Phù Vân
Tại Thế vận hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có 9 vận động viên đều bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc thi chạy đua 100m. Khi cờ hiệu phất lên, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng, ngoại trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục ngay sát vạch xuất phát. Đầu gối của cậu đập mạnh xuống đường, da của cậu bị trầy xước, rớm máu, và cậu bật khóc. Khi 8 người kia nghe tiếng khóc, họ chạy chậm lại và ngoái nhìn. Rồi, không ai bảo ai, tất cả họ cùng quay lại. Một cô gái bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé: “Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn”. Cả 7 người còn lại cùng ngồi xuống quanh cậu bé, ánh mắt lộ rõ sự lo lắng. Một lúc, cô gái cất tiếng hỏi tiếp: “Em đã thấy đỡ hơn chưa?” Cậu bé đưa tay lau nước mắt, mỉm cười gật đầu. Cả 9 người cùng đứng dậy, họ khoác tay nhau cùng sánh bước về vạch đích.[1]
Không một
ai bị bỏ lại phía sau, tất cả dìu nhau để cùng về đích, đó không phải là thể hiện
sự “hiệp hành” đúng nghĩa màThượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI với chủ đề: “Vì
một Hội thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ” đang muốn hướng tới
đó sao?
Thoạt
nghe, nhiều người sẽ lấy làm thắc mắc về từ ngữ “hiệp hành” (synodality) có vẻ
lạ tai; nhưng đây không phải là một khái niệm hoàn toàn mới mà hình như đã từng
bị lãng quên (ít ra cho tới trước Công đồng Vatican II), như nhận xét sau đây của
Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế:
Những thập kỷ gần đây, người ta thấy xuất hiện
một hạn từ mới, “tính hiệp hành - synodality”… Kiểu nói “lạ tai” này, một khi được thần học làm sáng tỏ cách nghiêm túc, sẽ là dấu chỉ của
một điều mới mẻ đang chín muồi trong ý thức Hội thánh, (một chiều kích) đã được
khơi mào từ Giáo Huấn của Công đồng Vatican II…[2].
Thật vậy,
chiều kích hiệp hành đã được ghi lại trong Thánh Kinh từ thời xa xưa, từ những
cuộc triệu tập dân Chúa trong Cựu Ước cho đến cuộc quy tụ xung quanh Đức Kitô
trong Tân Ước, và hơn nữa, tính hiệp hành vốn là nội tại của Ba Ngôi Thiên
Chúa.
1. Khái niệm “hiệp hành”
trong Thánh Kinh và Hội thánh
Từ cuộc “triệu tập dân Chúa” trong Cựu Ước…
Khi con người sa ngã và phạm tội, Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa muốn cứu độ con người. Đầu
tiên là cuộc “triệu tập dân Chúa” (qahal /‘edah)
qua ơn gọi Abraham, được củng cố với giao ước Sinai. Khi thực hiện kế hoạch của
Ngài, Thiên Chúa kêu gọi Abraham và con
cháu của ông (x. St 12,1-3). Cuộc triệu tập này (qahal /‘edah - thuật ngữ đầu tiên thường được dịch
sang tiếng Hy Lạp là ekklesia), được củng cố trong giao ước Sinai (x. Xh
24,6-8), làm cho dân giải thoát khỏi kiếp nô lệ và xứng đáng đối thoại với
Thiên Chúa; trong cuộc xuất hành, họ tập hợp để tôn thờ Thiên Chúa và sống theo
luật pháp của Ngài, và để họ nhận ra rằng họ thuộc về một mình Ngài (x. Đnl
5,1-22).
Qahal
/edah là hình thức đầu tiên trong đó ơn gọi mang tính hiệp hành của Thiên Chúa
được biểu lộ. Trong sa mạc, Thiên Chúa ra lệnh điều tra dân số của các chi tộc
Israel, theo từng đơn vị (x. Ds 1-2). Tâm điểm
của cuộc tập họp (dân Chúa), với tư cách là người hướng đạo và mục tử duy nhất,
là Chúa, người hiện diện qua chức vụ của Môsê (x. Ds 12; Gs 8,30-35), Công hội của
Thiên Chúa không chỉ bao gồm đàn ông (x. Xh 24,7-8) mà còn cả phụ
nữ, trẻ em và thậm chí cả người ngoại kiều (x. Gs 8,33.35).
và cuộc “quy tụ xung
quanh Đức Kitô” trong Tân Ước
Một
đoàn dân của Giao ước mới quy tụ chung quanh Đức Kitô nhờ mầu nhiệm Vượt Qua:
Thiên Chúa hoàn tất giao ước mới mà Ngài đã hứa trong Chúa Giêsu thành
Nazareth, Đấng Cứu Thế và Ngôi Lời. Bằng chính cuộc sống và con người, Tin mừng
của Ngài (kérygma) đã mặc khải rằng Thiên Chúa chính là một hiệp thông của tình
yêu; trong ân sủng và lòng thương xót, Ngài muốn ôm ấp toàn thể nhân loại trong
sự hiệp nhất. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, từ cõi vĩnh hằng đã hiện hữu nơi cung
lòng Chúa Cha (x. Ga 1,1.18), đã làm người khi tới thời viên mãn (x. Ga 1,14) để
hoàn thành chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa (x. Ga 8,29). Ngài không bao giờ
tự ý hành động một mình, nhưng trong mọi việc, Ngài thi hành ý muốn của Chúa
Cha: Chúa Cha ngự trong Ngài và thực hiện công việc qua Người Con mà Chúa Cha
đã ban cho thế gian (x. Ga 14,10). Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu là cuộc xuất
hành mới, quy tụ trong sự hiệp nhất tất cả những ai tin vào Ngài (x. Ga 11,52),
và Ngài biến đổi họ qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Công trình cứu rỗi chính
là sự hiệp nhất trong lời nguyện tế hiến trước cuộc Khổ nạn của Ngài: “để tất cả
nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta.
Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).[3]
Sách Công vụ Tông đồ ghi lại một
số thời khắc quan trọng trên con đường của Hội thánh khi dân Chúa được gọi là cộng
đồng để biện phân ý muốn của Đấng Phục Sinh. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh
Thần tuôn tràn trên Hội thánh (x. Cv 2, 2-3). Các môn đệ, khi thực hiện các vai
trò khác nhau của mình, phải lắng nghe tiếng nói Thánh Linh và biện phân đường
nào phải đi (x. Cv 5,19-21; 20,22). Đây là những ví dụ điển hình: sự lựa chọn “bảy
người có tiếng tăm, tràn đầy Thánh Linh và khôn ngoan”, được các Tông đồ
giao phó với nhiệm vụ “phân phát thực phẩm” (x. Cv 6,1-6); và biện phân
các vấn nạn quan trọng trong sứ mạng dành cho dân ngoại (Cv 10). Vấn nạn này được
giải quyết theo truyền thống được gọi là “Công nghị các tông đồ tại Giêrusalem”
(Cv 15, và cả Gl 2,1-10). Ở đó, chúng ta có thể thấy sự xuất hiện của tính hiệp
hành, trong đó, Hội thánh tông truyền, thực hiện ơn gọi trong viễn tượng truyền
giáo, được giác ngộ bởi sự hiện diện của Chúa phục sinh. Trải qua nhiều thế kỷ,
sự kiện này đã được coi như là mô hình mẫu cho các Công nghị được Hội thánh cử
hành.[4]
… đến một Hội thánh đang lữ
hành cùng nhau nhờ Lời và Bánh Hằng Sống của Đấng Phục
Sinh đồng hành
Chúa Giêsu loan báo Tin mừng
về Nước Thiên Chúa (x. Lc 4,14-15) dạy về “con đường của Thiên Chúa” (Lc
20,21) và dẫn lối đưa đường (Lc 9,51-19,28). Thật ra, chính Người là “con đường”
(Ga 14,6) dẫn đến Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần (Ga 16,13) Người chia sẻ với
mọi người sự thật và tình yêu hiệp thông với Thiên Chúa và với mỗi người trong
chúng ta. Sự hiệp thông sống động theo tiêu chuẩn điều răn mới của Chúa Giêsu
có nghĩa là cùng nhau bước đi trong lịch sử như là đoàn dân của giao ước mới,
theo cách phù hợp với hồng ân đã lãnh nhận (x. Ga 15,12-15). Thánh sử Luca cho
chúng ta một biểu tượng sống về Hội thánh là dân Chúa được Chúa phục sinh dẫn dắt
trên đường qua trình thuật hai môn đệ trên đường Emmaus, người đã thắp sáng họ
bằng Lời và nuôi dưỡng họ bằng Bánh Sự Sống (x. Lc 24,13-35).
2.
“Hiệp hành” trong Ba Ngôi Thiên Chúa
Công đồng
Vaticanô II dạy rằng: “Hội thánh phổ quát xuất hiện như ‘một dân tộc hiệp nhất
do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần'”[5]. Sự hiệp nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa luôn là khuôn mẫu
cho sự hiệp nhất của Hội thánh. Nói cách khác, vì Hội thánh có nguồn gốc từ Ba
Ngôi Thiên Chúa, nên mầu nhiệm hiệp nhất của Ba Ngôi được phản chiếu nơi Hội
thánh. Sự hiệp nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa luôn là căn nguyên của mọi loài hiện
hữu. Khi nói như vậy, chúng ta không có ý khẳng định cách chủ quan rằng, tại vì
có sự hiệp nhất trong Ba Ngôi nên phải có thụ tạo. Việc tạo dựng và cứu chuộc luôn
là một hành động tình yêu tự do của Thiên Chúa. Vì yêu và muốn thông ban tình
yêu nên Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật. Cũng vì yêu và muốn thông
ban tình yêu nên Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hiệp nhất với Ngài.
Tuy
nhiên, trước hết để có thể tránh được những sai lầm về những gì liên quan đến
Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta cần phải phân biệt Thiên Chúa Ba Ngôi nơi nội tại
và Thiên Chúa Ba Ngôi trong chương trình cứu chuộc (hay nhiệm cục cứu chuộc).
Thực chất, Thiên Chúa Ba Ngôi trong nội tại và Thiên Chúa Ba Ngôi trong chương
trình cứu chuộc là một Thiên Chúa.Việc phân biệt này chỉ có mục đích giúp chúng
ta ý thức rằng; những gì chúng ta biết về Ba Ngôi Thiên Chúa đều qua mạc khải
siêu nhiên từ Đức Giêsu Kitô. Nghĩa là chúng ta chỉ biết Thiên Chúa Ba Ngôi qua
những hoạt động của Ngài trong chương trình cứu chuộc. Chỉ một mình Thiên Chúa
mới có thể biết được “Ngài là” nơi nội tại của Ngài. Thêm vào đó, cũng cần phân biệt hai khái niệm trong triết học; đó là tiềm thể (potentiality)
và hiện thể (act)[6]. Vì Thiên Chúa là nguyên
nhân hiện hữu của chính mình Ngài nên nơi Thiên Chúa không có tiềm thể mà chỉ
có hiện thể. Việc phân biệt này giúp chúng ta xác tín Thiên Chúa luôn hiện thể
chứ Ngài không phải chỉ là hiện thế trong lịch sử cứu độ. Nói cách khác, Thiên
Chúa không cần đến việc tạo dựng và chương trình cứu độ để thể hiện quyền năng
của Ngài. Mà Ngài tự bản chất là quyền năng, một quyền năng tròn đầy luôn luôn
hiện thể (in act) mà không bao giờ có tiềm thể (in potentiality).
Và vì có sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi, đồng thời Thiên Chúa lại luôn hiện thể, nên
có sự “hiệp hành” trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Để hiểu
một cách rõ hơn về sự hiệp hành nơi Thiên Chúa, chúng ta quay lại với Thiên
Chúa trong nội tại. Theo Thánh Tôma Aquinô, có hai phát xuất (procession)
nơi nội tại của Thiên Chúa; phát xuất của Trí năng và phát xuất của Ý chí[7].Phát xuất của Lý trí được
nhìn nhận như là phát xuất của Ngôi Lời. Có sự khác biệt rất lớn giữa Lý trí của
Thiên Chúa và lý trí của con người. Vì Thiên Chúa là Đấng giản đơn (simple),
toàn năng (omnipotence) và luôn hiện thể (in act), Lý trí của
Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Trong khi đó, con người chúng ta vì được dựng
nên có hồn và xác, lý trí của chúng ta phụ thuộc vào các tri giác (senses)
để khám phá thực tại. Ở trong con người, khi chúng ta nhận biết một vật nào đó,
thì vật đó hiện hữu trong tri thức của chúng ta. Vì Thiên Chúa luôn nhận thức
hay biết được cái mà ‘Ngài là’ nên sự phát xuất của Lý trí nơi Thiên Chúa không
mang đến một thứ gì khác Thiên Chúa, nhưng chính là Thiên Chúa. Vì vậy, sự phát xuất của Ngôi Lời từ Chúa Cha được gọi là
sự phát xuất của việc “sinh ra” (generation)[8]. Và cũng vì vậy mà
Chúa Con đồng bản tính với Chúa Cha. Nếu sự phát xuất của Ngôi Lời là sự phát
xuất của Lý trí thì sự phát xuất của Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con
là sự phát xuất của Ý chí. Sự phát xuất này không phải là sự “sinh ra” nhưng được
gọi là phát xuất của Tình yêu[9]. Giống như người được
yêu hiện diện trong người yêu, Chúa Thánh Thần đồng bản tính với Chúa Cha và
Chúa Con.
Khi đề
cập đến các phát xuất của Lý trí và Tình Yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta
làm nổi bật lên sự hiện thể (in act) trong nội tại của Ba Ngôi, đồng thời
cũng cho thấy sự hiệp nhất cùng một bản thể nơi Thiên Chúa. Hơn thế nữa, qua việc
tìm hiểu sự phát xuất của Trí năng và Tình Yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa, con
người cũng hiểu được chính bản thân mình. Vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên
Chúa với lý trí và ý chí, con người được mời gọi dùng sự tự do của mình để hiệp
nhất với Thiên Chúa. Cách nào đó, quá trình đưa tới sự hiệp nhất nơi mỗi người
cũng môphỏng lại quy trình trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Khi
phân biệt Ba Ngôi Thiên Chúa nội tại và Ba Ngôi Thiên Chúa trong nhiệm cục hay
trong chương trình cứu độ, cần lưu ý rằng: việc phát xuất của Ngôi Lời và Thánh
Thần trong nội tại Thiên Chúa không tạo nên một hệ quả cho các sứ vụ của Ngôi
Hai và Ngôi Ba trong chương trình cứu chuộc. Như đã nói ở trên, Thiên Chúa
không bị buộc phải tạo dựng và cứu chuộc. Công trình tạo dựng và cứu chuộc được
thực hiện từ chính tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, việc Thiên
Chúa luôn “hiệp hành” nơi nội tại của Ngài được nhận biết cách rõ ràng hơn
trong nhiệm cục cứu độ. Có thể nói, vì Thiên Chúa thực sự “hiệp hành” trong
chính nội tại của Ngài, nên Ngài cũng luôn hiệp hành trong nhiệm cục, và chính
từ sự hiệp hành đó mà có muôn loài hữu hình và vô hình.
Sự phát xuất của Ngôi Hai
và Ngôi Ba trong nội tại Thiên Chúa tạo nên sứ vụ của các Ngôi Vị này ở nhiệm cục
cứu độ. Vì vậy, sứ vụ của các Ngôi Vị trong nhiệm cục có tương quan (relation)
tới phát xuất của các Ngôi Vị này nơi nội tại Thiên Chúa. Sự tương quan này được
miêu tả như sự liên hệ của nguồn gốc. Bởi nói đến sứ vụ là nói đến việc người
sai và người được sai. Trong sứ vụ của Ngôi Hai và Ngôi Ba, Ngôi Cha đóng
vai trò là người sai. Vì Ngôi Hai và Ngôi Ba đều bắt nguồn từ Ngôi Cha, nên
Ngôi Cha không đóng vai trò là người được sai. Tuy nhiên, việc sai đi này không
hiểu theo nghĩa thuần tuý của con người. Nơi nội tại Thiên Chúa, Ba Ngôi tuy
riêng biệt nhưng cùng một bản thể, vì vậy Ngôi Vị này hiện diện nơi Ngôi Vị
khác cách hoàn bị nhưng không lẫn lộn. Chính vì vậy trong sứ vụ của Chúa Con có
Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tương tự như vậy, trong sứ vụ của Chúa Thánh Thần
có Chúa Cha và Chúa Con.[10]
Một
tương quan nữa được nhắc tới trong sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần là
tương quan của hai Ngôi Vị này với tạo vật. Hai Ngôi Vị được sai đi có tương
quan một cách cụ thể với tạo vật. Sự tương quan này cũng không phải là một
tương quan bắt buộc hay phụ thuộc. Có chăng tương quan này chỉ mang tính phụ
thuộc và bắt buộc về phía thụ tạo, còn về phía Thiên Chúa tương quan này không
mang lại điều gì mới mẻ trong nội tại Ba Ngôi Thiên Chúa. Về phía thụ tạo,
vì tương quan với các Ngôi Vị nên thụ tạo được tham dự vào sự sống thần linh của
Thiên Chúa. Nói cách khác, sứ vụ của các Ngôi Vị được hiểu như là những món quà
mà Thiên Chúa trao tặng cho thụ tạo của Ngài. Nhờ tiếp nhận những món quà này
mà thụ tạo được hiệp thông với Thiên Chúa. Những món quà mà sứ vụ của các Ngôi Vị
ban tặng được hiểu như là các xuất phát tạm của các Ngôi Vị nơi thụ tạo. Các
phát xuất này làm cho các Ngôi Vị hiện diện cách mới mẻ nơi thụ tạo.
Tóm lại,
việc phát xuất nơi nội tại của Thiên Chúa tạo nên sự phát xuất tạm thời của hai
Ngôi Vị này trong nhiệm cục. Sự phát xuất tạm thời này cũng có thể được hiểu
như là sứ vụ của Ngôi Hai và Ngôi Ba. Nơi sứ vụ này, bằng việc trao ban chính bản
thân mình khi sai Ngôi Hai và Ngôi Ba, cả Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp hành để hiện
diện cách sống động trong thế giới thụ tạo. Sự hiệp hành này được rõ ràng hơn
trong các thụ tạo có lý trí, đặc biệt là nơi con người.
Như đã đề cập đến trên,
phát xuất nơi nội tại Thiên Chúa tạo nên thế giới hữu hình và vô hình. Phát xuất
của Trí năng và Ý chí nơi nội tại Thiên Chúa hàm chứa sứ vụ hữu hình và vô hình
(visible and invisible) của Ngôi Hai và Ngôi Ba. Sứ vụ hữu hình của
Ngôi Hai trong việc Nhập Thể luôn có sự đồng hành của sứ vụ Ngôi Ba. Thực ra, sự
phát xuất nơi nội tại Thiên Chúa của Ngôi Hai và Ngôi Ba là nguồn gốc, nguyên nhân
và là khuôn mẫu cho việc trở về với Thiên Chúa của con người qua việc trao ban
ân sủng, nơi đó cả Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng hoạt động[11].Nói
cách khác, sự phát xuất của các Ngôi Vị tạo nên một hiệu quả tạm thời nơi thụ tạo.
Theo thánh Tôma Aquinô, có hai loại hiệu năng được tạo dựng, đó là thường sủng
(habitual grace) và ơn hiện sủng (actual grace). Ơn thường sủng
và hiện sủng giúp con người tham dự vào đời sống siêu nhiên của Ba Ngôi Thiên
Chúa. Các ơn huệ này tạo nên mối tương quan mới mẻ giữa Thiên Chúa và thụ tạo của
Ngài. Cụ thể, Ngôi Ba Thiên Chúa hiện diện trong con người cách tạm thời qua ân
sủng. Như một kết quả tất yếu, các ơn ban của Chúa Thánh Thần từ ơn thường sủng
tạo nên những phát xuất trong con người giúp con người quay trở về với Thiên
Chúa. Những phát xuất này bắt nguồn từ Thiên Chúa và mô phỏng lại những phát xuất
nơi nội tại Thiên Chúa. Nếu đức ái làm cho linh hồn nên hoàn thiện và giống
Chúa Thánh Linh, Đấng là Tình Yêu đích thực thì đức khôn ngoan, cái làm cho lý
trí của chúng ta nên hoàn bị tạo nên trong chúng ta một phát xuất mô phỏng lại
phát xuất của Ngôi Lời trong nội tại Thiên Chúa. Sự phát xuất của lý trí và ý
chí trong con người, nhờ ân sủng đến từ Thiên Chúa đưa chúng ta trở về sống hiệp
thông với Ngài.
Đức
Giêsu có đầy tràn ân sủng nơi nhân tính của Ngài và vì Chúa Thánh Thần là tác
giả của mọi ân sủng nên Chúa Thánh Thần luôn đồng hành cùng Đức Giêsu trong mọi
hoạt động nơi sứ vụ công khai. Do đó, mọi hành động của Đức Giêsu đều liên hệ tới
Chúa Thánh Thần. Khi Đức Giêsu giảng dạy và hoạt động, đặc biệt trong mầu nhiệm
tử nạn và phục sinh, tất cả đều có sự đồng hành của Chúa Thánh Thần[12]. Theo thánh Tôma
Aquinô, mầu nhiệm Nhập Thể luôn là công việc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong mầu
nhiệm Nhập Thể, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hiệp hành để đưa thụ tạo trở về với
Ngài. Bằng việc khẳng định có ân huệ thường sủng (habital grace) trong
Nhân tính của Đức Giêsu, thánh Tôma muốn nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần ở trong
Đức Giêsu một cách tràn đầy. Chính vì vậy mà qua thân xác của mình, Đức Giêsu
trao ban Thánh Thần xuống trên Hội thánh và các thành viên của Hội thánh.
Tóm lại,
luôn có sự “hiệp hành” nơi Chúa Con và Chúa Thánh Thần và đặc biệt trong Ba
Ngôi Thiên Chúa. Vì bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Chúa Thánh Thần được gửi đến
trong nhân tính của Đức Giêsu qua ơn thường sủng để đồng hành với Đức Giêsu
trong các hành động và lời giảng dạy của Ngài nơi sứ vụ cứu chuộc. Từ các phát
xuất nội tại của Thiên Chúa mà sứ vụ hữu hình và vô hình của Chúa Con và Chúa
Thánh Thần nơi thụ tạo phát xuất ra. Vì thế, không thể nói tới sứ vụ hữu hình của
Đức Giêsu mà không nhắc tới sứ vụ vô hình của Chúa Thánh Thần trong công trình
cứu độ. Giống như các hành động của Đức Giêsu đều bắt nguồn và hướng về Chúa
Cha, sứ vụ của Chúa Thánh Thần cũng có nguồn gốc từ Chúa Cha và Chúa Con để quy
tụ thụ tạo về vương quyền của Thiên Chúa thông qua Nhân tính của Đức Giêsu. Sứ
vụ này vẫn được tiếp tục nơi Hội thánh mà Đức Giêsu thành lập. Nói cách khác,
Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động nơi Hội thánh được Chúa Giêsu xây dựng trên nền tảng
của các Tông đồ, như một Israel mới nhằm đưa mọi thụ tạo quy về vinh quang
Thiên Chúa.
3.
“Hiệp hành” của Ba Ngôi trong công trình tạo dựng
Khác với
các loài thụ tạo khác, con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa với lý
trí, ý chí và tự do. Sự hiện hữu của con người không phải là kết quả của một sự
tình cờ, nhưng trong suy tư và yêu thương của Thiên Chúa. Và vì vậy, Thiên Chúa
trân trọng và nâng niu thụ tạo mà Ngài dựng nên. Ngài đặt họ vào một nơi xứng với
nhân phẩm của họ và Ngài hiện diện với họ trong từng giây phút. Với lý trí, ý
chí và tự do, con người được mời gọi hiệp hành với Thiên Chúa. Tuy nhiên, thay
vì quy thuận về Thiên Chúa và hiệp nhất với Ngài, con người đã đi ngược lại với
ý định của Thiên Chúa dành cho họ. Cụ thể, thay vì nhận biết nhân phẩm cao quý
của mình, con người lại muốn khước từ nó để trở nên cái mà họ muốn. Thay vì quy
hướng về tình yêu, về điều thiện, con người lại muốn tự định đoạt điều tốt, điều
xấu riêng cho mình. Một cách nào đó, con người cho rằng mình không phải là món
quà của tình yêu, mình không phải là kỳ công của Thiên Chúa.
Hoặc
nói khác đi, khi làm trái ý định của Thiên Chúa, con người như muốn phủ nhận
tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ, bởi nếu Ngài yêu thương họ thì chắc hẳn
Ngài phải dựng nên họ tốt đẹp hơn những gì họ đang có. Tội lỗi đã phá vỡ mối hiệp
thông giữa con người với Thiên Chúa. Khi con người không sống hiệp hành theo những
gì mà Thiên Chúa mời gọi, họ bị mất đi sự hiệp thông với Ngài. Và vì mất đi sự
hiệp thông với Thiên Chúa, nên họ cũng mất đi sự hòa hợp nơi bản thân, với đồng
loại và với nhiên nhiên. Tội lỗi và cái chết là hậu quả của việc khước từ lời mời
gọi “hiệp hành” với Thiên Chúa.
Tuy
nhiên cho dù con người có kiêu ngạo và bất tuân, Thiên Chúa vẫn yêu thương họ.
Ngài vẫn luôn hiệp hành với chúng ta. Ngài có đánh phạt, cũng chỉ là cách để
giúp con người quay trở lại với tình yêu của Ngài. Vì vậy, con người chúng ta
dù ở trong hoàn cảnh nào cũng vẫn là kết quả của tình yêu Thiên Chúa. Và có lẽ
để minh chứng cho chúng ta biết rằng chúng ta có một phẩm giá cao quý nên Thiên
Chúa đã từng bước can thiệp vào lịch sử hữu hạn của chúng ta. Trong đường lối
sư phạm khôn ngoan và tiệm tiến của mình, Thiên Chúa luôn hiệp hành với con người.
Ngay sau khi con người phạm tội, một lời hứa đã được Thiên Chúa ban cho chúng
ta. Và để thực hiện lời hứa rằng “dòng dõi người đàn bà sẽ đạp nát đầu mi”
(St 3,15), Thiên Chúa từng bước can dự vào lịch sử con người. Thoạt tiên, Ngài
chọn gọi Abraham và ban hành lời hứa thứ hai cho loài người qua ông. Với lời hứa
rằng nhờ ông mà muôn dân nước trên trần gian sẽ được chúc phúc, Thiên Chúa đã dần
dần hé mở kế hoạch cụ thể của Ngài cho toàn bộ nhân loại. Từ một con người dù
đã cao niên, Thiên Chúa hứa ban cho một dòng dõi, một đất nước làm cơ nghiệp, rồi
từ dòng dõi đó muôn dân muôn nước sẽ được chúc lành.
Lời hứa
này giúp chúng ta nhận thấy cách thức mà Thiên Chúa đã và đang “hiệp hành” với
chúng ta. Thiên Chúa toàn năng thích những gì là hèn mọn. Cụ thể, để giải cứu
nhân loại lầm lỗi, Thiên Chúa đã chọn gọi cho mình một dân tộc bé nhỏ giữa muôn
ngàn dân tộc khác. Từ một dân tộc nhỏ bé và rất hay bị bắt nạt này, Thiên Chúa
hứa ban Đấng Cứu Độ. Lời hứa thứ ba mà Thiên Chúa thực hiện với vua Đavid đã hé
mở rõ ràng hơn cách thức mà Thiên Chúa sẽ “hiệp hành” với con người. Với lời hứa
rằng dòng dõi của Đavid sẽ trường tồn vạn kỷ qua Người Con xuất phát từ dòng
dõi ông, Thiên Chúa đã chính thức hé lộ cách cụ thể kế hoạch của Ngài (x. 2Sm
7,16). Từ một người con trong dòng tộc vua Đavid, Thiên Chúa sẽ giải thoát nhân
loại khỏi kiếp sống nô lệ của tội lỗi.
Sẽ là
thiếu sót nếu chúng ta nhắc tới kế hoạch cứu độ khôn ngoan của Thiên Chúa mà
không đề cập đến các tiên tri và ngôn sứ. Đây là những người trực tiếp truyền đạt
lại các sứ điệp của Thiên Chúa cho dân Ngài. Các ngôn sứ và tiên tri như những
khí cụ mà Thiên Chúa sử dụng nhằm hướng dẫn, dạy bảo và thanh luyện dân Chúađể
chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ. Có thể nói, sự hiệp hành của Thiên Chúa trong Cựu Ước
nơi dân tộc được tuyển chọn là một sự hiệp hành gián tiếp qua các trung gian của
Ngài. Sự hiệp hành này chỉ trở nên trọn vẹn trong Đức Giêsu Kitô. Nơi Đức Giêsu
Kitô, Thiên Chúa không còn hiệp hành với chúng ta qua trung gian nào nữa mà
chính Ngài đến và hiệp hành với chúng ta.
4. “Hiệp hành”
– sứ vụ của Đức Kitô
Thánh
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế
Vui mừng và Hy vọng dạy rằng chỉ trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm
về con người mới được soi tỏ.[13] Nói cách khác, bằng việc “Ngôi Lời đã trở nên người
phàm” (Ga 1,14), nhân phẩm của con người được nâng lên. Nơi Ngôi Lời Nhập
Thể, chúng ta không những biết về Thiên Chúa, mà chúng ta còn biết về chính bản
thân chúng ta. Sự nhận biết này mô phỏng lại phát xuất của Lý trí trong nội tại
Thiên Chúa. Vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người có ý chí để
chọn lựa những gì là phù hợp với nhân phẩm của mình. Ý chí ấy lại được quy chuẩn
bởi lý trí.
Nếu như
tội lỗi làm lu mờ lý trí và ý chí khiến chúng ta không thể đi tới sự nhận biết
Thiên Chúa trọn vẹn, thì nhờ việc Nhập Thể, Thiên Chúa đã đến với chúng ta qua
Ngôi Lời để nói cho chúng ta trọn vẹn những gì về Thiên Chúa. Sự hiệp hành của
Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ cụ thể là nơi Đức Giêsu Kitô luôn có mục đích
đưa chúng ta quay trở lại mối dây hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa. Thiên
Chúa luôn tôn trọng những gì mà Ngài đã phú bẩm nơi bản thân con người. Cụ thể,
Ngài tôn trọng cách mà con người chúng ta nhận biết thế giới xung quanh cũng
như nhận biết Ngài. Chính vì vậy, Ngài tiệm tiến, khôn ngoan và sư phạm để mạc
khải mình ra cho chúng ta. Và “khi thời gian tới hồi viên mãn,” “Ngôi Lời đã
trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh
quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng
và sự thật” (Ga 1,14).
Theo cách hiểu bình dân, lời
là phương tiện để làm nên một cuộc hội thoại. Sẽ rất khó để có thể giao tiếp và
hiểu người khác nếu chúng ta không dùng lời. Một cách nào đó, lời là kết quả của
lý trí và suy tư trước khi là phương tiện để sử dụng trong đối thoại. Tuy
nhiên, trong Tin mừng Thánh Gioan “Lời” vượt lên trên nghĩa thông thường đó.
Trong suy tư của người Hy Lạp, Logos “Lời” không chỉ đơn giản
là lời nói nhưng là Lời thần linh để tạo nên trật tự của vũ trụ và liên kết con
người với Thiên Chúa[14]. Chính vì vậy, Lời là một
Ngôi Vị. “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và
Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) và “Ngôi
Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến trong thế gian để chiếu soi cho mọi người”
(Ga 1, 9). Chính trong ánh sáng thật này chúng ta mới nhận ra dung mạo của
Thiên Chúa, mới có thể “xem” và “thấy” Thiên Chúa.
Từ nay
Thiên Chúa không chỉ tồn tại trong các suy tư triết lý nữa, mà chúng ta có thể
xem và động chạm được Ngài. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử hữu hạn của con người
qua việc Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa đã đến để mặc lấy
thân xác hữu hạn như chúng ta. Nếu trước đây, dục vọng và xác thịt ngăn cản ta
đến với Thiên Chúa thì giờ đây trong thân xác của Đấng Cứu Thế chúng ta có thể
đến và tiếp cận được Ngài. Nếu trong Cựu ước, con người không thể tiếp cận được
với vinh quang Thiên Chúa thì nơi Ngôi Lời Nhập Thể chúng ta được thấy vinh
quang Ngài. “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng
và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga1, 18). Nơi Đức Giêsu,
những người tin vào Người sẽ được trở nên con Thiên Chúa.
Nguyên
nhân của sự hoán chuyển lạ lùng, Đấng vô hạn trở nên hữu hạn và thụ tạo được trở
nên con Thiên Chúa, được chính Chúa Giêsu trả lời cho ông Nicôđêmô: “Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tình yêu của Thiên Chúa được
cụ thể hóa trong sứ vụ của Đức Giêsu Kitô. Bằng việc đồng hành và liên đới với
chúng ta, đặc biệt là những người đau khổ, thấp hèn và bị loại ra bên ngoài xã
hội, Đức Giêsu đã đến như là vị cứu tinh không những chỉ bằng lời nói mà còn cả
bằng hành động. Ngài động chạm đến những nỗi thống khổ của con người để xoa dịu
và phục hồi nhân phẩm cho chúng ta. Sự đồng hành và liên đới của Ngài trở nên
trọn vẹn nơi Thập Giá.
Thập
Giá không những chỉ là dấu chỉ của ơn cứu độ mà Thập Giá còn phát sinh và là đường
dẫn chúng ta tới ơn cứu độ. Trên Thập giá, Đức Giêsu đã thể hiện cách rõ ràng
nhất như thế nào là hiệp hành. Một sự hiệp hành đến hy sinh mạng sống cho người
mình yêu. Nếu Ađam và Eva cho rằng mình phải trổi vượt hơn những gì mà Thiên
Chúa ban tặng thì trong mầu nhiệm Thập Giá, Thiên Chúa lại trở nên thấp hèn hơn
cả chúng ta. Đối với Thiên Chúa, để hạ mình xuống như một thụ tạo vẫn chưa đủ,
Ngài còn muốn được trở nên như một kẻ bị sỉ nhục và chết tức tưởi trên Thập
Giá. Đó không phải là cách mà Thiên Chúa dùng để lên án chúng ta nhưng đó là
cách mà Thiên Chúa phục hồi phẩm giá nguyên tuyền cho chúng ta. Đó là cách mà
Thiên Chúa thể hiện tình yêu của Ngài cho loài thụ tạo. Một tình yêu trao ban
chính thân mình cho người mình yêu. Nơi Thập Giá Chúa Kitô trời và đất được
giao hòa. Nơi đây, chúng ta kín múc được nguồn sức mạnh để sống đúng với phẩm
giá cao quý của mình. Từ nay tội lỗi, đau khổ và sự chết không còn có thể thống
trị được con người chúng ta nữa. Chúng ta được mời gọi để sống như những người
con của Thiên Chúa, biết tin tưởng và phó thác vào Cha nhân lành.
Như vậy,
nơi Thập Giá của mình, Đức Giêsu đã hoạ lại cho chúng ta con đường để dẫn chúng
ta trở về hiệp thông với Thiên Chúa. Nơi Thập Giá, Đức Giêsu vừa giao hòa chúng
ta với Thiên Chúa vừa chỉ cho chúng ta đường để về với Chúa Cha. Thập Giá Chúa
Kitô phải luôn luôn là đích điểm cho sự hiệp hành của chúng ta, là những người
theo Chúa, với anh chị em đồng loại. Chính nơi Thập Giá Chúa Kitô, sự “hiệp
hành” mới mang ý nghĩa hoàn bị. Một Thiên Chúa toàn năng và thánh thiện, giờ
đây lại thu mình trong thân phận của một tội nhân và chết một cách tủi nhục
trên Thập Giá để “hiệp hành” nhằm cứu độ chúng ta. Và vì vậy, chính ở khía cạnh
này mà từ “hiệp hành” được sử dụng nhằm diễn tả phương cách con người cần có để
hiệp thông với Thiên Chúa. Hiệp thông với Thiên Chúa luôn là một ơn ban, nhưng
con người phải dùng tự do của mình để cộng tác với ơn ban đó. Vì có sự cộng tác
này, nên hiệp thông giờ đây trở thành “hiệp hành”. Con đường hiệp hành tạo nên
trong chúng ta hai mối liên hệ ràng buộc. Một đàng chúng ta phải hiệp hành với
Thiên Chúa, đàng khác chúng ta phải hiệp hành với anh chị em mình. Nói cách
khác, hiệp hành là sống điều răn mến Chúa yêu người cách trọn vẹn như Đức Giêsu
đã dạy chúng ta. Và để làm được điều đó, chúng ta phải trở nên nhỏ bé khiêm hạ
như Đức Giêsu:
Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải
nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ
vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế,
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập tự (Pl 2, 6-8).
5.
Hội thánh
tiếp tục sứ mạng “hiệp hành” của Đức Giêsu Kitô
Việc
loan báo triều đại Nước Thiên Chúa được bắt đầu từ khi Đức Giêsu chính thức thi
hành sứ vụ công khai của Ngài. Ngài không những chỉ loan báo về sự hiện diện của
Nước Thiên Chúa, mà bằng việc chọn gọi các Tông đồ, Ngài còn thiếp lập Nước đó ở
giữa nhân loại. Hội thánh được thiết lập trên nền tảng các Tông đồ có sứ mệnh
quy tụ muôn dân nước về vương quyền của Thiên Chúa. Truyền thống Tông truyền được
thiết lập từ các Tông đồ trở nên như khí cụ cho việc “hiệp hành” trong Hội
thánh và trên toàn thế giới. Sự “hiệp hành” qua Truyền thống Tông truyền không
những được thể hiện qua cơ cấu phẩm trật hữu hình mà còn cả trong cơ cấu vô
hình của Hội thánh. Vì được Thánh truyền hướng dẫn, các thành phần trong Hội
thánh luôn quy hướng về một đức tin chân thật. Nhờ cảm thức đức tin của mọi
thành viên mà Hội thánh thi hành sứ vụ giảng dạy của mình một cách không sai lầm[15].
Chúng
ta có thể thấy rằng, vì nhận ra tầm quan trọng của cảm thức đức tin nơi mọi
thành viên của Hội thánh nên Thượng Hội đồng lần này đã đề xướng việc cần thiết
phải dành thời gian để lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các thành
viên Hội thánh. Khi lắng nghe và phân định các ý kiến trong lòng Dân Thánh, Thượng
Hội đồng đã làm một việc rất khác so với các Thượng Hội đồng lần trước. Bởi Hội
thánh mà cụ thể là các Thượng Hội đồng thường bắt đầu bằng việc soạn thảo văn bản
rồi chuyển xuống cho mọi thành phần dân Chúa học hỏi và thực hành, nhưng Thượng
Hội đồng lần này lại làm theo cách ngược lại. Nghĩa là, từ việc lắng nghe tiếng
nói của Chúa Thánh Thần qua mọi thành viên của Hội thánh, Thượng Hội đồng sẽ
đúc kết nên những văn bản có giá trị để Hội thánh dựa vào đó mà “hiệp hành” với
mọi người.
Khi nói
về cảm thức đức tin trong lòng Dân Thánh, chúng ta phải nói tới các hình thức đạo
đức bình dân và đặc biệt là việc Hội thánh sống và cử hành các mầu nhiệm của Đức
Kitô. Nhờ việc sống và tham dự vào việc cử hành các bí tích nhất là bí tích
Thánh Thể, mà cảm thức đức tin nơi các thành viên trong Hội thánh được thanh lọc
và mang tính vô ngộ[16]. Tuy nhiên, ngoài việc
củng cố cảm thức đức Tin trong lòng Dân Thánh, các bí tích mà cụ thể là bí tích
Thánh Thể còn thúc đẩy sự hiệp hành của Hội thánh với thế giới. Bởi bí tích
Thánh Thể là bí tích của tình yêu. Nơi bí tích này, Đức Giêsu tiếp tục hiệp
hành để đụng chạm tới những vết thương của con người chúng ta. Theo nghĩa đó,
bí tích Thánh Thể là bí tích của hiệp hành. Bí tích này giúp chúng ta cảm nghiệm
một cách trọn vẹn tình yêu hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá. Và vì vậy, bí
tích Thánh Thể nuôi dưỡng, củng cố và khơi gợi lên trong chúng ta việc thực
hành đức bác ái với tha nhân.
Trong
trình thuật của thánh Gioan về bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã rửa chân cho các tông
đồ. Thông qua việc này, Đức Giêsu để lại cho các ông một mẫu gương về sự phục vụ
trong khiêm hạ. Theo thánh Gioan, việc rửa chân diễn tả cách cụ thể về một tình
yêu tự hiến. Khi làm như vậy, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài hãy làm “như
Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15). Việc làm “như Thầy làm cho anh em”
không chỉ đơn thuần là một ví dụ hay mẫu gương sống động nhưng còn là một
nguyên nhân, một nền tảng và một động lực cho mọi hành vi bác ái khác. Chính vì
vậy, với việc “nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh
em” (Ga 13,15), Đức Giêsu ngụ ý rằng Ngài yêu thích việc phục vụ và vì vậy Ngài
mời gọi những người đi theo Ngài cũng hãy làm điều tương tự cho anh chị em đồng
loại.
Nhờ việc
tham dự vào hiến tế trên thập giá của Đức Kitô, người tín hữu được mời gọi trao
ban tình yêu cho anh chị em mình. Thực tế, chính trong bí tích Thánh Thể, người
tín hữu nhận ra mình được yêu và vì vậy họ được mời gọi hãy trao ban tình yêu
đó cho mọi người. Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, việc cử hành Thánh Thể hiện
tại hóa món quà cứu độ của Đức Giêsu trên thập giá cho mỗi chúng ta và cho toàn
thế giới. Bí tích Thánh Thể vì thế biến đổi chúng ta thành những chứng nhân của
tình yêu và lòng trắc ẩn cho anh chị em mình. Bí tích Thánh Thể giúp chúng ta
thực hiện đức bác ái với hết mọi người kể cả những người mà chúng ta không biết
hoặc không thiện cảm. Điều này chỉ có thể xảy ra khi chúng ta có sự gắn kết
thân mật một cách trọn vẹn với Chúa Giêsu Thánh Thể. Nhờ mối dây gắn kết này,
chúng ta sẽ trở thành những tấm bánh được bẻ ra cho anh chị em mình[17].
Vì vậy,
việc cử hành và sống bí tích Thánh Thể là đi vào cuộc vượt qua, nơi đó chúng ta
tham dự vào tình yêu tự hiến của Đức Giêsu. Nói cách khác, đây là một cuộc vượt
qua đi ra khỏi con người chúng ta. Có Đức Giêsu đồng hành, cuộc vượt qua thiêng
liêng này giúp chúng ta đi tới mọi ngõ ngách để trao tặng tình yêu tự hiến. Như
hạt giống, “trừ khi nó thối đi, nó mới sinh bông hạt,” (Ga 12,24) người tín hữu
cũng phải tự hủy mình để đến với những người đau khổ, bất hạnh và bị loại bỏ.
Bí tích Thánh Thể tự bản chất có thể biến đổi cuộc sống chúng ta. Giống như, “Đức
Giêsu đã hiến thân vì chúng ta, nên chúng ta cũng phải hiến thân cho nhau.”
(1Ga 3,16)
Thánh
Công đồng Vaticanô II dạy rằng:
Nhờ lãnh nhận phép Thánh Tẩy và Thêm Sức mỗi
tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ; đàng khác các bí tích, nhất là bí tích
Thánh Thể, thông ban và nuôi dưỡng trong họ đức ái đối với Thiên Chúa và đối với
loài người, nhân đức này là linh hồn của mọi hoạt động tông đồ.[18]
Nơi hoạt
động tông đồ bác ái của mình, người tín hữu làm cho hoạt động của Ba Ngôi Thiên
Chúa hiện hữu trong môi trường họ đang sống. Thực tế,
Bí tích Thánh Thể nói lên ý nghĩa của đức ái,
nhắc nhở và cụ thể hóa, đồng thời thực hiện đức ái. Mỗi lần chúng ta tham dự bí
tích đó cách ý thức, một chiều kích vương giả của tình yêu khôn thấu mở ra trong
tâm hồn chúng ta, tình yêu bao hàm tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho loài
người, và vẫn tiếp tục thực hiện, đúng như lời của Chúa Kitô: “Cho đến
nay, Cha tôi vẫn làm việc và tôi cũng làm việc” (Ga 5,17)[19].
Tóm lại,
nơi bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa Ba Ngôi tiếp tục hiệp hành với nhân loại. Sự
hiệp hành này được cụ thể hóa nơi người tín hữu. Mỗi khi chúng ta thi hành các
việc bác ái, đặc biệt cho những người nghèo khó, bệnh tật, đau khổ, và bị bỏ
rơi là chúng ta đang phỏng lại các phát xuất nơi Thiên Chúa Ba Ngôi trong con
người chúng ta. Sự “hiệp hành” nội tại nơi Thiên Chúa Ba Ngôi được nối dài ra
trong sứ vụ của các Ngôi Vị trong nhiệm cục cứu độ và được tiếp tục nơi mỗi người.
Chính vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng, “hiệp hành” là cách thức mà Thiên
Chúa sử dụng để đưa chúng ta trở về với Ngài. Từ sự “hiệp hành” nơi nội tại
Thiên Chúa, Ngài “hiệp hành” với chúng ta trong nhiệm cục. Và vì được tham dự
vào sự “hiệp hành” đó, chúng ta, qua Hội thánh được mời gọi “hiệp hành” với
nhau để có thể tiến về “hiệp hành” với Thiên Chúa cách trọn hảo trong tình yêu
và vinh quang của Ngài.
TẠM KẾT
Vì được
mặc lấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình nên mỗi người chúng ta, dù sống trong
môi trường hoặc điều kiện nào, chúng ta cũng có nhân phẩm như nhau. Cụ thể, ngay
trong lòng Hội thánh, dù khác biệt trong chức vụ và phẩm trật, mỗi thành viên Hội
thánh đều cần phải được tôn trọng và lắng nghe. Đó chính là định hướng mà Thượng
Hội đồng lần này nhắm tới. Khi nhắm tới từng thành viên của Hội thánh như là những
thành viên chính thức của Thượng Hội đồng - những người trực tiếp tham dự và
đưa ra ý kiến của mình nhằm xây dựng Hội thánh - Thượng Hội đồng như khẳng định
rằng Hội thánh chỉ có thể hiệp hành với từng con người và toàn thế giới nếu các
thành viên Hội thánh biết nhận ra nơi người khác nhân phẩm cao quý mà họ được dựng
nên.
Tuy
nhiên, những năm gần đây chúng ta đau lòng chứng kiến những vụ lạm dụng tình dục
trong Hội thánh. Câu hỏi được đặt ra là tại sao những sự việc tồi tệ như thế có
thể xảy ra ngay chính trong Thân Mình của Đức Kitô? Đã từ rất lâu, trong suy
nghĩ của người Công giáo, việc phân biệt phẩm trật trong Hội thánhkhông nhằm
vào phận vụ của từng cấp bậc mà nhắm tới sự tôn trọng nơi các cấp bậc đó. Một
cách vô hình, sự tôn trọng này tạo nên chủ nghĩa giáo sĩ trị trong lòng Hội
thánh. Thay vì nhắm tới chức vụ như là để phục vụ, việc phân biệt phẩm trật lại
nhắm tới tôn ti trật tự theo nghĩa tiêu cực trong lòng Hội thánh. Khi những người
có quyền mà không có đời sống thiêng liêng, họ sẽ lạm dụng quyền lực của họ để
làm những điều bất chính. Một cách cụ thể hơn, khi sử dụng quyền lực để thống
trị, những người này không nhìn thấy được phẩm giá cao trọng của những người mà
họ được sai đến để phục vụ. Quyền lực đã làm cho cặp mắt tâm hồn của họ bị mờ
đi, và do đó việc lạm quyền có cơ hội gia tăng.
Trong sứ
vụ mục tử của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn luôn nhắc nhở mỗi người chúng
ta, đặc biệt là những người mục tử thìphải “có mùi của chiên.” Chính khi nhìn
nhận người khác là hình ảnh của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể hòa mình vào với
họ để phục vụ và mang lấy “mùi” của họ. Và chỉ khi đó, chúng ta mới có thể “hiệp
hành” và cùng nhau tiến về nhà Cha. Như vậy, để có thể “hiệp hành” theo như những
gì mà Thượng Hội đồng lần này mong muốn, cụ thể là gặp gỡ, lắng nghe và phân định
ý muốn của Chúa Thánh Thần khi lắng nghe nhau, chúng ta phải quay trở lại với
phẩm giá của con người. Chỉ khi nào chúng ta thấy rằng mỗi người, dù bất cứ là
ai, đều là hình ảnh của Thiên Chúa, lúc đó chúng ta mới có thể “hiệp hành” với
nhau giống như Ba Ngôi Thiên Chúa đã và đang hiệp hành với chúng ta.
[1] Thu Phạm, Hãy cùng nhau chiến thắng,
website: https://aba.edu.vn/hay-cung-nhau-chien-thang.html
truy cập ngày
10/4/2022.
[2] Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế (International
Theological Commission),
dg. Vũ Văn An, Tính
Đồng Nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Hội thánh (Synodality in the Life and Mission of the Church), số 5.
[3] Ibid., số 13.
[4] Xc. Ibid., số 19-20.
[5] Hiến chế Lumen Gentium, số 4.
[6] Xc. Tổng luận Thần học phần I, câu hỏi 3, tiết 1 và tiết
2, trang 39 - 42
[7] Xc. Ibid., câu hỏi 27, tiết 5, trang 360-361.
[8]Xc. Tổng luận Thần học phần
I, câu hỏi 27, tiết 2, trang 354 - 356.
[9] Xc. Ibid., câu hỏi 27, tiết 3, trang 356 - 358.
[10] Xc. Tổng luận Thần học, phần I, câu hỏi 43, tiết 1, giải
đáp 2, trang 526.
[11] Xc. Tổng
luận Thần học, phần I,
câu hỏi 43, tiết 3, trang 527 - 530.
[12] Xc. Dominic Legge OP., The
Trinitarian Christology of St Thomas
Aquinas (Oxford: Oxford
University Press, 2017), 17.
[13] Xc. Gaudium et Spes, số22.
[14] Xc. Giáo hoàng Bênêđictô XVI, Tông huấn Lời
Chúa, số 8.
[15] Xc. Ủy ban Thần học quốc tế, Cảm thức đức tin (05.05.2014), số 9.
[16] Xc. Ủy ban Thần học quốc tế, Cảm thức đức tin (05.05.2014), số 89.
[17]Xc. Sacramentum Caritatis, số 88.
[18] Lumen Gentium, số 33.
[19] Gioan Phaolô II, Dominicae
Cenae, số 5.
Đăng nhận xét