Bênađô Maria Nguyễn Hồng Lâm,
Dòng Đức Mẹ Người Nghèo
DẪN NHẬP
Trận đại dịch Covid 19 đã làm
cho con người rơi vào tình thế khó khăn, xã hội thay đổi chóng mặt, đời sống đức tin của những người tín hữu có thể nói rơi
vào khủng hoảng. Nhiều câu hỏi được đặt ra ngay trong thời buổi này: tại sao
Thiên Chúa yêu thương lại cho cơn đại dịch tới làm cho nhiều người phải chết? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại để cơn dịch kéo dài năm
này qua năm khác mãi mà không chấm
dứt?... Trước thử thách, nhiều người cảm thấy khủng hoảng không còn tin vào Thiên Chúa nữa, họ cho rằng Ngài là một Thiên Chúa không để ý tới con người
trước những gì đã và đang xảy ra. Vì thế, nhạc sĩ Hiền Hòa trong lời bài hát
“Cho con thấy Chúa”,
phần nào đã nói lên tâm trạng này:
Đời con như
chiếc thuyền trôi,
lênh đênh xuôi ngược
dòng đời,
sóng ba đào xô lấp bủa
vây,
giữa dòng con chới với
tả tơi.
Sao con không thấy Chúa
đưa bàn tay đỡ nâng đời
con?
Để mình con chèo chống,
này thuyền con sắp tan
giữa dòng.
Quả là khó khăn khi đức tin chịu thử thách quá lớn như vậy. Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Vào thời điểm những biến động lớn lao đang trải qua, chúng ta bỏ đức tin cũng như bỏ một bình nước thánh trong nhà thờ.[1]
Là người tín hữu, chúng ta phải có cái nhìn thế nào khi
phải đối diện với cơn đại dịch này? Người quá khích cho đó là quả báo của những
người tàn ác, chống lại Thiên Chúa. Người đạo đức cho rằng đó là dấu chỉ để mời
gọi họ trở về với Thiên Chúa. Không ít người van xin Thiên Chúa soi sáng cho
các nhà nghiên cứu tìm ra phương thước chữa trị. Trên hết, chúng ta tin rằng dù
khổ đau, bệnh tật Thiên Chúa không bỏ con người.
1. Những biểu hiện thường gặp
nơi người khủng hoảng đức tin
Đức tin là một phần trật tự tinh thần của con người, nó
ảnh hưởng trực tiếp đến các lãnh vực khác của cuộc sống. Đối với người có niềm tin Kitô giáo sâu sắc, điều quan trọng
là phải biết rằng chúng ta nhờ niềm tin mà có được sự trợ giúp thiêng liêng trong thời điểm khó khăn. Ngày hôm nay do chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid, tại các gia đình và giáo xứ các bạn trẻ một cách nào đó
đang giảm dần đời sống thiêng liêng một cách trầm trọng, từ đó dẫn đến việc đánh mất ý
nghĩa cuộc sống.
Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở các bạn trẻ rằng:
Các bạn trẻ thân mến, các con hãy tự dấn thân làm nên Giáo hội. Vì thế,
các con càng đi sâu vào hiệp thông với Chúa Giêsu: nhờ phụng vụ, giáo lý đời
sống huynh đệ trong cộng đoàn, các con hãy khiêm tốn và quảng đại tham gia các
sinh hoạt của giáo xứ, các đoàn thể”[2].
Nếu chúng ta biết làm được như vậy đời sống đức tin sẽ
thăng tiến không còn èo uột, cuộc sống của chúng ta trở nên vui tươi phấn khởi,
cho dù đại dịch Covid có ập tới lúc đó chúng ta mới nhận ra ý nghĩa của cuộc
sống giá trị như thế nào.
Nghi ngờ và không biết đặt
niềm tin vào ai
Khi chúng ta nghi ngờ về đức tin là chúng ta nghi ngờ vào
tình yêu thương của Chúa, không còn tin
tưởng tuyệt đối nơi Ngài. Trong Công đồng Vaticanô II các nghị phụ đã công nhận sự mặc khải của Thiên Chúa có tính
cách siêu nhiên. Căn cứ vào những đề luận sai lầm và rất phổ biến, lối phê bình
duy lý thời ấy đã chống đối đức tin và phủ nhận tất cả mọi nhận thức không phải
là thành quả của những khả năng tự nhiên của lý trí. Điều đó làm cho Công đồng
tái khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, ngoài nhận thức riêng mà lý trí nhân loại
cứ sức tự nhiên có thể nhận biết Đấng tạo thành, còn có một nhận thức riêng
biệt của đức tin. Sự nhận thức này giãi bày một chân lý, đặt nền tảng trên
chính việc Thiên Chúa tự mặc khải chính mình và là một chân lý rất chắc chắn vì
Thiên Chúa không sai lầm và không muốn đánh lừa ai.[3]
Trong cuộc sống, ai trong chúng ta ít nhiều cũng đã trải qua
sự nguy hiểm, sự thất vọng cũng như mối nghi ngờ trên con đường đức tin. Cho
nên, khủng hoảng thuộc về con đường của đức tin, nó là thành phần của cuộc sống
chúng ta. Khủng hoảng không làm chúng ta ngạc nhiên, vậy chúng ta đừng hoảng
sợ! Và trong những giây phút khó khăn ấy, mọi người đừng nghi ngờ hay thất
vọng, nhưng hãy hoàn toàn tín thác vào ơn trợ giúp của Thiên Chúa cũng như cần
có sự can đảm và khiêm nhường để xin sự giúp đỡ của người khác. Từ đó, chúng ta
sẽ vượt qua những khó khăn và gặp lại Thiên Chúa trong tình yêu của Ngài.
Khi nói về sự nghi ngờ đức tin, ta hình dung nó giống như một chiếc đèn tắt trong đêm đen mà chúng ta
không biết là nó đã tắt từ bao giờ, nhưng vẫn cầm chiếc đèn đó và đi; nếu cuộc sống người Kitô hữu đèn đức tin đã cạn dầu, đã
tắt, chúng ta không biết đặt niềm tin vào ai thì quả thật là
một sai lầm khi chúng ta đi theo đạo và giữ đạo. Thiên Chúa luôn đợi chờ chúng
ta từng ngày như người cha luôn trông ngóng chờ đợi người con trở về. Do đó,
chúng ta cùng học theo thánh Phaolô: “Tôi
biết, tôi tin vào ai” (2Tm 1,12), bởi đức tin làm cho chúng ta như được nếm
trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc, ơn đó là mục đích của cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta.
Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1Cr 13,12) và “Ngài thế
nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1Ga 3,2). Cho nên, đức tin đã là khởi đầu
cho sự sống đời đời[4] và nhờ đức tin con người
chấp nhận chứng tá của Thiên Chúa. Điều đó con người thừa nhận một cách đầy đủ
và trọn vẹn chân lý của những điều được mặc khải vì chính Thiên Chúa bảo đảm
cho chân lý ấy.[5]
Qua những gì Kinh Thánh nói và Hội Thánh dạy, chúng ta ý
thức được rằng đức tin là ơn nhưng không mà Thiên Chúa đã ban nên chúng ta hãy
tin tưởng tuyệt đối và đừng bao giờ nghi ngờ đức tin đó, bởi chưng: “Chúng ta sống bởi đức tin, chứ không phải
bởi điều mắt thấy” (2Cr 5,7).
Không thiết tha gì với
đời sống đạo nữa
Khi khủng hoảng đức tin, đời sống đạo của chúng ta sẽ trở
nên khô khan, nguội lạnh, chẳng màng tới việc đi lễ, đọc kinh… Cuộc khủng hoảng
này làm ta mất cảm thức tôn giáo trong đời sống thường ngày và đời sống đạo.
Thánh Giacôbê xác tín rằng: “Đức tin
không có việc làm là Đức tin chết” (Gc 2,17). Cho nên, đức tin phải được
chứng minh qua hành động.
Bên cạnh đó, “đức tin có vượt qua thử thách
mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc
1,3). Nếu sống đức tin một cách thực sự, đời
sống chúng ta sẽ diễn
tả ba ý hướng căn bản:[6]
Thứ nhất: Tiếp nhận Tin Mừng của Đức Kitô, cùng với Ngài,
chúng ta sống lại. Nhờ Ngài, chúng ta đã
được giải phóng khỏi mọi quyền lực của sự chết.
Thứ hai: Đi theo con đường của Ngài, để có thể sống lại
thực sự và vĩnh viễn, đặt mình vào khuôn mẫu của Ngài, thực hiện trên mình
những động tác mà chính Ngài đã kinh qua trong cuộc sống. Chứng nghiệm cuộc tử
sinh với ngài! Đúng thế, chứng nghiệm là diễn tả cuộc tôi luyện và thực tập đức
tin này.
Thứ ba: Chia sẻ Tin Mừng cho những người bên cạnh, để họ
sống lại với chúng ta, như chúng ta. Trên hành trình sống lại, chúng ta không
thể đi một mình lẻ loi, đơn độc. Trái lại, chúng ta song hành khắp muôn nơi. Tự
bản chất, người Kitô hữu không thể sống một cuộc đời xé lẻ.
Nếu thật lòng yêu mến Chúa, chúng ta phải sống thánh
thiện, siêng năng tham giữ thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, và làm cho đức tin nhuần thấm vào
cuộc sống. Cần
phải băng qua đại dương hư vô, băng qua thử thách và ngờ vực, để niềm
tin có thể lớn
lên và trưởng thành, đạt tới chiều kích dài rộng cao
trong Chúa Kitô.
2. Nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng đức tin
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng đức tin, chúng ta thử kể ra đây vài nguyên nhân tiêu biểu.
Cầu nguyện được ví như là hơi thở hằng ngày của con người.
Thật vậy, con người có thể tạm nhịn ăn, nhịn uống, nhưng không thể nào nhịn thở
được. Nếu cuộc sống con người chỉ biết lao đầu vào công việc mà
quên đi đời sống cầu nguyện, thì rất dễ rơi vào khủng hoảng. Quả thật, với đà
phát triển của khoa học kỹ thuật, cùng với trào lưu tục hóa đã chi phối tinh
thần của con người hôm nay trên nhiều vấn đề trong đó có cầu nguyện. Vì thế,
chúng ta phải qua cửa hẹp của đức tin để đi vào cầu nguyện cũng như đi vào
phụng vụ. Qua các dấu chỉ sự hiện diện của Chúa, chúng ta tìm kiếm và khao khát
tôn nhan Ngài, chúng ta muốn lắng nghe và tuân giữ lời Ngài.[7]
Con người ngày nay, bị dìm vào một nền văn minh không có siêu việt, cuộc sống
hằng ngày được bao bọc ngập tràn trong công việc, trong ti vi, trong phim ảnh,
trong báo chí… Trong bầu khí như thế, tất cả chỉ nỗ lực để làm sao cho cuộc
sống dư dật mà quên đi điểm mấu chốt, đó là đời sống cầu nguyện. Khi chúng ta
sống trong một thế giới vắng bóng Chúa, thiếu đời sống cầu nguyện, thì chúng ta
sẽ không tìm ra đâu là ý nghĩa đích thực của đời mình, và đâu là những nhu cầu
thiết yếu của con người, mà chạy theo những gì người khác vạch ra sẵn cho mình.
Hình như con người ngày nay luôn tìm cách để rời xa Thiên
Chúa, không còn mặn mà với tình yêu của Ngài, không muốn Ngài nâng đỡ. Vì vậy,
hơn bao giờ hết ngay trong lúc này, chúng ta hãy học theo thánh Gioan Maria
Vianney thốt lên với Chúa rằng:
Lạy Thiên Chúa của con,
con yêu mến Chúa, và niềm ao ước duy nhất của con là yêu mến Chúa cho đến hơi
thở cuối cùng của đời con. Lạy Thiên Chúa vô cùng khả ái, con yêu mến Chúa, con
thà chết vì yêu mến Chúa, còn hơn là sống mà không yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con
yêu mến Chúa, và ân sủng duy nhất mà con cầu xin là cho con được yêu mến Chúa
muôn đời… Lạy Thiên Chúa của con, nếu miệng lưỡi con không thể lúc nào cũng lặp
lại rằng con yêu mến Chúa, con muốn rằng tim con luôn lặp lại điều đó với Chúa
theo từng nhịp thở của con.[8]
Đây là một trong những mối bận tâm, lo lắng của Giáo hội
cũng như tất cả mọi thành phần trong Hội thánh. Hiện nay, khi giới trẻ lao đầu
với việc học từ sáng tới tối, các em không còn giờ và cũng chẳng thiết tha quan tâm tìm hiểu về đời sống đức tin của mình; hậu quả là chẳng hiểu biết gì về
Chúa cả. Ngày nay đầy rẫy những lạc
thuyết ra đời, nếu ta thiếu hiểu biết về giáo lý thì sẽ dễ dàng đến những lệch
lạc. Học giáo lý không phải là học một thuyết nào đó của một triết gia, hay chủ
trương nào đó của một giáo chủ, của các giáo phái, mà là học về chính Chúa, học về Chúa Kitô: “Ngài là Thiên
Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,7).
Chính vì thế, ngay trong dẫn nhập sách Giáo Lý của Hội
Thánh Công Giáo, chúng ta đọc được lời dạy của thánh Giáo hoàng Gioan XXIII:
Được ánh sáng của Công
đồng này soi chiếu, như chúng tôi tin tưởng, Hội thánh sẽ có thêm nhiều nguồn
ơn thiêng liêng phong phú, và nhờ tiếp thu được từ đó những năng lực mới, Hội
thánh sẽ vững vàng nhìn vào tương lai. Chúng ta cần bắt tay thực hiện cách phấn
khởi mà không sợ hãi công việc mà thời đại chúng ta đòi hỏi, để tiếp tục con
đường Hội thánh đã đi từ gần mười hai thế kỷ qua.[9]
Như vậy, giáo lý rất cần thiết cho chúng ta, đặc biệt đối
với các bạn trẻ, bởi vì chúng ta nhận được lời hứa của Đức Kitô: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ
không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga
8,12).
Ta có thể nhận ra một điều rằng, giáo lý rất quan trọng
trong đời sống người Kitô hữu, nhờ đào sâu giáo lý, ta nhận biết được Thiên
Chúa và khi nhận biết rồi thì ta tin tưởng tuyệt đối vào Ngài, để cho Ngài làm
chủ cuộc đời ta; nhờ
đó chúng ta sẽ tránh được khủng
hoảng về đức tin, đức tin không còn bị lệch lạc, hay bị các lạc thuyết chi phối.
Bị
ảnh hưởng
của
tinh thần thế tục và gương mù gương xấu
Những gương mù gương xấu làm tổn thương tâm hồn và giết
hại niềm hy vọng của tất cả mọi người chúng ta, nó làm chúng ta mất phương
hướng, như lục bình trôi nổi giữa dòng sông mà không biết đi về đâu, nó để lại
hệ quả rất nghiêm trọng là cô đơn, trống vắng, thiếu sức sống và dần dần ta bị
khủng hoảng đức tin, không còn tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa nữa.
Chúa nói: “Không
thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra
gương xấu”. Khi nói về những gương mù gương xấu, Chúa Giêsu nhắc các
môn đệ hãy canh chừng, hãy đề phòng! Hãy cẩn thận, đừng gây ra gương mù gương
xấu. Bởi vì, những thứ xấu sẽ làm tổn thương dân Chúa, sẽ gây trọng thương cho
những người bé nhỏ dễ bị tổn thương, nhiều khi những vết thương ấy ảnh hưởng
tới cả cuộc đời, gương mù không chỉ gây tổn thương mà còn có khả năng giết hại.
Nó giết chết niềm hy vọng, giết chết các gia đình, giết chết nhiều tâm hồn. Đặc
biệt những gương mù gương xấu trong Hội thánh như chuyện lạm dụng tình dục, vấn
đề về tiền bạc… đang làm cho Giáo hội ngày càng mất đi tính khả tín.
Nếu các Kitô hữu mà sống như dân ngoại thì đây quả là
gương mù gương xấu cho dân Chúa, biết bao nhiêu người có đời sống xa lìa đức
tin, mâu thuẫn nơi chính mình. Sự rời rạc này, dẫn tới sự nguội lạnh, sự phản
chứng của các Kitô hữu;
đây là một trong những vũ khí tinh vi nhất mà ma quỷ sử dụng để làm suy yếu dân Chúa, để làm
cho dân Chúa lìa xa Ngài. Khi sống phản chứng, các Kitô hữu khó mà sống đúng
Lời Chúa dạy. Cho nên, người Kitô hữu có
bổn phận chiến đấu chống sự dữ
và gương mù dầu phải trải qua
nhiều gian nan, có
khi phải hy sinh cả mạng sống nữa.[10]
Gục ngã trước đau khổ, thử thách
Khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, đức tin của ta rất dễ
bị chao đảo. Chẳng hạn như biến cố Covid 19, có nhiều người không biết khi nhà
thờ mở cửa họ có còn muốn tới nhà thờ nữa không, vì chúng ta quen ở nhà với lối
xem lễ online. Rồi khi những đau khổ ập tới dồn dập, cơn dịch bệnh đã lấy đi
nhiều người trong gia đình, kinh tế suy sụp, đời
sống chúng ta khó khăn phải
bươn chải, có rất nhiều người
cảm thấy tuyệt vọng. Chính
trong lúc khó khăn, chúng ta càng phải bám vào Chúa và vững lòng hy vọng hơn.
Thật thế, như thánh Phaolô đã đã nói: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp
thử thách trăm chiều. Vì anh em biết, đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra
lòng kiên nhẫn” (Gc 1,2-3). Chắc
hẳn trong cuộc sống ai cũng gặp những khó khăn thử thách, không thử thách cách
này thì thử thách cách khác. Nhưng chọn lựa cách giải quyết ra sao thì đó còn
tùy vào thái độ mỗi người đón nhận. Có người đứng vững, vượt qua nhờ vào ý chí,
nghị lực của bản thân, nhưng thay vào đó, không ít người than thân, trách phận,
chán nản, buông xuôi, bỏ
cuộc. Cho nên, thử thách gian khổ là giấy phép theo Chúa, để hưởng hạnh phúc
hân hoan với Chúa: “Nếu ai muốn theo Ta,
thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mà theo Ta” (Mt
16,24).
Chúng ta thật có phúc, khi dám đương đầu, đối diện với
những khó khăn thử thách để rồi nhờ ơn Chúa ta sẽ vượt qua trong vinh quang.
Bởi vì, không cơn thử thách nào lớn lao bằng cơn thử thách của Chúa Giêsu trên
Thánh giá. Lúc Chúa gần hấp hối, tâm hồn lại cảm thấy chính Đức Chúa Cha hầu
như cũng bỏ rơi mình, Chúa Giêsu phải nói lên nỗi khổ ê chề nhất trong cuộc đời
của Ngài: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con,
sao Ngài bỏ rơi Con” (Mt
27,46). Hãy hiệp nhất với Chúa Giêsu trong giây phút hãi hùng, tối tăm nhất của
cuộc đời chúng ta, bình an sẽ trở lại và chúng ta sẽ
nói được như Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con ký
thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).[11]
Cơn đại dịch đã làm cho cuộc sống đảo lộn, từ những người
thân trở nên những người xa lạ, đi đâu cũng phải đeo khẩu trang, nhưng ta đừng
bao giờ buông xuôi hay bỏ cuộc khi gặp gian nan, thử thách; chính lúc đó Chúa đang tôi
luyện cuộc đời chúng ta. Vàng mà còn phải thử lửa, huống gì chúng ta là con cái
của Chúa. Thế nên, mọi người hãy bình tâm đón nhận thử thách, và cùng với ơn
Chúa chúng ta sẽ vượt qua gian nan trong cuộc sống này, vì: “Ơn Ngài đủ cho con” (2Cr 12,9).
Tóm lại, trong quá trình sống và trải nghiệm, đau khổ, gian khó luôn ở bên, ta hãy học vui vẻ ngay
trong những lúc khó khăn, thì ta sẽ giành
được chiến thắng và gian lao đau khổ sẽ đi vào quá khứ. Hãy tiếp tục chiến đấu bằng sức mạnh của Chúa, và rồi chiến thắng sẽ đến với tất cả mọi người vì Chúa
đã hứa như thế.
3.
Làm sao để vượt qua cuộc khủng hoảng đức tin?
Tình
trạng con người ngày nay, đang say xưa với các hoạt động ở bên ngoài mà bỏ đi
các điều quan trọng trong đời sống như cầu nguyện, trau dồi kiến thức, đối diện
với hoàn cảnh hiện tại mình đang sống, biết nương nhờ vào ân sủng của Chúa… Đây là những dịp làm cho người tín hữu đã khủng hoảng, lại càng khủng hoảng hơn. Vậy, để vượt qua khủng
hoảng chúng ta phải làm gì?
Trau dồi kiến thức đức tin - tôi biết tôi tin vào ai
Khi các tín hữu trong dân Ítrael bắt đầu viết lịch sử của
mình, điều họ chú ý không phải là tường thuật vô tư và chi tiết những biến cố
trong đời của tổ tiên họ hoặc những biến cố chính của quê hương họ, nhưng là
làm chứng cho đức tin của họ. Trong lịch sử của họ, họ đã cảm nghiệm được một
vị Thiên Chúa hữu ngã, một vị Thiên Chúa luôn luôn giải phóng họ, khỏi ách nô
lệ, một vị Thiên Chúa cứu thoát. Tiếng kêu của đức tin vang lên từ trang đầu
đến trang cuối. Cựu Ước: Thiên Chúa là Đấng độc nhất, Người yêu thương dân
Người và qua đó, Người yêu thương mọi dân, Người muốn cho con người được cứu
thoát và Ngài chiến đấu bên cạnh họ.[12]
Trong hoàn cảnh rối loạn do đại dịch viêm phổi Vũ Hán mà
toàn thể nhân loại đang gánh chịu,
chúng ta nhớ lại bài Tin Mừng (x.
Lc 8,22-26): Khi Thầy trò ra khơi, đang lúc các
ngài đi trên thuyền, thì Đức Giêsu ngủ thiếp đi. Một trận cuồng phong ập tới,
các tông đồ bị ngập nước và lâm nguy. Các ông lại gần đánh thức Người dậy và
nói: Thầy ơi! Chúng ta chết mất! Người thức dậy ngăm đe sóng gió, sóng gió liền
ngừng và biển im lặng ngay. Người bảo các ông: Sao anh em kém tin thế. Để có
thể tăng trưởng niềm tin, chúng ta phải trau dồi đức tin, một đức tin
kinh qua con đường thập
giá, cũng chính là con đường mà
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào: “Ai
muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt
16,24).
Can đảm đối diện nghịch cảnh
– khổ đau không sờn lòng
Khổng tử có câu: “Sóng
gió cuộc đời nuôi ta lớn, bao lần thất bại dạy ta khôn”. Còn Benjamin Franklin thì
nói: “Những gì gây đau đớn cho ta đều
giúp dạy khôn ta”.
Thật vậy, sống trên đời thì ai cũng có những lúc gặp khó khăn, thử thách, qua
nghịch cảnh đó nếu ta suy nghĩ và để tâm đến những điều tốt đẹp phía trước thì
chắn chắn ta sẽ vượt qua. Vì thế, đừng để khổ
đau làm cho ta sờn lòng nản chí. Nếu như chúng ta biết nhìn dưới lăng kính của
đức tin, thì đau khổ là điều Chúa đang tôi luyện ta, để ta được vững vàng hơn
trong đời sống.
Đức tin Kitô giáo cho ta một xác tín rằng: Hạnh phúc thật
sự không có ở đời này, hạnh phúc chỉ trọn vẹn trong ngày cánh chung, trong Bữa
Tiệc Đoàn Viên nơi Quê Trời. Vì thế, mọi gian truân vất vả, đau khổ và cái chết
ở đời này là hậu quả của tội lỗi mà con người phải gánh chịu. Nhờ cuộc Tử Nạn
và Phục Sinh của Chúa Kitô, mọi đau khổ ở đời này đã được biến đổi sâu sa, thay vì mang diện mạo của tội lỗi, khổ đau ở đời này đã
được Máu Con Chiên hoán đổi thành hy lễ lập công.[13]
Đó là những lý do tại sao những người khôn ngoan không học
cách để sợ hãi mà là học cách để đón nhận các vấn đề và các phiền nhiễu của
chúng.[14] Nếu mục đích của ta là tránh né đau khổ, thì cuộc đời
chúng ta sẽ không bao giờ vươn lên cao được tới tầm
mức trưởng
thành, và rất dễ bị khủng hoảng đức
tin, xa lìa Thiên Chúa, không còn sống trong nghĩa tình, thân mật với Ngài nữa.
Cậy dựa vào ân sủng
– siêng năng lãnh nhận các bí tích
Có thể nói tự bản chất con người không thể nào làm được gì
nếu không có ân sủng của Thiên Chúa. Thế
nên, để đạt được điều này
điều kia, đạt được hạnh phúc, con
người cần phải nhờ đến ân sủng.
Để đón nhận được ân sủng, chúng ta đừng quên lãnh nhận các bí tích, vì đây là phương tiện hữu
hiệu thông ban ơn cứu độ của Chúa Kitô. Nhờ ân sủng, chúng ta mới đủ sức vượt qua các cơn thử thách, đặc biệt với đại dịch
Covid 19, nếu ta không tín thác, hay nương nhờ vào Chúa, chúng ta sẽ
gặp khủng hoảng đức tin, vì chúng ta không dễ dàng chấp nhận nó trong hoàn cảnh đặc biệt này. Khi phải chứng
kiến cảnh cha mẹ mất vì Covid, vợ chồng đang sống hạnh phúc bỗng nhiên xa lìa
nhau, một thực tế làm cho ta cảm thấy bối rối, lo âu, mất thăng bằng trong cuộc
sống dẫn tới cuộc khủng hoảng đức tin. Chúng ta phải cộng tác với Chúa, mở rộng lòng mình ra để đón nhận ân sủng, hầu sống tâm tình yêu mến, phó thác.
KẾT LUẬN
Đại dịch Covid 19 xảy ra đã và đang làm cho biết bao nhiêu
người phải hoài nghi, không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Thấm chí nhiều người
còn hiểu Kinh Thánh ở một khía cạnh khác, một nghĩa khác khi cho rằng Thiên
Chúa giáng phạt con người như trong Tin Mừng Máccô đã nói: “Sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn
chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay
chuyển” (Mc 13,24-25). Phải
chăng Covid 19 là hình phạt của Thiên Chúa?
Đứng trước sự hoành hành của dịch bệnh, con người dần nhận ra sự giới hạn, mong manh của phận
người. Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một
loại virus càng đáng sợ hơn, đó là “virus” vô cảm,
tham lam, độc ác, kêu căng,
hận thù, ghen ghét. Con người đã có lúc hãnh diện nghĩ rằng tôi làm được mọi sự,
nhưng qua biến cố đại dịch Covid 19, dường như con người bó tay, đi vào bế tắc.
Cho nên, hãy
nghe lời thánh Phaolô dạy: “Ai tự hào, hãy tự hào trong
Chúa” (1Cr 1,31).
Đôi khi Chúa để chúng ta rơi vào khủng hoảng, rơi vào thử
thách để chúng ta trải nghiệm, để chúng ta có sức mạnh nội tâm hầu giúp đỡ
những người khác, ước gì qua cơn đại dịch này, lời mời gọi Chúa muốn nhắc nhở
chúng ta Thiên Chúa không làm nên cái ác, nơi Ngài chỉ có tình thương, nên
chúng ta hãy tin tưởng, tín thác cậy trông vào Chúa, chính Người sẽ ra tay (x.
Tv 37,5).
[1] x.
https://phanxico.vn/2021/04/16/khi-thanh-thieu-nien-gap-khung-
hoang-duc-tin/
[2] Gioan Phaolô II, Giải đáp thắc mắc các bạn trẻ ở Slovenia,
15/08/1996.
[3] Xc. Gioan Phaolô II, Thông Điệp,
Đức Tin Và Lí Trí, số 8.
[4] Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 163.
[5] Xc. Gioan Phaolô II, Thông Điệp,
Đức Tin Và Lí Trí, số số 13.
[6] Xc. Nguyễn Văn Thành, Chúng Ta Sống Lại Từ Tâm Lý Đến Đức Tin,
Định Hướng Tùng Thư, 1995, tr. 6.
[7] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2656.
[8] Xc. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2658.
[9] ĐGH Gioan XXIII, Diễn văn khai mạc Công đồng Vaticanô II, ngày
11/10/1962: AAS 54 (1962) 788-791.
[10] Xc. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, Dưới Ánh Sánh Lời Chúa
và Công Đồng Vaticanô II, Nxb Hoa
Kỳ và Úc Châu, 1992, tr. 275.
[11] Xc. Nguyễn Văn Thuận, Đường Hy Vọng, số 715, tr. 276.
[12] Marc Sevin, Tìm Kiếm Đức Tin, Kỷ Niệm 60 Năm Thành Lập
Học Viện
Đa Minh Việt Nam, 1941-2001, tr 10.
[13]
ttps://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&display
=2&id=1938
[14] M. Scott Peck MD, The Roadless traveled - Con đường chẳng mấy ai đi,
tr. 6-7.
Đăng nhận xét