ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau, trong đó theo truyền thống từ Babilon thì thế giới này được quản trị bởi hai vị thần là thần thiện và thần ác. Và họ coi đau khổ là sản phẩm của thần ác. Bên cạnh đó, truyền thống bắt nguồn từ Hy Lạp lại cho rằng con người như bị vướng mắc trong một mạng lưới định mệnh nghiệt ngã, con người bị nghiền nát dưới bánh xe của đau khổ mà không do con người tạo ra. Các truyền thống  như có một mẫu số chung là quy trách nhiệm đau khổ cho một sức mạnh ở ngoài con người. Cho rằng con người không phải là tác nhân gây ra đau khổ. Trước nỗi đau khổ của con người, thật khó để có được thái độ thích hợp bởi vì đau khổ luôn mang nhiều dạng thức khác nhau. Có thể nói mỗi người mang một nỗi đau khổ khác nhau và vì thế mà sự cảm nhận đau khổ của mỗi người cũng thường khác nhau.

Từ điển Công Giáo giải thích rằng, đau khổ (Dolor, Pain, Douleur, thống khổ) diễn tả nỗi đau về thể xác và khổ về tinh thần. Đau khổ là tình trạng đau đớn, khó chịu mà con người cảm thấy khi sự dữ xuất hiện hay thiếu sự lành. Nguyên nhân gây nên đau khổ là hậu quả của tội nguyên tổ[5], khi con người khước từ Thiên Chúa và không sống theo Lời của Ngài.[6] Tuy nhiên, Đức Kitô - Con Thiên Chúa đã chấp nhận hoàn toàn thân phận con người, kể cả sự đau khổ và sự chết. Qua hình ảnh “Người tôi tới đau khổ”[7] và mầu nhiệm Thập Giá, Đức Kitô đã làm cho đau khổ có một ý nghĩa mới, đó là đau khổ có thể làm cho con người nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu và kết hợp họ vào Cuộc Khổ Nạn sinh ơn cứu chuộc của Người.[8] Đối với một số người tội nguyên tổ là căn nguyên của mọi đau khổ, đối với một số người khác, đau khổ là hình phạt của tội lỗi. Nhưng còn vấn đề đau khổ của những người vô tội? Đức Kitô đã từ chối đồng hóa đau khổ với tội lỗi cá nhân. Người đã không giải thích, lý giải đau khổ. Người đã chấp nhận, chia sẻ và biến đau khổ thành một phương tiện cứu độ và thánh hóa. Cũng như tội lỗi, đau khổ sẽ trở thành sức mạnh nếu được chấp nhận trong sự hiệp thông với Đấng chịu đóng đinh.

Cùng với mọi người khác, người Kitô hữu đấu tranh chống nạn đói, đau khổ và bệnh tật. Nhưng người Kitô hữu biết rằng chiến thắng sẽ không đến với con người ở đời này nhưng trong trời mới đất mới, nơi không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ.[9]

 

2.   Đau khổ trong Kinh Thánh

Kinh Thánh nói gì về đau khổ? Từ những trang đầu tiên của Kinh Thánh chúng ta đã thấy có đau khổ. Điểm khác biệt giữa Kinh Thánh và truyền thống các tôn giáo khác đó là đặt con người vào trọng tâm của đau khổ. Kinh Thánh trình bày con người như một hữu thế có tự do biết suy nghĩ, chọn lựa và đáp trả và như vậy cách nào đó muốn nhắc nhớ với chúng ta là hệ quả của việc đau khổ mà con người phải chịu và Thiên Chúa không phải là tác nhân gây ra đau khổ cho con người, bởi chính Người đã mang lấy những đau khổ của con người đế cứu chuộc con người.

Đau khổ nơi ông Gióp

Qua những trang đầu của Kinh Thánh Cựu Ước ta nhận ra rằng đau khổ đã có từ thủơ ban đầu, từ khi  xuất hiện con người trên mặt đất. Người đàn ông và đàn bà được tạo dựng bởi Thiên Chúa và Thiên Chúa phán với Evà rằng “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén”.[10] Và “với con người Thiên Chúa phán “ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi”.[11] “Trong câu chuyện sa ngã của nguyên tổ Ađam và Evà, dĩ nhiên ta thấy có sự hiện diện của ma quỷ, tuy nhiên Kinh Thánh quy trách nhiệm về tự do của con người, chính con người chọn lựa và gây ra đau khổ cho mình”.[12] Đọc kỹ câu chuyện sa ngã của ông bà nguyên tổ chúng ta thấy Kinh Thánh không nói đến nguồn gốc của đau khổ. Khi Ađam và Evà phạm tội, con rắn đã có đó, sự dữ đã hiện hữu, nhưng Satan không phải là kẻ ngang hàng với Thiên Chúa, nó không phải là nguồn gốc của sự dữ. Đau khổ bởi đâu mà đến? điều này Kinh Thánh không hề cho chúng ta biết. Những gì Kinh Thánh muốn nói với chúng ta về sự sa ngã của nguyên tổ đó là con người đã tự gây ra đau khổ cho mình và cho người khác nên con người phải gánh chịu trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa. Vừa nhận ra trách nhiệm của mình trong đau khổ, lại không biết đau khổ từ đâu mà đến, đó là một thảm kịch của con người mà chúng ta có thế thấy trong suốt lịch sử của dân Israel. Tuy nhiên hình ảnh nổi bật trong Cựu Ước mà mỗi khi nhắc tới đau khổ ta không thể nào không nói tới ông Gióp.

Ông Gióp là người đã được Thiên Chúa ban cho hầu như có đầy đủ mọi thứ ở thế gian, điều mà mọi người hằng mong ước, từ của cái, vợ con, súc vật... Thế nhưng Thiên Chúa đã cho phép Satan đến hành hạ thân xác ông. Thảm kịch đau khổ của ông bắt đầu trải qua từng nấc, từ chiến tranh, tai họa thiên nhiên, sự giết hại lẫn nhau, nhà bị thiêu rụi, con cái bị sát hại và của cái bị tiêu hủy hoàn toàn.[13] Và cao điểm của đau khổ mà ông phải chịu đó là ông bị một căn bênh ung nhọt khắp người, từ bàn chân cho tới đỉnh đầu, ông đã phải ngồi giữa đống tro lấy mảnh sàng mà gãi. Nỗi đau khổ của ông cũng gia tăng khi ông bị ruồng rẫy bới chính những người thân duy nhất, còn lời nào đau khổ cho bằng khi nghe chính vợ ông mắng nhiếc “ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!”.[14] Trước những phán ứng của vợ, ông vẫn hoàn toàn tín thác nơi Đức Chúa, ông nói“ chúng ta nhận điều lành từ Thiên Chúa còn điều dữ lại không biết đón nhận sao”.[15] Như vậy qua hình ảnh đau khổ tột cùng của ông Gióp, chúng ta có thể thấy ông vừa là tiếng kêu than của con người, vừa là tiêu biểu cho thái độ mà Kinh Thánh muốn đề ra cho con người khi đứng trước đau khổ, đó là, chấp nhận trong tinh thần vâng phục và phó thác “Chúa đã cho, Chúa lấy lại, xin chúc tụng danh Chúa”.[16] Thế nhưng để chấp nhận những thực tại đau khổ thì không hề dễ dàng đối với con người bởi tính tự nhiên không ai mong điều đau khổ lại xảy đến với mình. Hơn nữa, sống trong đau khổ mà vẫn còn biết phó thác và hy vọng quả là một mẫu gương cho ta về đức tin. Phó thác và hy vọng là thái độ mà Kinh Thánh đã đề cao qua suốt dòng lịch sử của dân Israel.

Gióp xem sự đau khổ như là một ân huệ của Thiên Chúa. Cũng cần đặt vào khung cảnh của thời bấy giờ đế hiểu được tinh thần của ông Gióp. Ông đã cảm nhận Thiên Chúa như là người có uy quyền, Người nắm giữ quyền thế ban thưởng và xứ phạt, cho sống và cho chết.[17]

Ông quả thật là tấm gương muôn đời cho muôn thế hệ về lòng trung kiên, lòng tin vào Thiên Chúa dù phải chịu nhiều đau khổ, thử thách nặng nề…, chính vì lòng tin yêu vào Thiên Chúa như thế mà Chúa đã khen ngợi ông và đã cho ông được gấp đôi những gì ông đã mất, cũng như chúc phúc cho ông sống thọ thêm 145 năm nữa. Thái độ của ông Gióp tiêu biểu cho những người đau khổ dám đối diện với đau khổ.

Qua hình ảnh người tôi trung

Trong Cựu Ước, lịch sử Israel là thái độ mò mẫm đế tìm kiếm một thái độ xứng hợp với đau khổ, có khi nổi loạn, lúc thì cam chịu và cuối cùng là cảm thông. Ngôn sứ Isaia đã làm nổi bật thái độ thông cảm ấy qua dung mạo của người tôi tớ đau khổ của Đức Chúa, tuy không vướng mắc tội lỗi nào nhưng đã gánh lấy tất cả tội lỗi và đau khổ của nhân loại.

Giữa cuộc bể dâu của thế giới Cận Đông thời đó trong tay những đế quốc khổng lồ, Isaia nhận ra kế hoạch cứu độ thế giới của Thiên Chúa. Kế hoạch này bộc lộ sự công chính của Thiên Chúa. Thiên Chúa thực hiện mọi lời hứa ngoài sự trông đợi của dân Chúa và bất chấp tội lỗi của họ. Với ánh sáng mặc khải, ngôn sứ Isaia và các môn đệ của ông đã loan báo một ơn giải thoát thời Mêsia, hoặc qua một người thuộc dòng họ Đavít, hoặc qua Người Tôi Tớ Đau Khổ, hoặc qua một sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Người Tôi Tớ Đau Khổ đem cho chúng ta sự bình an và làm cho chúng ta nên công chính nhờ những đau khổ Người mang vào thân.

Danh hiệu Đấng Cứu Chuộc gắn liền với hình ảnh Người Tôi Tớ Đau Khổ, một khía cạnh khác trong thần học của Isaia về ơn cứu độ. Khởi từ kinh nghiệm của dân Chúa trong cảnh đau khổ, và có lẽ cả kinh nghiệm bản thân bị chống đối vì loan báo ơn cứu độ phổ quát và giới thiệu vua Kyrô như một Mô-sê mới, Isaia đệ nhị đã phỏng theo thân phận của Môsê và Giêrêmia để mô tả Người Tôi Tớ Đau Khổ.

Bốn bài ca về Người Tôi Tớ[18] đã được Tân Ước áp dụng vào Chúa Giê-su từ biến cố phép rửa cho tới cuộc thương khó. Trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Philippê 2,6-11 đã dựa vào bài ca Người Tôi Tớ Đau Khổ để giải thích mầu nhiệm cuộc thương khó và cả thánh sử Luca thì dùng chính bài ca này làm cái khung thần học để viết trình thuật cuộc thương khó.[19]

Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới ? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.[20]

Như vậy, thái độ của người tôi tớ trong đoạn Kinh Thánh trên tiêu  biểu cho những người cam chịu đau khổ, đón nhận nó như định mệnh cuộc đời mình.

Nơi Đức Giêsu

Đau khổ tự bản chất của nó không bao giờ có tính tích cực, nó như một nghịch lý, làm cản đường cuộc sống, nhưng sự đau khổ lại được xem như là lời mời gọi vượt qua. Sự đau khổ mà Tân Ước đề cập tới chính là sự đau khổ trong sự chết đi của bản thân và vì tình yêu trong đau khổ. Nếu ai đó cho rằng có thể yêu mà không đau khổ, người đó đã tự tưởng tượng ra rằng bản chất tự nhiên của con người không hề có yếu đuối, không hề bị giới hạn, và tự cao cho rằng người ta chỉ là tình yêu. Có nghĩa là nếu sử dụng hạn từ về luân lý Kitô giáo đồng nghĩa là không có tội, ngay cả Chúa Giêsu - Con Thiên Chúa - Đấng không hề mắc tội cũng phải trải qua quy luật của cái khổ.

Với Chúa Giêsu, đau khổ được coi như một huyền nhiệm của cái chết và phục sinh. Huyền nhiệm này chính Chúa đã trải qua khi chịu khổ hình trên thập giá:

Khi còn sống kiếp phàm nhân Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lên lời khấn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu mình khỏi chết. Ngài đã được nhận lời vì có lòng tôn kính. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và chính bản thân đã tới mức thập toàn Người trở nên nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Người.[21]

Ngài đau khổ, Ngài khẩn nài lên Cha của Ngài cứu Ngài khỏi chết, là sự đau khổ nhất của mọi nỗi khổ nhưng trong lời khẩn nài lên Chúa Cha Ngài vẫn xin cho đừng theo ý của Ngài. Mặc dù vậy mọi người biết Chúa Giêsu đã chết, tuy nhiên thánh Phaolô cho rằng Ngài đã được nhận lời. Chúa Cha đã đáp trả những lời nguyện xin của Ngài không phải làm cho Ngài khỏi bị đau khổ hay khỏi bị chết. Nhưng đã làm cho Ngài tìm thấy ý nghĩa vượt qua mà Ngài đã làm trong khi Ngài chịu đóng đinh trên thập giá. Quả thực Chúa Giêsu đã đến thế gian, chịu đau khổ vì tình yêu, đồng thời Ngài cũng đã họa lại dung mạo của người tôi tớ đau khổ trong sách Isaia.[22]

Cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu chính là câu giải đáp cho con người về vấn nạn đau khổ. Lòng tin tưởng phó thác của Chúa Giêsu và trong cơn đau khổ tột cùng Chúa đã thốt lên “lạy Cha sao Cha bỏ con”. Đó không hẳn là lời trách móc, nhưng đúng hơn là tiếng kêu của tín thác.[23]

Hơn nữa Chúa Giêsu đã bác bỏ quan niệm thưởng phạt của người Do Thái khi họ cho sự đau khổ, mù lòa của con người từ bẩm sinh vì tội lỗi cá nhân, khi các môn đệ hỏi Người rằng “thưa Thầy ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta”. Chúa đã trả lời “không phải anh ta hay cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là đế thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được thể hiện nơi anh”.[24] Như thế có nghĩa là sự đau khổ vẫn được Thiên Chúa dùng như một phương thế tốt để mưu ích cho con người và làm vinh danh Thiên Chúa. Đó là việc anh mù được sáng mắt và con Thiên Chúa được vinh danh qua phép lạ chữa lành cho người mù. Những thái độ cảm thông của Chúa thể hiện qua cách cư xứ của Người đối với các tội nhân và những người đau khổ. Ngài tha thứ cho người tội lỗi, Người đồng bàn với những người bị đấy ra bên lễ xã hội. Bởi vậy Chúa cũng muốn người Kitô hữu luôn phải có thái độ tín thác và cảm thông khi đứng trước đau khổ hay một cảnh tượng đau khổ mà con người có thể cảm nhận được. Tín thác vào quyền năng chữa lành của Thiên Chúa, vì từ đau khổ Ngài có thể biến thành nguồn ơn cứu độ giải thoát con người khỏi mọi nỗi khổ đau. Cảm thông trước những khổ đau của người khác vì chỉ tình liên đới mới giúp con người vượt qua được những đau khổ và cảm nhận tình yêu mà người khác dành cho mình.

Thiên Chúa không phải là tác giả của đau khổ và Ngài cũng không muốn ai phải đau khổ. Để làm rõ hơn nhận định này, chúng ta phải bắt đầu bằng cách nhìn vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể, đã cư xử thế nào trước những người đau khổ, nhất là khi đối diện với chính đau khổ của mình.

Ai đọc Tin mừng cũng thấy rõ rằng trong những năm tháng sống và rao giảng, Đức Giêsu không bao giờ gây đau khổ cho ai. Đối với Đức Giêsu, đau khổ không phải là đồng minh hay bạn đường, và Ngài tìm cách giúp cứu chữa nhiều người khỏi đau khổ bao nhiêu có thể. Điểm lại Tin mừng ta thấy rất nhiều lần Ngài đã ra tay chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền cho dân chúng, cất khỏi họ những cảnh mù lòa, phung hủi, đói nghèo... Bởi thế, Ngài đã được các môn đệ và dân chúng coi như là người thầy thuốc luôn cứu chữa, băng bó các vết thương. Trước những đau khổ của người khác, Đức Giêsu luôn động lòng trắc ẩn, đến nỗi ngôn sứ Isaia phải thốt lên: “Các bệnh tật của ta Người đã gánh lấy; nỗi đau thương của ta Người đã chuốc vào thân”.[25]

Nói đến những đau khổ thể lý mà con người phải chịu, chúng ta không thể không nói tới những hành hạ mà chính Đức Giêsu phải chịu. Đau khổ mà Đức Giêsu phải chịu cũng rất nhiều và rất đa dạng. Vừa sinh ra là đã phải nếm mùi đau khổ, sinh ra trong cảnh rét mướt, nơi hang động vật, đau khổ khi bị Hêrôđê truy đuổi sát hại. Khi bắt đầu sứ vụ rao giảng lại bị họ hàng thân thích cho là “Người bị mất trí.” Càng ngày Ngài càng bị người ta cho là một kẻ phản loạn, phạm thượng, bị xếp chung số phận với hạng gái điếm, thu thuế, tội nhân.

Khi thi hành sứ mệnh, Ngài phải đau khổ vì bị người ta coi như là người của Satan, nhờ vào thế lực của Satan để trừ quỷ.[26] Đau khổ trước tình trạng chậm hiểu của đám thính giả, kể cả những môn đệ mà Người đã lựa chọn cách riêng. Đau khổ khi phải chiến đấu một mình trong vườn Giêtsimani, cuộc chiến mà Tin mừng thuật lại bằng những từ: buồn sầu, kinh hãi, đổ mồ hôi máu... Đau khổ vì bị cả môn đệ thân tín chối bỏ, phản bội, bị xua trừ, truy nã, và cuối cùng bị kết án tử hình trên thập giá cùng với hàng tội nhân. Nỗi đau khổ lên đến cao điểm khi Người cảm thấy dường như chính Chúa Cha cũng cũng bỏ rơi mình, nên Ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi, sao Ngài bỏ tôi?”.[27]

Thái độ của Đức Giêsu trước đau khổ cũng rất tự nhiên hay nói cách khác là rất con người. Nỗi đau khổ cũng bắt Người phải đấu tranh vất vả hơn trong đời sống nội tâm, như: cầu nguyện, chiến đấu trước những thử thách của ma quỷ. Ngài thường có thái độ rất điềm tĩnh trước những cơn bách hại của kẻ khác: không trả đũa hay chạy trốn, cũng không phàn nàn kêu ca trách mắng Thiên Chúa. Với Ngài, có những đau khổ mà con người, dù không muốn, cũng phải vác lấy, như: bệnh tật, già yếu, chết chóc. Như cha Thévenot viết: Đức Giêsu “Không cầu cạnh tử đạo, nhưng khi không thể tránh được khổ nạn, Người đã hết sức tự do trước ý muốn của Thiên Chúa, Người nhận lấy những giây phút đầy lo sợ và nước mắt ấy với tất cả tình yêu”.[28]

Trước những đau khổ đó, chắc chắn Đức Giêsu không ủng hộ, cũng không thích thú đau khổ và lấy đau khổ làm lẽ sống. Chính vì vậy, trong lúc đau khổ Ngài đã thốt lên rằng, “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này xa con”.[29]Nếu có thể được” một lời cầu nguyện đầy khiêm tốn cho thấy Đức Giêsu ý thức rõ về giới hạn của con người. Là Con Thiên Chúa, Ngài có thể chối bỏ và tẩy trừ đau khổ. Nhưng vì yêu Cha và yêu nhân loại lầm than, Đức Giêsu không làm theo ý riêng, Ngài đã chấp nhận và đón nhận đau khổ. Đó là bước phải đi qua để hiến thân cho Cha và cho người khác. Vì thế, sau lời nguyện xin đó Đức Giêsu đã tìm được sức mạnh, để khẳng định và thưa rằng “Nhưng không phải là theo ý con mà theo ý Cha.” Nghĩa là không phải theo những đòi hỏi và ước ao tự nhiên của bản thân Con trước đau khổ và sự chết, nhưng theo ý Cha thấy có phù hợp với sứ mạng tình yêu mà Cha đã giao phó cho Con.[30]

Với người Kitô hữu nhờ đức tin vào sự đau khổ của Chúa Giêsu họ sẽ đón nhận và sẽ được Ngài cứu thoát trong ngày sau hết. Bởi “đau khổ, theo nghĩa tôn giáo đầy đủ nhất, cho thấy lòng tin vào Thiên Chúa. Đấng đã âu yếm gọi đích danh ta, và cũng cho thấy tội nhận bị đánh động ngay tại cõi thắm sâu của mình khi nghĩ đến sự gian ác của việc chống lại Thiên Chúa chí thánh”.[31] Chính đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá là câu trả lời dứt khoát và vĩnh viễn cho vấn nạn đau khổ.

3. Đau khổ theo Công Đồng Vatican II

Đau khổ của Giáo Hội

Cụ thể trong đời sống đức tin, Giáo Hội có thái độ nào khi con cái mình đau khổ? Ðối với tất cả những con cái đang bị thử thách, đang bị đau khổ dày vò dưới muôn hình vạn trạng. Công Ðồng đã gửi đến một sứ điệp đặc biệt vì Công Ðồng cảm nhận được những ánh mắt đang hướng nhìn về Giáo Hội Mẹ với sự cầu khẩn, sáng rực vì cơn sốt hoặc đờ đẫn vì mệt nhọc, những cái nhìn dò hỏi đang vô vọng tìm hiểu tại sao con người lại đau khổ hay đang lo âu tự hỏi xem bao giờ và tự đâu sẽ có nâng đỡ để tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin nhưng đầy gian nan và đau khổ.

Giáo Hội cảm nhận rất sâu đậm những lời rên siết và than thở của những người đau khổ đang vang lên trong lòng mình và Giáo Hội càng buồn sầu khi nghĩ rằng mình không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau đớn bên ngoài cho con cái như các bác sĩ, y tá và tất cả những người săn sóc bệnh nhân đang cố gắng tận tình cứu chữa. Nhưng Giáo Hội có một cái gì sâu xa hơn, quí giá hơn để trao tặng những người đau khổ, một chân lý duy nhất có thể trả lời cho mầu nhiệm đau khổ và mang lại cho con cái mình sự an ủi chân thật đó là đức tin và sự kết hiệp với con người đau khổ là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Ðấng bị đóng đinh vì tội lỗi cũng như để cứu rỗi chúng ta. Chúa Kitô đã không diệt trừ đau khổ. Người cũng không muốn vén lên hoàn toàn chiếc màn mầu nhiệm của đau khổ cho chúng ta. Người lại nhận đau khổ cho mình và vì thế đã quá đủ cho chúng ta hiểu rõ giá trị của đau khổ…

Ðó là học thuyết Kitô giáo về đau khổ, học thuyết duy nhất mang lại bình an. Những người đau khổ sẽ không cô độc, không bị loại trừ, bị bỏ rơi hoặc bị coi là vô dụng. Trái lại họ là những người được Chúa Kitô kêu gọi, là hình ảnh sống động và trong suốt của Chúa.[32] Chính nhờ đó, Giáo Hội múc lấy sức mạnh nơi thần lực của Chúa Phục Sinh để có thể toàn thắng các sầu muộn và khó khăn cho chính Giáo Hội và con cái Giáo Hội:

Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, đã thiết lập và không ngừng nâng đỡ Giáo Hội thánh thiện của Người nơi trần gian, một cộng đoàn đầy niềm tin, cậy, mến, như một cơ cấu hữu hình, […]. Như Đức Kitô đã thực hiện công trình cứu chuộc trong khó nghèo và bách hại, Giáo Hội cũng được mời gọi đi theo cùng một lối đường để thông ban cho nhân loại hoa trái của ơn cứu độ ... Giáo Hội yêu thương ôm ấp tất cả những ai đang sầu khổ trong thân phận khốn cùng của kiếp nhân sinh; hơn nữa, Giáo Hội nhận ra nơi những kẻ nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập nghèo khó và khổ đau của mình, cố gắng làm giảm bớt nỗi khổ của họ và nỗ lực phục vụ Đức Kitô trong họ [...] Giáo Hội loan báo Thập Giá và cái chết của Chúa cho đến khi Người đến. Nhưng được củng cố nhờ quyền lực của Chúa Phục sinh, với sự kiên nhẫn và tình yêu thương, Giáo Hội vượt thắng các khổ nhọc và khó khăn bên trong cũng như bên ngoài, để trung thành tỏ lộ cho thế giới mầu nhiệm của Đức Kitô, hiện vẫn đang còn bị che khuất, cho đến lúc được biểu lộ dưới ánh sáng vẹn toàn.[33]

Đau khổ của con người

Thời đại chúng ta, đau khổ đã như ‘trái núi khổng lồ’ đè nặng trên phận người, đau khổ vì chiến tranh, đau khổ vì ly tán, vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì bị bách hại, tù đầy, vì thiên tai, hoạn nạn... Nhân loại chúng ta đã trải qua hai cuộc thế chiến kinh hoàng và đau thương. Thế Chiến thứ nhất, số người chết, cộng cả dân thường và quân đội, lên tới 8.700.000 người. Thế Chiến thứ hai, số tử vong vươn lên khủng khiếp 36.000.000 người. Trong số đó, riêng người Do Thái đã bị nướng chín, trong những phòng hơi ngạt, trại tập trung tử thần, lò thiêu, khoảng 6.000.000.

Tờ Herald Sun, Melbourne, ngày 02.05.1995, đưa ra một bản thống kê: Trên thế giới hiện giờ, sự nghèo đói vẫn là chứng bệnh giết người khủng khiếp nhất. Hơn một tỷ sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực; hơn 200.000.000 trẻ em thiếu dinh dưỡng. Tại các quốc gia chậm tiến, hơn 12.000.000 em bé dưới 5 tuổi bị chết trong năm 1993, vì thiếu thuốc men... Năm 2000, có 5.000.000 em bị nhiễm virút HIV và 10.000.000 em bị mồ côi cũng vì HIV. Hằng năm có hơn 26.000.000 người chết vì những chứng bệnh khác và có khoảng 20.000.000 phụ nữ phá thai trong những điều kiện không an toàn, trong số đó, 70.000 người bị chết.

Đặc biệt, trong hậu bán thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, nguy cơ một cuộc chiến tranh Hạt Nhân, với những loại vũ khí giết người từng loạt, những vũ khí Hóa Học, Sinh Học và Vi Trùng, không những gây tai ương cho một thể hệ, mà còn di căn tới nhiều thế hệ tiếp nối.., càng làm đau khổ chồng chất cao thêm, thậm chí còn tạo nguy cơ đi tới tình trạng, nhân loại tự tiêu diệt chính mình.

Những thảm cảnh vượt biên, chìm tầu, bị hãm hiếp, đói khát đến độ ăn cả thịt người, cướp bóc giành dựt nhau để tranh sống… những đau khổ mà chúng ta chắc chưa thể quên được!... Năm 2016 nhân loại rúng động trước hình ảnh em bé Syria chết trôi dạt trên bờ biển Hy lạp, cảnh 39 người Việt chết trong Container đông lạnh trên đường sang Anh để lao động… làm tất cả nhân loại kinh hoàng!

Đau khổ tuy gắn liền với từng cá nhân, nhưng lúc này, đường như, đang trở thành đau khổ của cả thế giới. Thế giới hôm nay đã có những bước tiến đột phá trong nhiều lĩnh vực, nhưng đồng thời, cũng là một thế giới đang làm nguy, do những sai phạm trầm trọng của con người.[34] Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêdictô XVI, trong sứ điệp Phục Sinh Urbi et Orbi  2007, đã nhận định:

Bao nhiêu là thương tích, bao nhiêu là đau khổ trong thế giới này! Những thiên tai và những thảm kịch nhân loại, đã gây ra không biết cơ man nào những nạn nhân; và những thiệt hại vật chất lớn lao cũng không thiếu. Những ý nghĩ của tôi vươn tới những biến cố gần đây ở Madagascar, quần đảo Solomon, Mỹ Châu La Tinh và những miền khác trên thế giới. Tôi nghĩ đến nạn đói, đến những bệnh nan y, đến chủ nghĩa khủng bố và nạn bắt cóc, đến hàng ngàn những khuôn mặt bạo lực, mà nhiều người đang cố biện minh nhân danh tôn giáo, đến sự chà đạp sự sống, đến sự vi phạm nhân quyền và tệ nạn bóc lột con người. Tôi băn khoăn về các điều kiện sống đang thịnh hành ở nhiều miền tại Phi Châu. Tại Darfur và tại các lân quốc đang có một tai ương và thật buồn mà nói rằng, tình trạng nhân đạo ở đây đã bị đánh giá quá thấp. Tại Kinshasa, thuộc Cộng Hòa Dân Chủ Congo, bạo lực và hối của, trong các tuần qua, đang dậy lên những lo sợ cho tương lai của tiến trình dân chủ của Congo và việc tái thiết đất nước. Tại Somalia, cuộc chiến vừa bộc phát đã xua tan triển vọng hòa bình và làm xấu thêm cuộc khủng hoảng trong vùng, đặc biệt về phương diện di dân và nạn buôn bán vũ khí. Zimbabwe đang trong vòng khủng hoảng trầm trọng ….[35]

Đau khổ, như thế, bao trùm nhiều nơi, nhiều người. Có chỗ, đau khổ như ung nhọt cương mủ nhức nhối. Có chỗ chỉ âm ỉ, như than hồng đang ủ dưới tro. Có chỗ lại như một khối u ác tính, tuy mới trong giai đoạn đầu, không ai để ý, nhưng vẫn báo trước một nguy cơ chết người, đang chờ ngày bùng phát.[36] Nhân loại đã từng chứng kiến ‘cái chết đen’ của dịch hạch bi thảm thế kỷ XIV. Cái Chết Đen được coi là một trong những đại dịch chết chóc nhất trong lịch sử nhân loại, ước tính nạn dịch này đã giết chết 30% - 60% dân số của châu Âu (tương đương 25 - 50 triệu người) và giảm dân số toàn cầu từ khoảng 450 triệu người xuống còn 350 - 375 triệu người vào năm 1400, và nay là Covid-19.

Số liệu thông kê ngày 12/1/2022 của Bộ Y tế, số ca nhiễm Covid-19 tại Việt Nam là 1.958.719 trong đó có 34.964 ca tử vong, trong khi số ca nhiễm toàn thế giới là 314.319.695 trong đó có 5.523.540 ca tử vong[37]; Hơn hai năm qua cả nhân loại sống trong đau khổ, bấp bênh, lo sợ! 

Cha Teilhard de Chardin, trong tác phẩm "L’Énergie Spirituelle de la Souffrance" đã nhận định rằng mỗi khoảnh khắc, sự đau khổ tràn lan khắp trái đất. Nếu chúng ta có thể thâu lượm được đau khổ, đóng thành kiện, đem cân đo và đưa ra phân tích, hẳn là phải có một con số khổng lồ! Từ đau khổ thể xác đến đau khổ tinh thần… thật là một bảng kê dài những hình thức đau khổ. Đúng thế, nhân loại càng trở nên người, vấn đề đau khổ càng ăn sâu vào da thịt, não căn: Đau khổ vì tìm hiểu, đau khổ vì chịu đựng. Quả thật đời là bể khổ! Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ ! Thế giới loài vật cũng không phải không có đau khổ. Nếu đồng hoá đau đớn của chúng với đau khổ, sẽ thấy: “Toàn thể tạo vật đang rên xiết như người phụ sắp sinh con”.[38] Hậu quả của Nguyên Tội không chỉ tác hại trên con người, mà còn đưa cả tạo vật vào tình trạng rối loạn.

Trước những đau khổ không thể nói lên lời, liệu đức tin vào Thiên Chúa của người tín hữu có bị lung lạc?

II.   Đau khổ - thử thách đức tin

1.   Tại sao Thiên Chúa im lặng
           
hay Thiên Chúa bất công?

Loài vật đau khổ, nhưng chẳng khi nào chúng biết đặt câu hỏi tại sao. Chỉ riêng con người mới biết mình đau khổ, nên mới đặt ra câu hỏi “Tại sao”. Tại sao lại có sự dữ, có đau khổ? Trả lời cho vấn nạn trên hoàn toàn không phải chuyện dễ dàng. Và người ta đi tìm nguyên nhân để lý giải, có phải tại Thiên Chúa?

Lập luận nối kết giữa ‘Đau khổ và Thiên đàng’, hay nhưng lập luận khác, vẫn thường được chúng ta sử dụng để xoa dịu những mất mát khổ đau bất hạnh trong cuộc đời. Những lập luận vẫn còn giá trị khi giúp chúng ta nguôi ngoai được nỗi buồn, chịu đựng được hoàn cảnh,chấp nhận giớ hạn yếu đuối của con người, vác thập giá theo Chúa và sẵn sàng phó thác mọi sự trong tay Ngài. Tuy vậy, nếu nhìn xa hơn, nó có vẻ khá nguy hiểm vì cùng giống nhau ở một điểm: Tất cả đều cho rằng Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi khổ đau, Ngài muốn chúng ta chịu đau khổ để răn dạy, thưởng phạt hay thử thách nhân loại? Chúng ta đã xét nghiệm từng lập luận và đều thấy rằng không có lập luận nào đứng vững được nếu chúng ta tin ở lòng Chúa nhân từ, thương yêu con cái Ngài. Tại sao bây giờ chúng ta không thử đưa ra một lập luận khác, đối nghịch hẳn với với những quan niệm trên?

Có lẽ Thiên Chúa không phải là nguyên nhân của những đau khổ mà chúng ta đang gánh chịu?  Có lẽ Ngài cũng không hề gởi tai họa tới cho những kẻ hiền lành? Ngài không sắp đặt cho đôi vợ chồng này sinh con tàn tật? Ngài cũng không muốn thấy em bé kia chết chìm, anh chị nọ bị giết? Biết đâu Ngài đang sẵn sàng đứng bên cạnh những kẻ khổ đau để nâng đỡ ủi an và ban thêm sức mạnh cho họ chịu đựng được những nghịch cảnh bỗng nhiên xảy ra? Tất cả những câu hỏi trên chúng ta đều không nghe được Thiên Chúa trả lời, dường như Ngài vẫn im lặng. Sự thinh lặng của Thiên Chúa dường như làm cho đức tin của chúng ta lung lay, dao động, tiếng kêu bi thương vẫn không ngớt vang lên trong tâm hồn chúng ta ‘Lạy Chúa! Tại sao Ngài im lặng?[39]

Thực ra, Thiên Chúa vẫn không ngừng thì thầm với những con tim biết lắng nghe. Thiên Chúa không ngừng hoạt động để hoàn tất công trình của Người, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự mọi người. Nhưng Người hành động cách nào, đó là điều vượt quá tầm mức hữu hạn của con người. Chúng ta đụng tới mầu nhiệm quan phòng, mầu nhiệm tự do của Thiên Chúa. Chúng ta phải vui nhận sống dưới “chế độ” quan phòng của Thiên Chúa, đó là chế độ luôn sóng đôi giữa mầu nhiệm tiếng nói và lặng thinh, giữa mầu nhiệm ánh sáng và bóng tối. Khi không chấp nhận sự thinh lặng của Người, là chúng ta muốn Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa nữa, Lời Người không còn là Lời Thiên Chúa nữa, vì Lời Người nói trong thinh lặng là dấu chỉ để Người tôn trọng và yêu thương công trình của Người tạo dựng.

Vì Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người nên Thiên Chúa thinh lặng. Thiên Chúa có vẻ như lép vế, chỉ vì Người tôn trọng tự do của chúng ta, nhưng điều đó không làm cho chúng ta kém mất tự do. Số phận và cuộc đời của chúng ta không phải là một buổi trình diễn một vở tuồng đã viết sẵn. Trái lại: “Thiên Chúa cùng với chúng ta để tạo dựng nên chúng ta”. Hơn nữa, vĩnh cửu thực ra không phải là một khoảnh khắc có trước chúng ta, hoặc nó ở ngoài thời gian, vượt khỏi tầm tay chúng ta; mà nó “nội nhập” thời gian. Có thể nói, nó đồng hiện hữu với tất cả mọi khoảnh khắc của kỳ gian. Từ lúc Thiên Chúa sắp đặt những hành động của chúng ta. Thiên Chúa thấy chúng ta hành động, nhưng hành động cách tự do. Vì vậy, cách thế tốt nhất để hợp tác vào công trình quan phòng của Thiên Chúa là trở nên những nghệ sĩ quảng đại cho thân phận riêng của chúng ta.

Tuy vậy, scandal lớn nhất đối với chúng ta là tại sao Thiên Chúa để cho chúng ta, cho con người phạm tội, phạm tội hoài? Thiên Chúa quả đã chấp nhận một mạo hiểm. Sao Người không cất bỏ cái tự do nguy hiểm đi? Nếu hành xử như thế thì Người đâu còn là Thiên Chúa tình yêu: Người yêu ta và tha thiết muốn ta yêu Người, nhưng tình yêu chỉ có thể có được khi có tự do. Thiên Chúa không thể “ép duyên” chúng ta. Hơn nữa, nếu hủy diệt tự do của chúng ta, vì “con người chỉ là người, chỉ hơn con vật khi có tự do”, làm sao Thiên Chúa có thể nỡ lòng làm như vậy?

Sự khôn ngoan mầu nhiệm của thập giá đó là lý do tại sao Thiên Chúa cứ muốn người lành sống chung với kẻ dữ? Trong tác phẩm “La Peste” tác giả Camus đã gào thét: Cho tới chết, tôi sẽ mãi mãi từ chối yêu thương thế giới này, vì ở đấy, những trẻ thơ vô tội đã bị đói khát, giày xéo, đày đọa …”.[40] Thiên Chúa vẫn thinh lặng không phải vì Người vô tình. Lý do sâu xa nhất của sự im lặng là Lời Người, vì Người đã nói hết với chúng ta rồi, nhưng chúng ta lại không biết nghe, không biết đọc, hoặc không muốn nghe, không muốn đọc Lời Người.

Lời cuối cùng và trọn vẹn nhất của Thiên Chúa chính là “cuộc khổ nạn và cái chết của Đấng Thiên Chúa làm người”. Thập giá là ô nhục đối với người Do Thái và là điên rồ đối với người Hy Lạp. Và rất có thể đó cũng là sự gai chướng đối với cả chúng ta. Chúng ta chỉ có thể hiểu được Lời đó khi chúng ta thực sự theo chân Đức Kitô, “Tôi tớ đau khổ”.

Hơn nữa, Thiên Chúa còn thinh lặng để đến lượt chính những chi thể của Đức Kitô phải trở nên những chứng nhân bằng chính đời sống của họ. Họ bày tỏ cho thế giới lời chung cục đã được mặc khải nơi Đức Kitô: “Tình Yêu tuyệt đối sẽ chiến thắng sự dữ” để nhân loại có thể thâm tín rằng: “sau thập giá ô nhục là thánh giá vinh quang”.[41]

2.   Có phải Thiên Chúa không toàn năng
hay Thiên Chúa không yêu thương?

Quyền năng của Thiên Chúa rất ít khi biểu lộ mạnh mẽ qua những hiện tượng vượt ra ngoài luật thiên nhiên, trái lại biểu lộ bằng cách liên tục hoạt động tiềm ẩn bên trong để trợ giúp cho người có lòng tin, qua những sức năng kín nhiệm lồng sâu vào trong tinh thần, như niềm tin tưởng, lòng kiên nhẫn, sức đấu tranh không ngừng chống lại nghịch cảnh, và tình liên đới với người đau khổ.

Thái độ phẫn nộ vì một Thiên Chúa toàn năng đã không chịu cứu các vị tử đạo của mình ra khỏi cực hình, tất phải biến thành lòng khâm phục đối với một Thiên Chúa đã nhận lấy cho chính mình thân phận làm người tử đạo qua thứ ngôn ngữ nội tâm và sâu kín. Đấng Thiên Chúa ấy đã làm nên nơi các vị tử đạo những giá trị tinh thần siêu phàm kết thành mối thông hiệp vĩnh hằng giữa con người với Thiên Chúa.

Tuy nhiên con người bị bao vây bởi quá nhiều hiểm nguy nên không thể không khao khát an toàn. Do đó, con người sẽ đi tìm an toàn ở phía quyền lực thống trị vũ trụ, để bắt nó phục vụ, đẩy nó xuống hàng nô lệ của mình. Đó là một cám dỗ tự nhiên dễ dàng đẩy con người xa Nước Thiên Chúa vốn ở ngay trong lòng họ. Ai muốn bắt Thiên Chúa bằng tay sẽ chắc chắn mất Người.

Thiên Chúa tỏ ra liên đới với tự do nhân loại đến nỗi chính Người đã trở thành nạn nhân của sự dữ. Càng nói đến cái kinh tởm mà sự dữ đem tới cho những con người vô tội, càng khẳng định rằng Thiên Chúa ở trong và ở với họ, càng khẳng định rằng Người là nạn nhân trong chính bản thân họ. Thiên Chúa tạo dựng thế giới bằng tình yêu. Người chấp nhận cái nguy cơ tình yêu đem lại. Thế nhưng Thiên Chúa đã không lùi bước trước những nguy cơ đó, Thiên Chúa quá yêu để có thể tạo dựng một thế giới không tự do, bởi lẽ Thiên Chúa không thể yêu ít hơn, không thể từ chối tình yêu của mình, yêu đến thành nạn nhân, yêu mãi đến Thập Giá. Người là nạn nhân đầu tiên của sự dữ. Đức Kitô đã đón nhận tất cả cho mình. Thiên Chúa hiểu biết mọi cơn hấp hối của chúng ta. Nguồn gốc của sự dữ là chối từ yêu thương. Mọi việc từ chối tình yêu đều làm tổn thương đến Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa là nạn nhân của sự dữ, Người cũng bị đau khổ xuyên qua. Chính Thánh Giá đã khẳng định điều đó.

Việc Thiên Chúa Quan phòng là một mầu nhiệm tình yêu, và do đó cũng là một mầu nhiệm của thinh lặng. Bài học thinh lặng của Thiên Chúa chỉ có thể được chấp nhận cho những kẻ đã tin. Kẻ nào đã một lần trong đời thực sự cảm nghiệm được sự thinh lặng hãi hùng của Thiên Chúa thì không thể đứng trung lập được, sự thinh lặng hoặc sẽ đưa họ đến phản loạn, hoặc sẽ bó buộc họ đi tới một niềm tin lướt thắng. Sự thinh lặng của Thiên Chúa còn là tiếng nói hùng hồn nhất cho tất cả những người biết tìm Người như những kẻ nghèo khó bên kia những dấu chỉ, những phép mầu, dấu lạ, bên kia những lời nói an ủi đơn thuần của con người. Julien Green đã từng viết trong nhật ký của ông: “Chính ở ngay trung tâm của thinh lặng. Thiên Chúa ở đó: đấy, chính Người cư ngụ không phải trong gió lốc hay trong động đất kinh hoàng, cũng chẳng phải trong tiếng nói ồn ào dai dẳng của chúng ta, nhưng Người ở tận đáy thẳm sâu của chính con người chúng ta, nơi mà tiếng nói rối loạn của thế giới không vẳng tới được.[42]

3.   Phải chăng Thiên Chúa thích đau khổ
hay chính Thiên Chúa đau khổ?

Vị Thiên Chúa coi như ưa thích sự đau khổ là vị Thiên Chúa của Kitô giáo? Theo Réné Girar:

Chẳng những Thiên Chúa đòi có một vật lý sinh mới mà còn đòi có vật hy sinh quý giá nhất và thân thiết nhất. Là chính Con của Người. Chắc chắn định đề này đã có ảnh hưởng hơn tất cả để làm cho kitô giáo giảm mất tín nhiệm nơi những người thiện chí trong thế giới hiệu đại.[43]

Trong khi nhà thần học Jean Sulivan lại cho rằng :

Sở dĩ phải chiến đấu chống lại những từ ngữ những tập quán, sự phát triển của tôn giáo có hại cho Đức tin Kitô giáo, thì chẳng phải là để tính luyện đức tin của những kẻ nghèo khó, những kẻ trung tín cho bằng để cuối cùng, trước mặt những kẻ nguội lạnh, những kẻ xa lạ, trước mặt 99 con chiên lạc mất, đức tin không có vẻ là vô nghĩa, là trình diễn, nhưng đâm rễ sâu vào trong cuộc sống và niềm hy vọng của con người”.[44]

Khi thấy một người lớn tấn công một em bé không phương tự vệ, rồi đánh đập nó, chúng ta cảm thấy một cảm giác khủng khiếp. Nhưng nếu quy hường về Thiên Chúa, cảm giác ấy lại nổi bật, bởi lẽ rằng trong em bé đó và trong người lớn đánh đập em, chính Thiên Chúa đau khổ. Trong cái con người yếu đuối bị kẻ khỏe đè bẹp, chính Thiên Chúa đau khổ trong cả hai, và càng đau khổ hơn trong kẻ thực hành đau khổ, họ thấy mặc khải về ý định của Thiên Chúa mà chúng ta không hiểu nỗi. Ý định này có thể cắt nghĩa cái chết yểu của người hiền để bảo toàn cho họ khỏi phạm tội, đồng thời cũng biết được toàn phúc của người đàn bà son sẻ và của hoạn nhân. Đau khổ và bách hại có thể là sự xá tội.

Trong Thông điệp Deus est Caritatis Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã quả quyết rằng vì yêu thương nhân loại mà Thiên Chúa như quay lại chống chính mình… Trong tột cùng đau khổ của Chúa Con trên thánh giá, Thiên Chúa Ba Ngôi cùng đau khổ để cứu độ con người:

Trong cái chết thập tự của Người, việc ''Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình'' đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Người tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất. Cái nhìn vào cạnh sườn bị đâm thâu của Đức Giêsu, mà thánh Gioan nói đến giúp chúng ta hiểu khởi điểm của Thông điệp này : ''Thiên Chúa là tình yêu" (1Ga 4,8). Nơi đó, chân lý này có thể được nhìn ngắm. Và cũng từ đó có thể định nghĩa tình yêu là gì. Từ cái nhìn này, người Kitô hữu tìm được con đường để sống và để yêu.[45]

Thập giá của Đức Giêsu là câu trả lời cho tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Thần học về Thập giá đào sâu giá trị của ơn cứu chuộc của Thiên Chúa được ban từ Thập giá, nhưng nó cũng trình bày toàn thể thần học về bản tính của Thiên Chúa được mặc khải nơi Thập giá. Ai chịu khổ và chịu chết trên Thập giá? Phải chăng chỉ có Đức Kitô chịu khổ hình chịu chết? Có thể nói rằng Chúa Cha chịu đau khổ hay không? Có thể nói rằng Thiên Chúa chịu chết hay không? Nên biết rằng đây không phải là những câu hỏi ngớ ngẩn, gợi lên để nói cho vui. Một số câu hỏi này đã được đặt ra từ các trại tập trung của Đức quốc xã, khi hàng triệu người phải nếm những cảnh tra tấn tù tội, hỏa lò: họ cảm tưởng rằng Thiên Chúa đã chết trong sự thinh lặng, không ra tay can thiệp, cũng giống như cảnh tưởng Đức Giêsu bị bỏ rơi trên Thập giá... mở rộng Thập giá tới toàn thể mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: “Vì yêu mà con đau khổ khi bị Cha bỏ rơi; vì yêu mà Cha khổ khi con đau đớn và chết; Thánh Thần tình yêu đã khôi phục sự sống cho người đã chết. Nơi Thập giá ta chứng kiến được sự tham dự yêu thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.[46]

4.   Đau khổ, sự dữ, tội lỗi
  
và đau khổ của người vô tội

Việc sát người Thái thời Hitler; cảnh bạo của nhà Auschwitz; cuộc diệt chủng ở Campuchia, Pôn Pốt; cuộc chiến tranh chủng Nam Phi; cuộc chiến tranh giáo Nam Tư... và mới nhất là leo thang căng thẳng dẫn đến nguy cơ chiến tranh tại Ukraine giữa Nga và khối NATO … đều là những niềm đau lớn, bàn tay độc ác của con người sáng chế ra. Hai bom Nguyên Tử, phá hai thành phố Hiroshima Nagasaki, Nhật Bản; những đàn áp kinh và kỳ thị chủng tộc... cũng là tác phẩm của nhẫn tâm con người. Thảm họa rỉ lò nguyên ở Tchernobyl, ngày 26. 04. 1986, không phải ác tâm, nhưng vẫn do con người, sự bất toàn của mình.

Đối với những người có niềm tin vào Thiên Chúa thì coi đau khổ như một cớ vấp phạm bởi vì: tại sao Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu lại để cho đau khổ và sự dữ xảy đến với con người, và nhất là khó hiểu hơn nữa khi đau khổ lại xảy đến với những người ăn ngay ở lành, người nghèo khổ và trẻ em vô tội? Vì vậy có người sẽ lý luận: nếu Thiên Chúa muốn khử trừ sự dữ mà Người không làm được thì do Người không toàn năng, còn nếu Người có thể diệt trừ sự dữ mà lại không làm, thì Người không yêu thương, và do đó phải chăng Người còn là Thiên Chúa?

Có lẽ đau khổ đến cùng cực, đến độ mất tất cả như ông Gióp của người vô tội như một lý do con người phản kháng với Thiên Chúa Tình Yêu. Nếu bỏ qua một bên không kể chi đến cứu cánh cao cả và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho cuộc sống con người, và con người phải đạt tới, qua những bước tiến bộ cam go về mặt tinh thần, tất sẽ thấy cuộc sống chỉ là chuyện điên rồ. Đau khổ của con người chỉ cắt nghĩa được khi người ta chấp nhận thực sự là có một cuộc sống siêu trần thế.[47]

Không phải Thiên Chúa “cho phép” mà nói đúng hơn là Ngài “đành nhận” sự ác. Quyền năng của Thiên Chúa tiến hành theo cung cách kiên nhẫn “chịu đựng”. Với tất cả sự dè dặt và tế nhị, Thiên Chúa tôn trọng con người dù con người có là tội phạm, với ý nghĩa là một khi đã nhìn nhận sự tự do của con người, thì Thiên Chúa để nguyên trách nhiệm cho con người, ngay cả khi đối với sự ác.[48]

Tuy nhiên thái độ tôn giáo của người tín hữu như thế nào trước đau khổ của những người vô tội?. Nhiều người tự cho mình là “tôn giáo” nhận thấy niềm tin của họ vào Thiên Chúa bị thách thức, có người cho rằng đời sống cầu nguyện của họ đã bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng. Một sự phản đối hoàn toàn chuẩn xác đối với niềm tin vào Thiên Chúa, đó là sự đau khổ của con người, đặc biệt là khi đến thăm những trẻ em vô tội. Người biện hộ cho chủ nghĩa vô thần hoặc chủ nghĩa tự nhiên khá dễ dàng hỏi những tín hữu rằng, làm thế nào bạn có thể khẳng định sự tồn tại của một vị Thiên Chúa yêu thương nhưng lại để xẩy ra Holocaust – Lò thiêu người Do Thái, những vụ xả súng ở trường học, sóng thần giết chết hàng trăm nghìn người, đại dịch, ...?

Đức Cha Robert Barron, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Los Angeles chia sẻ rằng rõ rằng không có điều nào ở trên nhằm làm sáng tỏ kinh nghiệm đau khổ khủng khiếp hoặc nhằm loại bỏ theo một cách khá tự tin những căng thẳng trí tuệ mà đau khổ đó tạo ra. Nhưng thực sự đó là mời mọi người đi vào cuộc gặp gỡ sâu sắc hơn với mầu nhiệm của Thiên Chúa. Giống như Giacóp, người đã vật lộn cả đêm với thiên sứ, chúng ta không được từ bỏ Thiên Chúa mà phải “vật lộn” với Ngài. Sự đau khổ của chúng ta không được làm cho chúng ta gạt bỏ đi tình yêu thánh thiêng của Thiên Chúa, nhưng phải hiểu biết tình yêu đó vượt xa hơn những gì chúng ta từng tưởng nghĩ. Hoàn toàn có thể hiểu được rằng, giống như Gióp, chúng ta có thể hét lên phản đối Thiên Chúa, nhưng sau đó, giống như vị anh hùng thánh thiêng vĩ đại đó, chúng ta phải sẵn sàng nghe tiếng nói đáp trả của Thiên Chúa dành cho chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi cơn lốc đau khổ.

5. Phản ứng của con người trước đau khổ

Sợ hãi, chạy trốn

Đã có nhiều thái độ khác nhau khi phải đối diện với sự dữ, khi đa số tìm cách chạy trốn. Đau khổ bao trùm gây hoang mang, có khi tuyệt vọng như một bóng tối đầy sợ hãi, vì vậy thông thường con người có thái độ phòng vệ như một phản ứng tự nhiên, và chạy trốn là cách đơn giản nhất để thoát khỏi đau khổ. Thái độ trốn chạy chẳng giải quyết được gì, khi đau khổ như gắn chặt với kiếp người. Đau khổ vẫn còn đó, đầy thách thức. Đau khổ đi vào qua cửa tội lỗi. Bao lâu cửa đó chưa đóng lại, đau khổ vẫn xếp hàng đi vô. Làm sao để thoát ra khỏi “nhà tù đau khổ”? Tia sáng đào tẩu, vượt ngục soi rọi trong tâm trí và con người cố gắng hành động. Câu chuyện sau đây miêu tả con người đang cố gắng thoát khỏi đau khổ: Tại nhà tù Rascalda, nước Ý, một phạm nhân bị kết án chung thân, quyết tâm vượt ngục. Anh đã dùng một chiếc thìa nhỏ, đào được một đường hầm dài 15,7m, trong vòng 6 tháng. Nhưng khi anh lần theo đường hầm để trốn, lúc ngoi được lên mặt đất, thì thật bất hạnh, lối thoát của anh không phải ở ngoài nhà giam, mà lại lọt vào phòng ông Quản Đốc.[49] Thật đúng là “Ê chề” như lời thơ của bài thơ cùng tên của Huy Cận:

Mong trốn tránh bơ vơ

Tôi đem tình bán ế

Cho vạn khách thờ ơ

Và lòng tôi đã ế ( “Ê chề” - Huy Cận).

Nổi loạn

Một phản ứng khác cũng thường xảy ra trong cơn đau khổ đó là nổi loạn. Phản ứng này đã được kể lại nhiều trong Thánh kinh. Hãy nhớ lại kiểu nói mà các tác giả Thánh vịnh thường dùng để diễn tả sự mệt mỏi khi thấy Thiên Chúa lặng thinh mãi: “cho đến bao giờ?" (Tv 89,47). Ngôn sứ Giêrêmia mỏi mệt với những ô nhục phải chịu: Tại sao nỗi đau khổ của tôi kéo dài liên miên, và vết thương quá hiểm vô phương chạy chữa? Người xử với tôi như con suối điều ngoa, như dòng nước phỉnh gạt” (Gr 15,18).

Nổi loạn càng nhiều khi người chịu đau khổ lại đang ăn ở ngay lành. Như Sách Gióp cho thấy: Nổi loạn là phản ứng đầu tiên của người công chính và vô tội khi bị đau khổ. Chúng ta nghĩ sao về cách phản ứng này? Đó chắc chắn là dấu hiệu của một trong những chiều kích quan trọng nơi con người đã được huy động, đó là tính gây hấn. Khuynh hướng ấy cũng có một khía cạnh “lành mạnh về mặt y học”. Nó cho ta “kích thích tổ” để ta đấu tranh với sự dữ. Nó là phút vùng lên của sự sống nơi ta. Đồng thời nó cũng là một tiếng gọi kín đáo mà ta phải cố nhận ra, một tiếng gọi gởi đến những ai có khả năng xoa dịu các khổ đau, hay xa hơn, có thể chấm dứt các đau khổ ấy…

Tuy nhiên “kích thích tố” do sự nổi loạn đem lại không phải là không có nguy hiểm. Bao lâu còn chừng mực thì bấy lâu còn tốt, nhưng khi trở thành thái quá thì có thể đưa tới chỗ hận thù, ghen ghét và nhạo báng. Vì thế, khi gặp đau khổ, ta phải tìm cách điều hòa các tình cảm gây hấn nơi mình. Một việc rất khó nhọc, bởi vì trong những lúc như thế, ta như bị giành giật bởi những sức mạnh đen tối nổi dậy từ các vùng sâu kín trong con người mình. Mọi nỗi thất vọng trong quá khứ sẽ sống lại. Ta sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng ở đâu ta tưởng mình đã là Thiên thần thì ở đó đã có một “con thứ” nằm ngủ sẵn! Đây thật là một cơ hội tuyệt vời để ta sống khiêm tốn và để khám phá ra mình hay thông đồng với “những con thứ” tàn bạo ấy, những con thú mà xưa nay ta hay coi thường

Chiêm ngắm cách Đức Giêsu xử sự trong các quan hệ của Người cũng có thể giúp các Kitô hữu biết điều hòa sự nổi loạn cho lành mạnh. Thật vậy, không ai cho Đức Giêsu là người chỉ biết “vâng vâng dạ dạ". Cuộc đời của Người đã cho thấy Người sẵn sàng xông vào trận với các kẻ thù khi cần phải, như với một số biệt phái chẳng hạn (Mt 23) hoặc với bạn hữu như Simon Phêrô (Mt 16,23). Tuy vậy, trên Thánh giá, thay vì để mặc cho cơn giận đối với các người bách hại trào ra, Người đã xin Cha tha cho họ... Vì thế, đối với người đau khổ, cầu nguyện có thể trở thành nơi cho họ tập thuần hóa các tình cảm gây hấn, rồi hướng chúng về cùng Thiên Chúa, giống như nhiều tác giả Thánh vịnh đã không ngần ngại bộc lộ tính hung hãn trong lòng mình, đồng thời cũng biết đặt nó vào trong tương quan với Đức Chúa.

 Thái độ của Đức Giêsu trước đau khổ có giá trị nhân bản và chính là cái cứu độ con người. Không phải những đau khổ tự nó có giá trị nhân bản hóa và cứu độ, mà là thái độ đối với người khác cũng là thái độ của tình yêu, luôn luôn tìm cách sống cho người khác.[50]

Một thái độ mà chúng ta thường thấy khi đứng trước sự dữ là “phản kháng”, đây cũng là tư tưởng của đại đa số các triết gia, kể cả triết gia Kitô giáo. Trực giác cơ bản của Camus là trực giác về tính chất bi đát của cuộc đời, mà biểu hiện tiêu biểu nhất là sự đau đớn của trẻ em, là một hình ảnh man rợ nhất của sự dữ. Đối với ông, đó chính là bằng chứng Thiên Chúa không có, sự dữ và Thiên Chúa là hai điều mâu thuẫn nhau.[51]

Tuy nhiên, với Camus, không phải do có sự dữ mà chúng ta có thái độ thoái thác hay tệ hơn là tự sát, ngay cả khi chúng ta thấy đau khổ và chết chóc, vì sự dữ thật là phi lý. Chính vì sự dữ có mặt khắp mọi nơi nên “con người phản loạn” của ta càng phải nỗ lực hơn để không ngừng tiêu diệt nó. Camus hẳn cũng nghĩ rằng cả khi con người xóa sạch mọi sự dữ do mình gây ra, vẫn luôn còn đó những đau khổ do chính thân phận bị giới hạn và vô thường của mình. Như thể, dù y khoa có tiến bộ đến đâu, con người cũng không thể tránh khỏi những tổn thương của thể lý và tâm lý. Do đó, phải đương đầu với bệnh tật và sự chết là điều không né tránh được. Phải chăng, con người có thể làm chủ nơi mình tất cả những gì cần được làm chủ? Thể nhưng, ngay cả trong những xã hội tiến bộ nhất, trẻ em vẫn là đối tượng đầu tiên phải gánh chịu đau khổ và đôi khi phải chết bất công.

Đây là một cuộc chiến cam go và dai dẳng, để bảo vệ những con người yếu đuối nhất trong xã hội, đây là một cuộc chiến đòi hỏi chúng ta phải có một tấm lòng quảng đại và một tình yêu đến phi thường. Vinh dự của con người là làm mà không tính toán gì hết, là phân phát hết cho cuộc sống hiện tại và cho những con người đau khổ. Theo Camus, chính qua cuộc sống nổi loạn của chúng ta sẽ chứng minh rằng, nổi loạn chính là sự sống đang chuyến động, không thể sống mà phủ nhận cuộc nổi loạn ấy, sống là phải sinh sôi triển nở, hoặc là chẳng sống gì nữa”.[52]

Tuyệt vọng, đánh mất niềm tin

Một phản ứng khác thường xảy ra trong các thử thách mãnh liệt và lâu dài, đó là bị cám dỗ thất vọng. Loại cám dỗ này có khi xuất hiện rất tinh vi. Lúc thử thách mới bắt đầu, người ta thường chiến đấu rất can đảm nhưng rồi họ không mảy may để ý là các sức mạnh nội tâm càng lúc càng trở nên yếu.

Trước tiên, phải nhìn nhận rằng một đôi khi chúng ta bị đặt trước những vấn đề làm ta suy sụp hoàn toàn. Nếu đúng như vậy, thì dừng vội vàng vận dụng các cố gắng tu đức để thoát khỏi. Mà tốt hơn trước hết hãy tấn công vào những triệu chứng suy sụp ấy bằng cách nhờ đến y bác sĩ. Họ sẽ kê cho ta một toa thuốc trợ giúp tức thời hay nếu cần, mời ta trải qua một quá trình tâm lý trị liệu. Nạn nhân của cái cảm giác đổ vỡ thường không thích nhờ đến y học. Nhưng ta có thể giúp họ coi đó như một cách nhìn nhận rằng mình cũng được Chúa tạo nên bằng những yếu tố hóa học như các tạo vật khác trong vũ trụ. Cũng nhờ đó, người ta có dịp nhận ra được thân phận thụ tạo của mình có một tầm ảnh hưởng rất rộng.

Dầu vậy, sau khi đã vượt qua được giai đoạn suy sụp đúng nghĩa, nhờ thuốc thang hay nhờ khoa tâm lý trị liệu, ta vẫn thấy còn nỗi lo âu siêu hình mà không thuốc thang nào có thể xóa được. Người lo âu sẽ tự nhủ: “Tại sao tôi lại mỏng dòn như thế? Tại sao Thiên Chúa lại để tôi lún sâu trong tình trạng khó sống như thế? Tại sao đời tôi lại phải đi qua cái chết?” Thật ra, khi đọc lại đời mình trong những lúc tâm hồn xáo trộn như thế, tôi có thể tìm được một vài câu trả lời cho các vấn nạn đó, hoặc ít ra xoay một số vấn nạn theo hướng khác. Nhưng lúc nào tôi cũng thấy còn lại một câu hỏi căn bản “tại sao?” và thậm chí “tại sao lại là tôi?”

Trong những lúc sẵn sàng rơi theo nỗi thất vọng như thế, thật khó nói đến chuyện Kitô hóa kinh nghiệm đau khổ của mình. Trước tiên dĩ nhiên phải van xin Thiên Chúa với hết lòng chân thành (x. Thánh vịnh 38). Hãy áp dụng cho mình những lời cầu nguyện của các tác giả Thánh vịnh đã diễn tả tiếng kêu la của những người bị các mãnh lực sự chết ám ảnh. “Từ vực sâu, tôi kêu lên Người, Lạy Chúa” (Tv 130). Vực sâu, một từ diễn tả rất mạnh! Đúng là những người đau khổ thật sự đang ở kề bên vực thẳm. Cuộc sống hằng ngày khi ở bên bờ vực thẳm ấy đã mang một nét khác hẳn với cuộc sống khi người ta mạnh khỏe. Nó có vẻ mỏng manh, “phù du” như sách Giảng viên đã nói (Gv 2,17). Lúc bấy giờ, ít nữa là phải có nguồn sinh lực của Thánh Thần thì mới có thể nhận ra được trong thế giới vẫn còn dấu vết của một Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của kẻ sống” (Mt 2232).

Trong nỗ lực “vượt qua” mà ta muốn làm ngay giữa bóng đêm của sự dữ ấy, đôi lúc cũng nên nhắc lại những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. “Đúng vậy, tôi đau khổ, tôi cảm thấy bị bỏ rơi, nhưng tôi có được phép cho rằng đời tôi chỉ toàn là thất bại không? Không, tôi cũng đã có những lúc vui tươi, bình an, thành đạt. Tôi phải biết nhìn lên những lúc đó và tựa vào đó để giao chiến trong hy vọng”.

Nhưng đối với một số người, khi nhớ về quá khứ như thế họ lại càng bị lún sâu hơn trong nỗi chán sống, trong cảm giác đổ vỡ. Sở dĩ thế có thể là vì cơ cấu tâm lý của họ có những điểm yếu đặc biệt. Nếu .Đó cũng là điều các tác giả Kinh thánh đã làm để giúp đỡ dân Itraen vậy, như tác giả sách Giảng viên mời gọi, ta nên tập trung vào những điều nho nhỏ đang xảy ra trong những lúc này, làm cho ta cảm thấy thỏa mãn đổi chút. Ấy thế nhưng cũng có những người bị đè bẹp đến nỗi ngay cả việc đó họ cũng không làm nổi.

Điều này ta sẽ nghiệm ra được khi đọc những trang sau đây. Đảm nhận đau khổ là lao vào một trận chiến mà không bao giờ người ta dám chắc là sẽ thắng. Trong trận chiến đó, ta cần can đảm, đôi lúc phải anh hùng nữa, nhưng luôn luôn phải kiên nhẫn. Thế nhưng, trong cuộc chiến kinh khủng đó, cứ mỗi lần chiến thắng dù rất nhỏ - là ta được dịp hiểu rõ hơn câu nói rất bí ẩn của Đức Kitô: “Nếu hạt lúa mì không chết, nó vẫn trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó sẽ mang lại nhiều bông hạt” (Ga 12, 24).

Biện chứng của tình yêu là vượt qua đau khổ, biện chứng của sự sống là bước qua sự chết. Đường đi của sự phục sinh cũng cam go như kinh nghiệm đau khổ vậy! Đó chính là đường Thánh Thần sẽ giúp ta đi qua. Thánh Thần cũng đã soi sáng cho Tông đồ Phaolô nói lên lời này khi suy ngẫm về thử thách mà người môn đệ Đấng Phục sinh đã chịu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo? [...] Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta. Vâng, tôi toàn thăm tín rằng [...] không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Rm 8,35-59). Ước gì niềm hy vọng của thánh Phaolô cũng là niềm hy vọng của mỗi người chúng ta!

III.    Ý nghĩa đau khổ và mục vụ cho người đau kh

Khi bàn về vấn đề đau khổ, linh mục Xavier Thévenot cũng chỉ giúp chúng ta hiểu phần nào về nó chứ không thể đưa ra câu giải đáp làm thỏa lòng mọi người, ngài nói: “Đừng mong tìm được ra ý nghĩa trọn vẹn của đau khổ”.[53] Đúng vậy, chưa có ai có thể đưa ra giải đáp làm thỏa mãn sự hiểu biết về nguyên nhân, ý nghĩa và mục đích của đau khổ; cũng thế, không ai có thể chạy trốn được đau khổ và làm cho nó biến mất. Như đã nói ở trên, chỉ có đức tin và tình yêu vào Đức Kitô mới có thể giúp ta tìm ra lời giải đáp cho vấn đề muôn thuở này. Biết rằng đau khổ là một thực tại và mọi người đều phải đón nhận, nhưng đón nhận như thế nào cho thanh thoát và hữu ích? Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể, đã cho ta câu trả lời về vấn nạn này. Người Kitô hữu luôn được Chúa và Giáo hội mời gọi nhìn vào Đức Giêsu Kitô và nhìn lên Thập giá của Người để biết đón nhận và thánh hóa đau khổ của mình cũng như của người khác. 

Con người sinh ra và mất đi trong đau thương và nước mắt, hay nói đúng hơn hành trình của cuộc sống con người là một cuộc hành trình trong đau khổ và với mọi người cũng không là ngoại lệ. Bởi biết rằng không sớm thì muộn ai cũng sẽ gặp phải đau khổ như vịnh gia đã cho biết “phần lớn cuộc đời là gian lao khốn khổ”. “Nhưng với mỗi người đau khổ không chỉ là không thể tránh được, mà nó còn điều có ích để chúng ta trưởng thành hơn nếu được gửi đến một cách đúng lúc”.[54] Mặt khác người Kitô hữu cũng nhận ra rằng Thiên Chúa có thể rút ra điều lợi ích trong mọi sự, xấu cũng như tốt. Chính vì thế mà Người là Thiên Chúa, và Người là “Cha Toàn năng” như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Bởi vậy khi trao cho ta sự đau khổ là Thiên Chúa đã có chương trình của Ngài cho chúng ta.

1.        Tìm ý nghĩa của đau khổ

Sách sáng thế đã cho ta biết ngay từ đầu Thiên Chúa đã sáng tạo muôn loài cách tốt đẹp. Nhưng trước những đau khổ trong cuộc sống niềm tin con người luôn bị chất vấn Thiên Chúa là Đấng nhân từ và quyền năng tại sao lại để cho đau khổ xảy ra với con người? Để tra lời cho câu hỏi này ta phải nhìn nhận rằng Thiên Chúa không chỉ là Đấng toàn năng mà Ngài còn là Đấng tự do tuyệt đối. Ngài không bị bỏ buộc tạo dựng vũ trụ. Thế giới không hiện hữu như một tất yếu, bởi vì Thiên Chúa không cần đến thế giới, do đó thế giới hiện hữu được chỉ là vì Thiên Chúa tạ dựng một cách tự do, nghĩa là chỉ vì tình yêu mà thôi.

Thiên Chúa tạo dựng thế giới vì người muốn cho các thụ tạo được tham dự vào sự giàu có và vinh quang của Người. Trong thế giới ấy, tuy con người là một thụ tạo bất toàn và mong manh nhưng là một thụ tạo duy nhất có tự do, có khả năng chọn lựa và khước từ. Vì tự do của con người gắn liên với thân phận mỏng manh, bất toàn nên tự do này cũng là một thứ tự do có giới hạn. Nên khả năng chọn lựa của con người cũng giới hạn. Thay vì hướng về điều thiện con người lại chon điều ác và khước từ tình yêu Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã diễn tả: điều tôi muốn thì tôi không làm còn điều tôi không muốn tôi lại làm[55], điều đó gây ra đau khổ cho bản thân và cho người khác. Đây là sự dữ mà các nhà thần học gọi là sự dữ luân lý, vì nó liên hệ đến tự do và trách nhiệm của con người. Còn đau khổ nơi thân xác con người cũng bị chi phối bởi tính giới hạn của mình, bệnh tật , già nua, cái chết là điều tất yếu của định luật tự nhiên. Trong thế giới hữu hạn, sự vận hành của con người và sự vật không thể tránh khỏi những “va chạm” và như vậy sẽ không tránh khỏi đau khổ.

Chúng ta còn phải đứng trước một câu hỏi khác: nêu Thiên Chúa là Đấng toàn tri đã thấy trước một thế giới hữu hạn, trong đó các tạo vật có thể phải chịu đau khổ, nhất là thấy trước sự sa ngã của con người, thì tại sao Ngài lại dựng nên một thế giới và một con người như thế? Phải chăng là sẽ tốt hơn nếu Thiên Chúa không tạo ra như thế thì sẽ tránh được đau khổ cho conn người?

Chúng ta thấy rằng, ông Gióp lúc đau khổ đến tột cùng, ông cũng đã nguyền rủa ngày ông chào đời và ước ao mình không hiện hữu trên cõi đời và ông đã buông lời than trách Đức Chúa “sao Người lại ban ánh sáng cho kẻ khốn cùng, ban sự sống cho ai ngậm đắng nuốt cay”(G 3,20). Trong thâm tâm con người đều ước ao được sống và sống hạnh phúc. Đây là một ước ao chính đáng bởi vì chính Thiên Chúa muốn cho con người “được sống và sống dồi dào”(Ga 10,10). Con người cũng là chóp đỉnh của công trình tạo dựng như thánh Irênê: vinh quang của Thiên Chúa là con người sống động. Thế nhưng có những lúc đau khổ đã làm cho con người thất vọng và có khi tuyệt vọng không còn muốn sống. Vậy đâu ý nghĩa đích thật của đau khổ?

Ý nghĩa của đau khổ

Cách chúng ta hơn hai ngàn năm, một tác giả Kinh Thánh Cựu Ước đã kể câu truyện về ông Gióp. Câu chuyện với mục đích là để nói lên tiếng kêu thống khổ của con người khi đứng trước đau khổ, nhưng đồng thời cũng nhằm giúp cho những ai đau khổ có thể đứng vững và vượt qua. Gióp là một người công chính, nhưng phải chịu không biết bao nhiêu đau khổ. Tuy nhiên, sau những giây phút phản tỉnh, hồi tâm lại ông Gióp thưa với Thiên Chúa: "Con hiểu rằng Chúa có thể làm được mọi sự, không gì mà Chúa không làm được, ai có thể dò thấu ý định của Thiên Chúa".[56] Với Thiên Chúa, tất cả mọi sự đều có nghĩa, dù đó là đau khổ, vì mọi sự đều nằm trong chương trình yêu thương của Ngài.

Khi nói rằng đau khổ là tham dự vào thập giá Đức Kitô có lẽ không ít người không tin và khó xác tín được. Đây là một huyền nhiệm vượt trên những gì con người có thể hiểu. Đau khổ và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu xóa bỏ tội lỗi cho cả nhân loại trong đó có chúng ta. Nhưng trong một cách thể nào đó chúng ta cũng được mời gọi bước theo Chúa trong suốt hành trình của cuộc sống dương thế, mà không thể không gặp phải những đau khổ trong cuộc sống. Trong cách thế nào đó chúng ta được mời gọi để “hoàn tất nơi mình những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô[57], Thiên Chúa đã ban cho ta hồng phúc được chia sẽ đau khổ với Con Một của Người, tức là tham dự vào thập giá của Người để được thông phần vinh quang với Người. Theo đó sự thông hiệp này giúp mở rộng ơn cứu độ trên thế giới, ơn cứu độ mà Chúa đã đem đến cùng với cái chết đau thương, đầy tủi nhục trên thập giá.

 Trong bức thư gửi giáo đoàn Do Thái chúng ta cũng đã gặp nhiều đoạn nói về sự đau khổ và thánh thiện mà Chúa Giêsu, đây là mô mẫu cho chúng ta, là mẫu gương cho ta hướng về mục đích :

Quả thật trong cuộc chiến đấu với tội lỗi , anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu. Anh em đã quên lời khuyên nhủ nói với anh em như nói với những người con. Con ơi, đừng coi nhự lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiến trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi vọt. (Dt 12,5-7).

Để cho chúng ta được thông phần vào mầu nhiệm thập giá và sự phục sinh của Chúa, Chúa đã cho chúng ta cảm nghiệm những đau khổ của Người, bằng những đau khổ mà Ngài gửi đến cho chúng ta. Bởi vì không có sự thành công và hạnh phúc nào mà không phải chịu đau khổ. Với người Kitô hữu, nhờ những đau khổ mà ta chịu ở đời này, nhờ được kết hợp với đau khổ của Chúa Kitô, Thiên Chúa sẽ thông ban cho ta sự sống của Người cho chúng ta. Khi chúng ta được gặp gỡ Người trong ánh sáng và sự phục sinh thì:

Mọi gian khó, đau khổ trên đường đời sẽ được coi là dự phần vào thánh ý tình yêu thương của Thiên Chúa để khơi mở tâm hồn chúng ta đón nhận tình yêu Người mãi mãi. Và như thế mọi đau khổ hiện tại thực sự chẳng đáng gì so với vinh qua trào tràn trên chúng ta khi chúng ta đối diện cùng Thiên Chúa.[58]

Thánh Grêgôrô Nazien trong tác phẩm “Đau khổ với Đức Kitô và cho Đức Kitô” đã viết thật chí lý rằng:

Nếu bạn là Simon thành Cyrênê, hay hãy vác thập giá theo Chúa Kitô, nếu bạn cùng đóng đinh cùng với Ngài giống như tên trộm, cũng hãy làm như kẻ trộm ấy; Hãy nhìn nhận Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu đã bị đối xứ như một kẻ ngoài vòng pháp luật, thì bạn hãy tuân giữ luật pháp vì Ngài. Hãy thờ lạy Đấng bị đóng đinh vì bạn dù chính bạn cũng đang chịu đóng đinh. Hãy lợi dụng chính tội lỗi của bạn! Hãy cùng chúa Giêsu bước vào thiên đàng để hiểu mình đã từ đâu rơi xuống.[59]

Như vậy chúng ta có thế nói rằng chính khi chúng ta chịu đau khổ là chúng ta đang kết hiệp với đau khổ của Chúa Kitô, nhưng sự đau khổ của chúng ta đang đón nhận trong cuộc đời tại thế này được thông phần vào vinh quang Phục Sinh với Chúa trong vinh phúc mai hậu. Quả thật, “một cuộc sống không có đau khổ, không phải chiến đấu chỉ có trên Thiên Đàng chứ không phải ở dưới thế này”.[60]

Tính ngôn sứ của đau khổ

Chính nhờ sự đau khổ của Đức Kitô mà sự đau khổ của con người được biến đối. Quả thực, “giữa những người khỏe mạnh, người đau khổ về thể xác sống như một chứng nhân, một ngôn sứ không ngừng nói lên rằng con người sinh ra cho đời sống vĩnh cửu từ những đau khổ và bất hạnh ở đời này”.[61] Khi một người bị đau khổ vì bệnh tật thể xác là lời nhắc cho người khác biết rằng, hạnh phúc con người quả thật mỏng manh và mỗi người sẽ khám phá ra sự thiếu thốn “bất tất” nơi chính mình. Thiên Chúa dùng người đau khổ để nói với người khỏe mạnh rằng, đời sống trần gian chỉ là đời sống tạm bợ, cuộc sống con người ở trần gian không có gì bảm đảm nhưng là một sự bất tất và mỗi người đang trên con đường lữ hành đi về nơi vĩnh cửu.

Cũng như Đức Kitô đã chết trên thập giá, người đau khổ vì bệnh tật là người chịu bất lực, nhưng lại có khả năng nói cho mọi người biết rằng “thật là lầm lẫn nếu họ sống gắn bỏ với thế gian, vì chính thế gian ngăn cản họ đến cùng Thiên Chúa. Con người chịu đau khổ tỏ ra có lý, vì đã tìm được một lẽ sống cho đời mình. Sự đau khổ được chấp nhận là cơ may để con người trở thành người hơn, nghĩa là hướng về Đấng Tuyệt Đối, Đấng có thế giải thoát con người”.[62] Hay đúng hơn Đấng đã chịu mọi nổi khổ đau vì con người và cho con người, Đấng là sự sống bất diệt, là Đấng cứu thoát con người khỏi mọi nỗi đau khổ. Đấng tuyệt mỹ và là Đấng duy nhất có thế hoàn tất con người trong cuộc sống dù cho cuộc sống có đau khổ.

Sự đau khổ cũng là phương thế để thanh luyện, thánh hóa và biến đối cuộc sống người bệnh cũng như người khác khi họ hiểu được sứ điệp của người bị đau khổ. Có những người đã hiểu được ý nghĩa của đau khổ, đặc biệt là sự đau khổ của những người vô tội, vì qua đau khổ họ đã trở thành chứng nhân của Thánh Thần. Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã viết trong tập sách “Đường Hy Vọng” rằng “đau khổ cùng cực con hãy nhìn lên thánh giá, ôm choàng lấy thánh giá và con  sẽ thinh lặng như Đức Mẹ”.[63] Quả thực chính đức hồng y là người đã phái trải qua biết bao đau khổ về thể xác và tinh thần khi ngài bị gian cầm trong nhà tù cộng sản. Và ngày nay ngài đã trở nên nhân chứng đức tin và hy vọng cho biết bao người. Để có được một niềm tin xác tín và phó thác như thế không phái là điều dễ dàng, tuy nhiên khi con người có được niềm xác tín như vậy thì họ sẽ gặp được Thiên Chúa.

Giá trị của đau khổ

Thánh Giacôbê đã cảm nhận sâu sắc giá trị của đau khổ, thánh nhân đã lấy làm vui mừng khi phải chịu thử thách. Ngài đã chia sẻ với các môn đệ rằng: 

Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi chịu thử thách trăm chiều, vì anh em biết rằng: đức tin vượ qua thử thách mới sản sinh lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, đế anh em nên hoàn hảo không thiếu sót điều gì (Gc 1, 2-4).

Vào những buổi đầu của Giáo Hội tiên khởi, các Kitô hữu hiểu được giá trị những thử thách mà Thiên Chúa gởi đến cho họ trong cuộc sống. Như một thành quả, tính cách các tín hữu tiên khởi luôn được phác họa bằng những nét vui tươi. Hơn nữa, dù đi khắp nơi như thánh Phaolô, hay ở lại như thánh Giacôbê, các ngài cũng nắm chắc một chân lý về hoạt động của Chúa, họ có cùng một cảm nghĩ đó là Chúa làm cho họ nên thánh qua những đau khổ. Đây là một nhận thức sáng suốt mà Chúa muốn cho chúng ta giờ đây cũng nhận ra như vậy.

Chúa Giêsu và các tông đồ đã nói về những đau khổ mà ta phải đối diện trên đường nên thánh, các ngài liên tục nhắc nhớ ta nhớ đến mục tiêu mà ta đang hướng tới. Các ngài khích lệ ta bằng viễn ảnh về những gì còn ở phía trước. Những đau khổ trên đường tiến bộ và thành quả sáng ngời là những điều thực tế.[64]

Vào thời các Tông Đồ, đau khổ và gian nan các tín hữu phải chịu, đó là sự bách hại, bị tra tấn, gian cùm nhưng những đau khổ và gian nan đó lại là niềm hãnh diện của các tín hữu khi họ được thông phần với Đức Kitô và mưu ích cho Hội Thánh như lời khẳng định của Thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu  tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24). Như vậy ta cũng có thể nói rằng giá trị đích thực của đau khổ hiểu theo nghĩa nào đó thì cũng là một cách để tôn vinh Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu đã phải chịu đau khổ đến tử nạn, nhưng sau khi Ngài phục sinh người Kitô hữu có thể nhìn đau khổ với một ý nghĩa mới. Thiên Chúa không tránh né đau khổ, Người đã chia sẽ đau khổ vơi những con người đau khổ và Chúa sẽ chuyển hóa những đau khổ con người đang chịu thành sự lành thánh như sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo đã trình bày “Thiên Chúa sẽ không cho phép sự dữ xảy ra nếu Người không rút được sự lành từ chính sự dữ, bằng những con đường mà chúng ta chỉ biết được trọn vẹn trong đời sống vĩnh cửu” (GLHTCG 324).

Vì vây con người có thể đi vào mầu nhiệm của ơn cứu độ bằng cách liên kết những đau khổ hiện tại với sự sống đời sau nhờ cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Khi chúng ta biết dùng đau khổ như phương tiện để hiệp thông với nỗi đau của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được kết hợp và dự phần vinh quang với Người. “Thiên chúa có thể làm phát sinh những điều tốt đẹp từ những hoàn cảnh tồi tệ (Gc 1,2-4). Thiên Chúa cho phép đau khổ tồn tại nơi con người thế nhưng Ngài cũng điều khiến và chế ngự nó”.[65] Thánh Philipphê Nêri đã từng nói rằng Thập giá là món quà Thiên Chúa dành tặng cho bạn hữu của Ngài. Như vậy khi gặp phải đau khổ là lúc chúng ta đang vác đỡ thập giá cho Đức Kitô, chúng ta cùng chia sẻ sứ mạng của Ngài. Vậy nên thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa nơi đau khổ của con người là muốn cho con người được kết hợp với Ngài để hướng vinh quang với Ngài. Vậy trước đau khổ chúng ta cần có thái độ nào?

2. Thái độ người Kitô hữu cần có trước đau khổ

Khi nói đến đau khổ ta biết có nhiều dạng thức làm cho con người ta cảm thấy bất lực. Bởi con người mang trong mình thân phận yếu đuối và bất tất, còn đau khổ là một thực tại nhưng biểu lộ dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu như đau khổ về thể xác làm cho con người nghĩ đến tuyệt vọng, đau khổ về tâm lý làm cho con người sợ hãi thì đau khổ về tâm linh lại làm cho người cảm thấy hoang mang, vì những đau khổ tâm linh sẽ đụng chạm đến người Kitô hữu trong niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Khi những đau khổ càng lớn thì thử thách về đức tin càng nặng nề hơn. Con người cảm thấy thảm hại hơn khi không thể tìm được lời giải thích thỏa đáng trong lúc mình đang gặp phải đau khổ. Thái độ đầu tiên mà con người thường nghĩ đến nhất là chạy trốn hay tìm cách để né tránh. Nhưng làm sao tránh được!  Với người Kitô hữu sống niềm tin tưởng vào Thiên Chúa thì thái độ lúc này hơn bao giờ hết chính là tín thác và tình yêu. Chỉ có đức tin và tình yêu được chiếu soi bởi mầu nhiệm thập giá của Chúa Giêsu mới có thể giúp con người tìm ra được lời giải đáp cho vấn đề đau khổ của mình. Bởi vì Đức Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ, đã phải nếm sự chết, chính là để cho mọi người được hướng ơn cứu độ.

Khi nói đến đau khổ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói rằng, đau khổ là một mầu nhiệm liên quan đến mầu nhiệm của tội đã được mặc khải trong Kinh Thánh. Ngài nói rằng “Thiên Chúa toàn nằng Đấng vô cùng tốt lành, hẳn không cho phép sự dữ nào xảy ra trong các công trình của Ngài... Nếu Ngài cho phép xảy ra chính là vì đau khổ cần cho sự cứu rỗi của nhân loại”.[66] Quả thật chỉ có nơi và trong Đức Giêsu, đau khổ và giải thoát gặp nhau vì cả hai liên kết với nhau. Và cũng chính trong Đức Giêsu, người đau khổ mới có thể tìm thấy câu trả lời dứt khoát cho những đau khổ họ đang gặp. Dù biết rằng người Kitô hữu không lấy đau khổ làm phương châm để sống. Kitô giáo không khuyến khích người ta tìm đau khổ, nhưng muốn mọi người biết đón nhận, thánh hóa và biến nó thành của lễ dâng lên Thiên Chúa.

Trong tác phẩm “bước qua ngưỡng cữa hy vọng” Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trả lời vấn nạn:

Tại sao Thiên Chúa không loại trừ đau khổ ra khỏi thế giới mà Ngài đã tạo dựng và tại sao Ngài cứ nhất định không loại trừ nó? Vậy phải chăng người ta lại không được phép nói đến một thứ bất lực của Thiên Chúa? Phải, Ngài trả lời;  ta có thể nói là Thiên Chúa bất lực trước tự do của con người. Ta có thể nói một cách nào đó Thiên Chúa trả giá cho tất cả những gì Ngài đã ban cho con người mà Ngài đã tạo dựng “theo hình ảnh và giống Ngài”(St 1,26) Ngài không đòi lại cái Ngài đã cho đi. Vì lý do ấy mà Ngài phải chịu để cho con người xét xử mình “Thiên Chúa luôn có mặt bên những con người gặp đau khổ. Quyền năng của Ngài biểu lộ qua việc Ngài tự ý chấp nhận đau khổ. Nếu Thiên Chúa không hấp hối trên thánh giá thì sự thật về Thiên Chúa là tình yêu sẽ chẳng bao giờ có thật.[67]

Người Kitô hữu nhận ra đau khổ thuộc về bản tính của con người, nhờ thấm nhuần giáo huấn và nhờ cảm nghiệm được từ con người và cuộc sống của Đức Giêsu. Bởi người Kitô hữu luôn được mời gọi đón nhận đau khổ như một phương thế kết hợp với con người Đức Kitô, Đấng đã dùng đau khổ và sự chết mà tôn vinh Thiên Chúa Cha. Điều này đã được thánh Phaolô nói tới trong thư thứ 2 của ngài gửi cho tín hữu Côrintô “chúng ta mang trong thân xác mình sự chết của Đức Kitô. Để sự sống của Người có thể được biểu hiện nơi thân xác chúng ta (2 Cr 4,10). Cũng như trong thư gửi tín hữu Epheso, thánh Phaolô cũng đã cho thấy rằng mỗi khi chúng ta bằng lòng với các yếu đuối của mình một cách quảng đại và anh hùng, người khi tô hữu sẽ lớn lên tới mức trưởng thành trong Đức Kitô ( Ep 1,23). Mặt khác khi ta đón nhận sự nghèo đói, sự đau khổ của tha nhân cũng là lúc ta đang góp phần làm giảm bớt những nỗi đau cho anh em mình theo cách thể mà Chúa Giêsu đã làm cho con người. Quả thực qua những đau khổ của mình, người kitô hữu trở thành hình ảnh và dấu chỉ của Chúa Kitô; bởi khi đến cứu chữa những người đau khổ. Đức Giêsu đã trở nên gương mẫu dẫn thân phục vụ người đau khổ qua mọi thời đại.

Đức Kitô đã không loại trừ đau khổ thậm chí Ngài đã không muốn mặc khải cho chúng ta trọn vẹn mầu nhiệm này: Ngài đã gánh lấy đau khổ trên mình và như thể cũng đã đủ để chúng ta hiểu được tất cả cái giá của sự đau khổ. Vị vậy những ai đang cảm thấy đau khổ của thập giá đè trên vai cuộc đời, những người nghèo khổ.. những nạn nhân của đau khổ là những người đang được Thiên Chúa nhìn đến. Là những người anh em của Đức Kitô đau khổ và như vậy sự đau khổ của những người đau khổ đang cùng với đau khổ của Đức Kitô cứu vớt thế gian.[68]

Cái nhìn tích cực trước đau khổ
            
- đón nhận như một hồng ân

Khi đọc Tin Mừng của thánh Gioan ta thấy  một câu chuyện về một người mù từ lúc mới sinh (xc.Ga 9) và các môn đệ đã bày tỏ quan điểm sự đau khổ theo sự thưởng phạt của Thiên Chúa nên đã hỏi Đức Giêsu : người này bị mù là do tội anh ta hay tội cha mẹ anh ta truyền lại. Đức Giêsu đã  nói cho các môn đệ biết sự đau khổ  không theo cách thức như người ta nghĩ. Ngài cho biết trường hợp người mù từ lúc mới sinh là để “công trình Thiên Chúa được bày tỏ” (Ga 9,3)  điều này chúng ta chỉ có thể chấp nhận trong niềm tin bởi thật khó khăn khi đứng trước nỗi khổ đau của một con người mà ta lại có ý nghĩ  rằng đây là cách thế để công trình Chúa được thực hiện, là điều tốt lành mà Chúa đang thực hiện cho ta. Bởi theo tính tự nhiên không ai trong chúng ta lại muốn đau khổ về mình nhưng luôn tìm cách để né tránh. Thế những xét theo một khía cạnh nào đó  về thể lý thì đau khổ cũng có thể giúp cho ta khẳng định được con người mình hơn.

 Trước hết qua những đau khổ giúp cho con người sống khỏe mạnh và tràn đầy nhiệt huyết hơn, hay nói cách khác chính đau khổ sẽ hướng dẫn chúng ta sống một cách khôn ngoan hơn. Không có đau khổ chúng ta sẽ sống như một kẻ ngu ngốc, làm ngơ trước những nhu cầu căn bản của mình, và luôn mong và tìm kiếm những mục tiêu mà không bao giờ ta đạt tới, sống một đời sống vô trật tự.

Đau khổ cũng giúp cho con người khẳng định được bản lĩnh của mình. Rõ ràng con người chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn khi chúng ta đối diện với đau khổ mà cuộc sống mang đến. Trong đau khổ bản lĩnh của chúng ta được hình thành trui rèn, chúng ta học để vươn lên trên sợ hãi. Bởi vậy nếu cuộc sống con người thiếu đau khổ con người sẽ trở nên yếu đuối và không thích hợp trong việc đối diện với cuộc sống thực tế. Bởi vì họ phải vật lộn để chiến thắng thách đố và đau khổ. Đây là những trận chiến rất quan trọng và mang tính quyết định đưa đời sống ta gắn chặt với đời sống Đức Giêsu.

Đức Giêsu nuôi sống người đói, chữa lành người bệnh, khuyên nhủ người thất vọng, mang tình yêu vào trong sự cô đơn, dạy dỗ những người ngu muội, mang niềm vui đến cho những ai buồn khổ. Công cuộc cứu chuộc của Người không chỉ là một lời gọi hy vọng vào trong một thiên đàng hoàn hảo được tìm thấy bên cái chết.[69]

Như thế, người Kitô hữu ý thức rằng cuộc vật lộn của họ chống lại đau khổ được chia sẻ bởi sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn ở với họ trong cuộc chiến đấu chống lại đau khổ và như vậy họ ở trong tâm thế chủ động, tích cực và không dao động.

Tình yêu trong đau khổ

Dù trong những hoàn cảnh thăng trầm bi đát nhất thì người tín hữu cũng không thất vọng, nhưng sẽ có một chiều kích hy vọng để vượt trên tất cả. Đau khổ không là tiến trình làm tròn đầy mục tiêu tốt nhưng là phương tiện giúp người tín hữu vươn tới mức thập toàn. Thập giá của Đức Giêsu ở đó và những thập giá được mang bởi nhân loại cũng sẽ ở đó.

Sự hiện diện của chúng ta không là vấn đề của đau khổ nhưng là vấn đề của vui sướng. Bởi vì vào lúc đó điều rõ ràng là nhờ  ân huệ của Thiên Chúa những thập giá và đau khổ đã mang đến một thành tựu huy hoàng”.[70]

Sự dữ là tội lỗi xuất hiện khi con người lạm dụng tình yêu và tự do Thiên Chúa ban. Nói khác đi, luật tình yêu bao hàm tự do, vì tình yêu chân thật không thể được xây dựng nên từ sự cưỡng bách. Khi luật tình yêu và tự do được áp dụng, thì sự dữ và tội lỗi cũng thâm nhập vào cuộc sống con người. Qua cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu, sự dữ và tội lỗi cũng được gói trọn trong tình yêu của Thiên Chúa, vì chúng cũng là một trong các đối tượng của công nghiệp cứu rỗi của Chúa Giêsu. Qua cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa mời gọi con người đứng về phía Người trong trận chiến đấu chống lại sự dữ và tội lỗi, bằng khí giới yêu thương.

Thiên Chúa ban cho con người một khối óc, đôi cánh tay và một trái tim, đó phải chăng không là biểu hiện của tình yêu quan phòng của Người? Với khối óc ấy, với đôi cánh tay ấy, với trái tim ấy, lẽ ra không một ai trên thế giới này phải nghèo khổ và chết đói. Mộ sự xúc phạm đến Thiên Chúa chính là để cho biết bao người phải quằn quại trong đói khổ. Sự đói khổ của phần lớn nhân loại không phải vì Thiên Chúa không quan phòng săn sóc, mà bởi vì con người không nhận ra sự quan phòng ấy và chia sẻ sự quan phòng ấy với đồng loại cùa mình. Sự đói khổ của phần lớn nhân loại không phải vì Thiên Chúa vắng bóng trong cuộc sống con người, mà bởi vì con người muốn loại bỏ Người ra khỏi cuộc sống. Khi con người không còn nhận ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, con người cũng chối bỏ luôn đồng loại của mình. Đây là một thảm họa gây ra bao đau khổ!

Kinh nghiệm trong cuộc sống nhiều khi làm cho chúng ta có thái độ e dè, thủ thế. Đôi lúc chúng ta cố gắng sống yêu thương, nhưng rồi chúng ta chỉ gặp toàn lừa đảo, phản bội. Từ đó, trái tim của chúng ta trở nên chai lì, tâm hồn chúng ta trở nên lạnh giá. Chúng ta sợ yêu thương, sợ tin tưởng nơi người khác. Hận thù là phản nghĩa của tình thương. Vì sợ hãi khiến người ta không dám yêu thương hoặc khước từ yêu thương, điều này làm cho thế giới ngày càng giá lạnh, cõi lòng con người thêm cô đơn.

Chính tình yêu nơi Đức Giêsu đã sưởi ấm cõi lòng giá lạnh đó. Chúa đến và ném lửa tình yêu ấy vào cuộc đời (xc. Lc 12,49-51). Chúa Giêsu là chính sự cảm thông, Người luôn tìm đến với những người mà xã hội quên lãng hay loại ra bên lề. Người cảm nhận được những gì con người cảm nhận. Người đau với nỗi đau của con người, Người chạm đến hạng người mà không ai muốn chạm đến. Khi được chính Đức Giê su chạm đến cõi lòng và chữa lành đau khổ trong mỗi chúng ta, đến lượt chúng ta cũng phải nghĩ đến những người khác cũng đang quằn quại trong cô đơn như chính mình.

Bên cạnh chúng ta có biết bao người đang cô đơn trong cái thế giới đau khổ này, trong đó hàng triệu triệu con người đang cọ xát vào nhau, chồng chất lên nhau mà vẫn không hề gặp nhau. Đây không phải là một thế giới mà Chúa muốn, và chính chúng ta cũng không muốn một thế giới như vậy. Chúa đã đến qui tụ các con cái tản mát khắp nơi thành một gia đình duy nhất. Thì làm sao để nỗi đau khổ của chúng ta gợi lên cho chính chúng ta nỗi đau khổ của người khác; để tiếng kêu của họ mạnh hơn tiếng kêu của mình. Khi đó chúng ta sẽ hiểu rằng chỉ có một liều thuốc chữa trị nỗi cô đơn của con người nhân loại, đó là ra đi gặp gỡ người khác và chữa trị nỗi đau khổ của họ.

3. Mục vụ cho người đau khổ

Đồng hành với người đau khổ

Bệnh tật và đau khổ là những thử thách nặng nề nhất trong cuộc sống con người. Khi đau khổ, con người cảm nghiệm sự bất lực, giới hạn và hữu hạn của mình, khiến họ ý thức hơn về cái chết (xc. GLCG số 1500). Đau khổ có thể làm cho con người xao xuyến, yếm thế, đôi khi đưa tới tuyệt vọng và nổi loạn chống lại Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho họ chín chắn hơn, nhận ra những điều phụ thuộc trong cuộc sống để biết quay về những điều chính yếu, hối thúc họ tìm kiếm và quay về với Thiên Chúa (xc. GLCG số 1501).

Tuy nhiên, đau khổ có thể trở thành con đường hoán cải và đau khổ cũng có giá trị chuộc tội.[71] Đức Kitô cảm thương người bệnh tật và chữa lành nhiều kẻ yếu đau (x. Mt 7, 24), Người còn tha tội (x. Mc 2, 5-12). Người đến chữa lành con người cả hồn lẫn xác, Người là lương y mà bệnh nhân tìm đến (x. Mc 2, 17), Người muốn đồng hoá với họ: “Ta đau yếu, các ngươi đã chăm nom” (Mt 25, 36) (GLCG số 1503). Chính Đức Kitô còn muốn nhận lấy những đau khổ của họ : “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (x. Mc 1, 41 ; 3, 10 ; 6, 56). Cao cả nhất, trên thánh giá, Người “xoá tội trần gian” (Ga 1, 29) mà bệnh tật chỉ là một hậu quả. Ngoài ra, khi chịu nạn chịu chết trên thánh giá, Đức Kitô đã đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ : giúp chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Người và liên kết chúng ta với cuộc khổ nạn cứu độ của Người (GLCG số 1505).

Khi theo Đức Giêsu, người môn đệ đã được tham dự vào sứ mạng cảm thương và chữa lành (x. Mc 6, 12-13). Chính vì vậy, mục vụ bệnh nhân là một sứ mạng cao quí của người môn đệ Chúa. Đây là một đòi hỏi nơi mọi người không phân biệt chức vụ, địa vị, giới tính… không chỉ dành riêng cho các giáo sĩ, các cộng đoàn dòng tu chuyên về phục vụ bệnh nhân. Lúc cần thiết như trong thời Covid, sự quảng đại dấn thân phục vụ bệnh nhân là một tấm gương rõ nét về tình yêu thương noi gương Đức Giêsu. Thời đại chúng ta một mẫu gương tiêu biểu là Mẹ Têrêsa Calcutta, Mẹ là tấm gương đồng hành với người đau khổ, dù Mẹ chỉ làm một phụ nữ nhỏ bé. Nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Têrêsa một môi trường đặc biệt để Mẹ trở thành người Samaritanô nhân hậu của thời đại.

Cuộc đời Mẹ Têrêsa hoàn toàn theo dấu chân Chúa Giêsu - vị Mục Tử đầy Lòng Thương Xót. Giữa lúc quằn quại trong cuộc đời tưởng như tuyệt vọng thì Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài, Đức Giêsu Kitô, đến băng bó và chữa vết thương ấy. Chúa Giêsu chính là hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, là “dung mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha”.[72] Nơi Ngài, “lòng thương xót đã trở nên sống động, hữu hình, và đạt đến tột đỉnh”. Khi chăm chú ngắm nhìn Chúa Giêsu và dung mạo lòng thương xót của Người, chúng ta có thể cảm nhận được tình yêu của Ba Ngôi Chí Thánh. Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ Chúa Cha sứ vụ mặc khải trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. “Thiên Chúa là tình yêu”.[73] Con người ngày nay cũng đang bị “đánh bầm dập” bởi tội lỗi, lòng ích kỷ, sự hận thù, bởi tính thờ ơ hầu như vô cảm đối với nhau. Cuộc đời này vẫn vậy, vẫn cần những con người dám hy sinh để bày tỏ lòng thương xót của Thiên  Chúa cho anh chị em mình, theo lời dạy của Chúa Giêsu,  mà Mẹ Têrêsa là một mẫu gương tuyệt vời.

Lắng nghe và thấu cảm

Thánh John Henry Newman khi còn là hồng y đã từng nói rằng nếu không thực hành lời yêu thương của Chúa Kitô, chúng ta sẽ không thể là môn đệ đích thực của Ngài; và chúng ta sẽ không yêu mến Chúa nếu không tràn đầy lòng biết ơn và không cảm nghiệm mạnh mẽ những đau khổ Ngài đã phải chịu vì chúng ta. Thật vậy, có lẽ không ai có thể đạt thấy tình yêu của Đức Kitô nếu họ không cảm thấy tuyệt vọng, kinh hoàng khi nghĩ đến những đau khổ đắng cay Ngài đã chịu, và nếu không cảm thấy hối hận bởi đã góp phần vào đó qua các tội lỗi của mình. Khi đau khổ xảy đến với con người, mỗi người sẽ có những cảm nghiệm khác nhau. Với người Kitô hữu “khi đau khổ xảy đến thì điều làm cho họ đau khổ hơn hết không phải là chính đau khổ cho bằng việc ta khước từ nó. Bởi họ nhận ra rằng cùng với sự đau khổ này, họ đã thêm một sự đau khổ khác, sự khước từ, nổi loạn, oán giận lo âu của ta làm cho ta thêm đau khổ hơn. Trái lại khi ta có ân sửng để chấp nhận thì đau khổ ít đau khổ hơn như cha Thánh Gioan Vianey - Cha sở họ Ars đã nói “đau khổ trong an bình sẽ chẳng còn đau khổ nữa”.[74] Điều này rất với thực tế với cuộc con người. Thế nhưng với người tín hữu có niềm tin vững mạnh, họ luôn cảm thấy bình an khi phải đối diện với đau khổ trong cuộc sống. Hay nói đúng hơn nhờ liên kết với đau khổ mà họ đã tìm được sức mạnh của nội tâm, như Kinh Thánh đã nói “ châu lệ là cơm bánh đêm ngày”.[75] Bởi Thiên Chúa luôn trung thành và ban những ơn cần thiết cho chúng ta để chúng ta thắng vượt những khó khăn đau khổ trong cuộc sống. Mặt khác khi đã biết kết hợp với Chúa trong cuộc sống và thánh hóa mọi thời khắc sống trong ngày, khi đau khổ xảy đến họ không lo sợ, không tìm cách đề phòng cách thái quá, họ chỉ tìm các phương pháp theo sự khôn ngoan mà Chúa soi sáng, ngoài ra các Kitô hữu phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng định liệu. Khi đau khổ xảy đến họ dâng sự sống mình cho Chúa làm của lễ hy sinh, xin Ngài định liệu về thân xác mình cách nào cho sáng danh Chúa hơn.

Trạng thái tâm hồn không thay đối của họ là đức phó thác hoàn toàn theo thánh ý Chúa. Phó thác trong con đau khổ, phó thác cả trong những hoàn cảnh xung quanh và cả những hậu quả sẽ xảy đến”.[76] Và chính khi họ vui vẻ chịu đựng những đau khổ cũng là lúc mà Chúa đang thực hiện nơi họ một kể hoạch yêu thương đối với họ mà chỉ có họ mới nhận ra.

Hiện diện với người đau khổ,
            trở nên
bàn tay trái tim

Đại dịch Covid-19 trên thế giới làm cho nhân loại như tê liệt, rất nhiều anh chị em đã mãi mãi lìa xa cuộc đời, tuy nhiên cái chết dường như chưa phải là đau khổ nhất, nhưng là sự ra đi trong cô đơn, một sự “cô đơn chết chóc” đáng sợ hơn cái chết nữa! như thế chúng ta mới cảm nhận sự hiện diện và sự gần gũi để nâng đỡ nhau trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời quý giá biết bao. Với những người đau khổ, sự hiện diện của người thân và bạn bè chính là lời động viên, sự an ủi và chia sẽ thiết thực nhất.

Đứng trước sự dữ và đau khổ thì không có biện minh nào có thể chấp nhận được, chẳng có lời nào có thể an ủi hay thoa dịu nỗi đau. Có lẽ lời thơ của Nguyễn Tất Nhiên diễn tả rất đúng: “Đám ma chiều tiễn đưa, nói năng chi cũng thừa”. Vì thế, đứng trước đau khổ đừng nói nhiều, nhưng hãy thinh lặng, hãy nói bằng con tim, bằng ánh mắt, bằng đôi tay. Hãy là đôi chân cho người què, là đôi tay cho người cụt tay, đôi mắt cho người mù.[77] Có lẽ hình ảnh các thiện nguyện đi phục vụ nơi các bệnh viện dã chiến là một điểm sáng, phản ánh rõ nét đức ái Kitô giáo, sự hiện diện ấy chính là sự hiện diện của Chúa Kitô, là bàn tay nối dài của Thiên Chúa đụng chạm đến người đau khổ, là trái tim để an ủi người bệnh trong lúc cô đơn nhất. Khi ấy chúng ta đã cho Thiên Chúa mượn những đôi bàn tay, để Người chữa lành những vết thương thể xác lẫn tâm hồn, mượn những đôi chân để Người đi đến với những con người đau khổ bị bỏ rơi.


KẾT LUẬN

Joseph M. Marshall III trong tác phẩm Keep going (Không chùn bước) đã nói rằng : “Cuộc sống là một hành trình đầy khó khăn và thử thách. Ẩn trong mỗi khó khăn là cơ hội cho ta khám phá sức mạnh bản thân để vượt qua những sóng gió cuộc đời. Đúng vậy, đau khổ chính là thử thách để tôi luyện đức tin. Chính Thánh Phêrô trong thư thứ nhất cũng đã xác minh: những thử thách đó nhằm tôi luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội... (x 1 Pr 1,6-9). Con người được Thiên Chúa dựng nên là để hướng lời chúc phúc hay nói đúng hơn là để được hướng hạnh phúc. Thế nhưng đau khổ dù là gì hay dưới dạng thức nào thì vẫn luôn là đau khổ!

Rõ ràng, chúng ta thấy đau khổ là một “mầu nhiệm”, dù con người có cố gắng vùng vẫy để giải đáp thì cũng chẳng giải quyết cách triệt để. Do đó, người tín hữu cũng như mọi người khác, vẫn phải đối diện với sự thật này là đau khổ vẫn có đó. Đây quả là một sự thật kinh khủng đầy mâu thuẫn và rất khó vượt qua! Nhưng vượt trên sự hiện hữu đau khổ, người Kitô hữu vẫn khẳng định Thiên Chúa hiện hữu, toàn năng và đầy yêu thương, Người vẫn ở bên chúng ta trong Đức Kitô.

Đức Giêsu, Con Một Thiên Chúa, Người đã chịu đau khổ thay và với con người, Người đã đón nhận đau khổ với sự tín thác tột cùng vào tình yêu quan phòng của Chúa Cha, để tiêu diệt sự chết và đau khổ. Như vậy chúng ta khám phá ra chiều kích Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu để chiến thắng sự chết và đau khổ. Quả thật quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu biểu lộ qua việc Ngài tự ý chấp nhận đau khổ trên Thập giá. Thiên Chúa hấp hối và chết trên Thập giá vì yêu là một minh chứng rõ ràng và chắc chắn nhất cho đức tin và niềm hy vọng của người Kitô hữu trước đau khổ. Do đó, Người là quy chiếu, là đá tảng vững vàng để chúng ta xây dựng đời sống đức tin trên hành trình trần thế. Bởi vậy, khi tình yêu tín thác vào Thiên Chúa yêu thương và quyền năng đã vững chắc, thì vấn đề đau khổ của con người, dẫu là mầu nhiệm, cũng không còn gây cho chúng ta buồn phiền cay đắng nữa.

Đứng trước sự dữ và đau khổ thì không có biện minh nào có thể chấp nhận được, chẳng có lời nào có thể an ủi hay thoa dịu nỗi đau. Bởi vậy, như lời của Đức Hồng y Veuillot chúng ta hãy im lặng, hãy hiện diện cùng với anh chị em đang đau khổ và thể hiện sự chia sẻ bằng bằng con tim, bằng ánh mắt, bằng đôi tay, bằng hành động thiết thực. Chúng ta lấy đức tin, cụ thể bằng đức ái là để Thiên Chúa dùng chúng ta như những đôi bàn tay, để Người chữa lành những vết thương thể xác lẫn tâm hồn, mượn những đôi chân để Người đi đến với những con người đau khổ bị bỏ rơi. Để đau khổ của anh chị em dù như đêm tối dày đặc sẽ trở nên ánh bình minh của niềm hy vọng. Để không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.

Đức tin Công Giáo không lấy đau khổ làm phương châm sống, cũng không khuyến khích người ta đi tìm đau khổ, nhưng muốn mọi người biết đón nhận, thánh hóa và biến nó thành của lễ dâng lên Thiên Chúa. Đức nguyên Giáo hoàng Benêđictô XVI, khi còn là Hồng y Joseph Ratzinger, cũng nói: “Niềm tin không đi tìm đau khổ, nhưng nếu không có khổ nạn, sự sống không đạt được sự trọn vẹn, bị đóng cửa trước sự viên mãn của mình”.


[1] ĐTC Gioan Phaolô II, Thông điệp Salvifici Doloris – Ý nghĩa của đau khổ, số 2.

[2] Xavier Thévenot, Đau khổ và hạnh phúc- Souffrance, bonheur et éthique,  
 
Lm. Đặng Xuân Thành chuyển ngữ, Nxb. Tôn giáo 2008, tr. 8.

[3] R. Veritas, Bạn muốn biết - Tìm hiểu sống đạo giữa đời, tr. 193.

[4] Xc. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, Giáo Hoàng Học Viện PIO X, 1973, tr. 457-467.

[5] Xc. GLHTCG số 1521.

[6] Xc. St 3, 1-19; Rm 5,12

[7] Xc. Is 53

[8] Xc.HĐGM VIỆT NAM - Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin – Ban Từ Vựng Công Giáo, Từ Điển Công Giáo, Nxb Tôn Giáo, 2016, Mục từ: Đau khổ.

[9] Réné Latourelle. SJ, Con người và các vấn đề của con người trong anh sáng Đức Kitô, Lm Nguyễn Hữu Phương chuyển ngữ, Nxb Hồng Đức, 2016, tr. 143.

[10] St 3,16

[11] St 3,17

[12] R. Veritas, Bạn muốn biết, tr. 193.

[13]  G 1,13-19

[14] G 2,9

[15] G 2,10

[16] G 2,20

[17] Guy Joyyal, Tình yêu và đau khổ, dịch giả:Trần Khánh Hưng. AA,
  
Nxb Tôn Giáo, 2007, tr. 65.

[18] Xc. Is 42,1-7 ; 49,1-7 ; 50,4-9a ; 52,13 – 53,12.

[19] Xc. Kinh Thánh, ấn bản 2011, bản dịch của nhóm CGKPV, Phần
   dẫn nhập sách ngôn sứ Isaia.

[20] Is 53, 6-8.

[21] Dt 5, 7-9

[22] Is 52, 13-53,12

[23] R. Veritas, Bạn muốn biết, tr. 196.

[24] Ga 9, 2-3

[25] Mt 8, 17

[26] Xc. Lc 11, 15

[27] Mt 27, 46

[28] Xc. Xavier Thévenot, Đau khổ và hạnh phúc - Souffrance, bonheur et
  éthique
, Lm Đặng Xuân Thành chuyển ngữ, Nxb Tôn Giáo 2008, tr. 46.

[29] Mt 26, 39. 42

[30] Xc. Ibid., tr. 32-48.

[31] Lm. Đaminh Nguyễn Đức Thông. CSsR, Thần học luân lý căn bản,
  
Nxb Đồng Nai, 2019, tr. 262.

[32]Xc. Công Đồng Vatican II, Sứ điệp của Công Đồng Vaticanô II gửi người
 
nghèo, bệnh tật và đau khổ, số 26-27.

[33] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, số 8.

[34] Gioan Phaolô II, Thông điệp Salvifici Doloris - Ý Nghĩa Đau Khổ
   theo Kitô giáo,
số 8.

[35] ĐTC  Bênêđictô XVI, Sứ điệp Phục Sinh - Urbi et Orbi -  Lễ Phục Sinh 2007.

[36] Lm. Nguyên Hồng, Đau khổ một thách đố niềm tin, 2007, tr. 5-9.

[38]  Rm 8, 20.

[39] Xc. Lm. Giuse Đinh Thanh Bình, Lạy Chúa! Tại sao Ngài im Lặng,
   Tủ sách Dân Chúa, 1995, tr. 33-34.

[40] Xc. Albert Camus, La Peste, Gallimard 1947, dịch giả Nguyễn Trọng
   Định, Nxb Văn Học, 2002, tr. 375.

[41] 1 Cr 1,25

[42] Xc. Thời sự thần học, số 31, 2003, tr.7-27.

[43] Xc. Lm. Vương Đình Bích, Phải chăng Thiên Chúa thích sự đau khổ,
   Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 6-7.

[44] Ibid., tr. 6-7.

[45] Bênêdictô XVI, TĐ Deus est Cariatas – Thiên Chúa là Tình Yêu, số 12.

[46]Xc. Thời sự thần học, số 7, 1997, tr. 32-43.

[47] Xc. Giovanini Martinetti, Đau khổ: vấn đề gai góc, dịch giả : Catherine
   Nguyễn, 1995, tr.42-43.

[48] Ibid., tr.10-11.

[49] Lm. Nguyên Hồng, Đau khổ - một thách đố cho niềm tin, 2007, tr. 36.

[50] Xc. Xavier Thevenot, Đau khổ và hạnh phúc- Souffrance, bonheur et éthique, tr.58-64.

[51] Xc. Dominique Morin, Sđd., tr. 225

[52] Xc. Albert Camus, La Peste, Gallimard 1947, dịch giả Nguyễn Trọng
   Định, Nxb. Văn Học, 2002, tr. 375

[53] Xavier Thévenot, Đau khổ và hạnh phúc - Souffrance, bonheur
    et éthique
, tr. 32.

[54] Montfort Phạm Quốc Huyên O.Cist, Cuộc đời là một chuyển đi, Nxb
  
Phương Đông, 2016, tr. 137.

[55] Xc. Rm 7,15.19

[56] Www.vietcatholic.org, Nghĩa Cử Yêu Thương, Vấn đề đau khổ (Những bài suy niệm hằng ngày theo chủ đề của Đài Phát thanh Chân lý Á Châu - Radio - Veritas Asia).

[57] Xc. Cl 1,24

[58] Ralph Martin, Ơn gọi nên thánh, Bonaventura Maria TC chuyển ngữ,
  
Nxb Ignatius Francisco, 1999, tr. 202.

[59] Bài Đọc Kinh Sách, Quyển 1, Nhóm Phiên Dịch CGKPV, Nxb Tôn Giáo,
   2008, tr.652-653.

[60] Jacques Plilippe, Tự do nội tâm, Nữ Biển Đức chuyển ngữ, Nxb
   
Tôn Giáo, 2007, tr. 53.

[61] Réné La TouRelle. SJ, Con người và các vấn đề của con người trong ánh
 
sáng Đức Kitô, tr.152.

[62] Ibid., tr. 153.

[63] Fx. Nguyễn Văn Thuận, Đường hy vọng, Nxb không, 1991, số 694.

[64] Ralph Martin, Ơn Gọi Nên Thánh, Dịch giả: Bonaventura Maria TC,
   
Nxb Ignatius Francisco, 1999, tr. 196.

[65] Peter Kreeft, Chúng tôi hỏi Chúa trả lời, Fx. Nguyễn Anh Tân. OP
  
chuyển ngữ, 2018, tr. 74.

[66]  Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium VitaeTin Mừng Sự Sống, số 23.

[67] Nguyễn Đăng Trực. OP, Lý học về Thượng Đế, TTHV Đaminh, tr. 68.

[68] JB. Nguyễn Đăng Trực, Sđd, tr. 69.

[69] Michael D. Moga, Trong sự tìm kiếm tôn giáo đích thực, Lm.  Lê Đình Trị   
 
dịch, Nxb Phương Đông,  2014, tr. 227.

[70] Ibid., tr. 228.

[71] Xc. Is 53, 11; GLCG số 1502.

[72] Phanxicô, Tự sắc Misericordiæ Vultus - Dung Mạo Lòng Thương Xót, số 4.

[73] 1 Ga 4, 8.16.

[74] Jacques Philippe, Tự do nội tâm, Nữ Biển Đức chuyển ngữ, Nxb Phương
  
Đông, 2007, tr. 48.

[75] Tv 80,6

[76] Jos Schrijvers. CSsR, Đời tận hiến, Hồng Chung dịch, Nxb Tôn Giáo,
  
2010, tr. 140.

[77] Lấy ý của ca từ bài hát “Chính Chúa chọn con” sáng tác của Hồng Bích.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn