Tìm hiểu về thượng hội đồng giám mục thế giới

 

Fr. G. Quốc Văn, OP. tổng hợp[1]

DẪN NHẬP

Hội thánh khắp nơi đang từng bước chuẩn bị và tiến về Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XVI vào tháng 3 năm 2023, bắt đầu từ cấp giáo phận, với chủ đề: Hướng tới một Hội thánh hiệp hành: hiệp thông – tham gia – sứ vụ”.

Tại Việt Nam, giai đoạn cấp Giáo phận đã được mở ra từ Chúa nhật I Mùa Vọng 28.11.2021. Từ tháng 9.2022 đến tháng 3.2023 là giai đoạn II diễn ra ở cấp châu lục. Giai đoạn III diễn ra ở cấp Hội thánh hoàn vũ từ tháng 3.2023 đến tháng 10.2023. Trong nội san Chia Sẻ số này, chúng ta cùng tìm hiểu khái quát về Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, và tập trung tìm hiểu về tính hiệp hành, như chủ đề của Thượng Hội đồng lần thứ XVI này, với ước mong mọi người tín hữu cùng nhau sống lối sống và cảm thức của Mẹ Hội thánh, cùng tiến bước với Hội thánh và cùng với Hội thánh thi hành sứ vụ trong tinh thần hiệp hành, một tinh thần Hội thánh đang mong ước.

I.    KHÁI QUÁT VỀ SYNOD,
     THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI

1.    Synod, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới là gì?

Tiếng Việt thường dịch chữ Synod Thượng Hội đồng Giám mục. Tầm nguyên thuật ngữ này trong tiếng Latinh là synodus, được ghép bởi hai từ của tiếng Hy Lạp"syn" (cùng nhau) và "odos" (con đường) nên từ này có nghĩa cơ bản là "đồng hành, cùng nhau bước đi trên một con đường". Thời gian gần đây, ta nghe nhiều một thuật ngữ khác được dùng để dịch chữ “Synod”, đó là 2 chữ “Hiệp hành” (hiệp thông, tham gia và sứ vụ).

 

2.   Synod được hình thành từ bao giờ?

Thật ra thượng hội đồng là gì? | Nhà Thờ Thái Hà

Synod là một định chế do thánh Giáo hoàng Phaolô VI thiết lập vào năm 1965 qua Tự sắc Apostolica Sollicitudo, nhằm đáp lại nguyện vọng của các nghị phụ Công đồng chung Vaticanô II. Các ngài đã thực sự cảm nghiệm tinh thần hiệp đoàn giữa các giám mục cùng với Đức Thánh Cha đã đem lại hiệu quả lớn cho Công đồng, nên mong muốn có một định chế trong Hội thánh tiếp tục phát huy tinh thần ấy.

Synod quy tụ các giám mục được chọn từ mọi nước trên thế giới để giúp đỡ Đức Thánh Cha trong sứ mạng mục tử của Hội thánh hoàn vũ. Số các giám mục được bầu chọn tùy theo tổng số các giám mục từng nước; trung bình cứ 25 giám mục được cử một đại diện, tuy nhiên, mỗi quốc gia số bầu chọn không vượt quá 4 vị.

3.   Có bao nhiêu kiểu Synod?

Có ba cách tổ chức Đại hội THĐ:

- Đại hội chung thường lệ: thông thường ba năm một lần; thành viên phần đông là giám mục được các Hội đồng Giám mục chọn cho từng đại hội, ngoài ra còn có các thành viên được Đức Thánh Cha chỉ định và một số thành viên do các Hội dòng giáo sĩ chọn.

- Đại hội chung ngoại lệ: được tổ chức để bàn về những vấn đề cần có một quyết định mau lẹ. Các thành viên được chọn như trong đại hội chung thường lệ.

- Đại hội đặc biệt: thảo luận về các vấn đề trong một miền. Các thành viên được chọn chủ yếu từ những miền mà THĐ muốn nhắm tới khi tổ chức Đại hội (Ví dụ THĐ Giám mục Amazon).

4. Trong lịch sử Hội thánh đã có bao nhiêu Synod ?

Từ khi được thiết lập, 1965 đến nay, đã diễn ra 29 khóa họp THĐGM, trong đó có 15 khóa họp thường lệ và 3 khóa họp ngoại thường (1969, 1985 và 2014); phần còn lại là 11 khóa họp đặc biệt dành cho châu Âu (2), châu Phi (2), châu Á, châu Mỹ, châu Đại dương, miền Trung Đông, nước Hà lan, nước Liban và Châu Mỹ Latin. Chúng ta đang hướng về THĐGM thường lệ, lần thứ 16.

5.   Diễn tiến của Synod thế nào?

Diễn tiến của một THĐGM gồm nhiều giai đoạn:

1. Bước đầu tiên để chuẩn bị một kỳ họp THĐGM là xin các Hội thánh Công giáo Đông phương, các Hội đồng Giám mục, các Bộ trong Giáo triều và Hiệp hội Bề trên Thượng cấp các dòng tu, gợi ý về các đề tài có thể sẽ được thảo luận.

Các gợi ý trên sẽ được một Ủy ban của Văn phòng Tổng thư ký THĐ sắp xếp, phân tích, nghiên cứu, và trình lên Đức Thánh Cha kết quả làm việc của mình. Ngài sẽ xem xét và chính ngài sẽ quyết định về đề tài của THĐ.

2. Sau đó Ủy ban sẽ soạn thảo văn bản đầu tiên gọi là Đề cương (Lineamenta). Đây là một công trình tập thể. Các thành viên trong Ủy ban, các nhà thần học, các chuyên viên về đề tài đã chọn, họp lại để đào sâu và giới thiệu đề tài của THĐ. Bản văn sẽ được trình lên Đức Thánh Cha để ngài phê chuẩn, sau đó được dịch sang các ngôn ngữ thông dụng rồi gửi đến các giám mục, và các ngài sẽ phổ biến cho mọi thành phần Dân Chúa để cầu nguyện, học hỏi, và đóng góp ý kiến. Các giám mục có nhiệm vụ tổng hợp các ý kiến để làm thành bản trả lời chính thức cho các câu hỏi được đặt ra trong “Đề cương”, sau đó gửi về Văn phòng Tổng thư ký.

3. Sau khi nhận được các bản trả lời, Ủy ban của Văn phòng Tổng thư ký THĐ sẽ cùng với các chuyên viên soạn thảo văn bản thứ hai gọi là Tài liệu làm việc (Instrumentum laboris). Đây là cơ sở và điểm quy chiếu để các nghị phụ thảo luận trong Đại hội.

4. Trong các phiên họp chính thức của THĐGM, các nghị phụ sẽ trình bày kinh nghiệm cũng như quan điểm của mỗi cộng đoàn, cùng với kết quả từ những cuộc thảo luận của các Hội đồng Giám mục. Trước hết, Tổng tường trình viên (Rapporteur général) được Đức Thánh Cha bổ nhiệm sẽ trình bày bản Tường trình sơ khởi (Rapport initial). Sau đó, các phiên họp của Đại hội sẽ chia ra làm ba giai đoạn:

- Giai đoạn đầu tiên: mỗi thành viên của THĐ trình bày về tình trạng của Hội thánh địa phương liên quan đến đề tài. Các Hội thánh địa phương có dịp trao đổi kinh nghiệm sống đức tin và văn hóa cho nhau, từ đó người ta có thể nhận ra một hình ảnh thực tế về tình trạng Hội thánh.

- Giai đoạn hai: dựa vào các bản trình bày trên, Tổng tường trình viên sẽ đưa ra một loạt câu hỏi để thảo luận trong các nhóm nhỏ được chia theo ngôn ngữ. Bản tường trình của mỗi Nhóm sẽ được đọc trong phiên họp khoáng đại. Nếu cần, các nghị phụ có thể xin giải thích thêm để làm sáng tỏ vấn đề.

- Giai đoạn ba có 5 việc phải làm: 1/ Trước hết, các Nhóm dựa trên những gì đã thảo luận để tóm tắt các ý kiến thành những đề nghị ngắn gọn rõ ràng. 2/ Thành viên của các nhóm có thể biểu quyết về các đề nghị ấy, chấp thuận hoặc không chấp thuận. 3/ Kế đến, các đề nghị này sẽ được Tổng tường trình viên và vị Thư ký đặc biệt tổng hợp trong một văn bản thống nhất, và Tổng tường trình viên sẽ trình bày trong một phiên họp khoáng đại. 4/ Sau đó các Nhóm sẽ họp lại để thảo luận về các đề nghị của bản tường trình trên, và có thể đóng góp ý kiến để sửa chữa. 5/ Tiếp theo, Tổng tường trình viên và Thư ký đặc biệt sẽ xét xem có thể đưa các ý kiến của các Nhóm vào “Bản liệt kê các Đề nghị” (Propositions) hay không ; nếu không thì phải trình bày lý do trong một tài liệu gọi là “Nghiên cứu các ý kiến sửa chữa”. Sau hết “Bản liệt kê các Đề nghị” sẽ được trình bày trong phiên họp khoáng đại để các nghị phụ biểu quyết thuận hay không thuận.

5. Kết thúc Đại hội, Tổng tường trình viên sẽ sắp xếp toàn bộ dữ liệu và soạn thảo bản “Tường trình chung cuộc” (Rapport final) để đệ trình Đức Thánh Cha. Thường thì Đức Thánh Cha sẽ nghiên cứu “Các Đề Nghị” để soạn thảo một Tông huấn hậu THĐ.

6. Mục đích của Synod là gì?

THĐGM được thiết lập nhằm các mục đích sau đây:

- Duy trì sự hợp nhất và cộng tác chặt chẽ giữa Đức Thánh Cha và các giám mục trên thế giới.

- Thông tin trực tiếp và chính xác về tình trạng và các vấn đề liên quan đến đời sống Hội thánh hoàn vũ cũng như những việc Hội thánh phải thực hiện trong thế giới hôm nay.

- Tạo điều kiện để thống nhất quan điểm, ít là về những điểm quan trọng trong giáo thuyết và đời sống của Hội thánh.

- Trao đổi các thông tin hữu ích.

- Cho ý kiến về những vấn đề cụ thể được đặt ra trong mỗi kỳ THĐGM.

Như vậy, THĐ không phải là Công đồng chung, cũng không phải là một loại nghị viện, nhưng đúng là một cuộc “đồng hành” giữa các giám mục và giữa các giám mục với Đức Thánh Cha.

7.Thượng Hội đồng” và “Công đồng”
           
giống, hay khác nhau?

Công đồng là một hội nghị gồm các Giám mục, cùng một số Bề trên của các tổ chức tu trì trong Hội thánh, chính thức nhóm họp bàn luận và quyết định những vấn đề thuộc giáo lý đức tin hay sinh hoạt của Hội thánh. Cho tới nay đã có 21 công đồng diễn ra trong Hội thánh.

Công đồng có nhiều cấp khác nhau, bao gồm trong hai loại tổng quát: Công đồng chung và Công đồng riêng.

-      Công đồng Chung: Từ khi có phong trào hợp nhất các Kitô hữu, người ta còn gọi là Công đồng đại kết. Đây là hội nghị các giám mục toàn cầu, với sự có mặt của các Bề trên cao cấp trong các tổ chức tu trì, dưới sự chủ tọa đích thân của Giám mục Rôma hay qua đặc sứ của ngài (x. GH 22). Trước Công đồng chung Vatican II, chỉ có Giám mục chính tòa mới có quyền tham dự Công đồng chung. Từ nay mọi giám mục có quyền tham dự Công đồng vì là thành phần của Giám mục đoàn (x. GM 4).

-      Công đồng riêng: là một hội nghị gồm các giám mục của một miền nào đó trong Hội thánh. Cần phân biệt:

Công đồng giáo tỉnh - gồm các giám mục trong một miền, một giáo tỉnh dưới quyền chủ tọa của một Tổng giám mục hay Giám mục Trưởng giáo tỉnh.

Công đồng liên giáo tỉnh - gồm các giám mục nhiều giáo tỉnh khác nhau dưới quyền chủ tọa sứ thần Tòa Thánh (Cũng kể thêm Công đồng toàn quốc, Công đồng toàn miền).

Ngoài ra, còn có hội nghị khác của các giám mục gọi la thượng hội đồng, hội nghị hay công nghị giám mục. Công nghị giáo phận (x. GL. Đ. 460) dùng để chỉ phiên họp của vị giám mục giáo phận với hàng giáo sĩ của mình.

Còn Thượng Hội đồng Giám mục (Synod) là một quy chế được thể hiện sau Công đồng Vatican II. Đây là hội nghị do chính Giáo hoàng Roma triệu tập các giám mục đại diện hay những người được ngài chỉ định để cùng tìm hiểu và giúp ngài về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của Hội thánh trong thế giới.

8. Chủ đề Thượng hội đồng chung thường lệ lần thứ XVI này là gì?[2]

Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn chủ đề cho Thượng Hội đồng Giám mục thế giới thường lệ lần này là “Vì một Hội thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ”.

Chủ đề chính yếu xoay quanh tính “hiệp hành” trong Hội thánh. Chủ đề này được đào sâu dưới 3 khía cạnh là “hiệp thông”, “tham gia” và “sứ vụ”. Chủ đề này có thể được diễn tả một cách nôm na: Tất cả mọi người (Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân) cùng nắm tay nhau, dìu dắt, nâng đỡ nhau tiến thẳng về Vương Quốc Thiên Chúa.

Những giáo huấn về tính hiệp hành đã được bàn giải từ lâu trong Hội thánh và Thượng Hội đồng lần này không muốn đi vào luận bàn những tư tưởng thần học liên quan đến chủ đề. Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đề ra những phương thế cụ thể để sống tính hiệp hành này trong Hội thánh. Đoạn văn cuối cùng của Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng này đã khẳng định: Thượng Hội đồng không nhằm mục đích tạo ra những tài liệu nhưng là để băng bó vết thương, khơi lên niềm tin và hy vọng cho con người.[3]

Hiệp hành, hay cùng đồng hành với nhau trên con đường theo Chúa Giêsu tiến về trời mới đất mới, là đặc tính cốt yếu của Hội thánh. Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định con đường hiệp hành đã được khởi xướng từ Công đồng Vatican II và được xác định là “Con đường mà Thiên Chúa mong đợi Hội thánh trong thiên niên kỷ thứ ba này”.[4]

Hội thánh đã trải qua hơn 2000 năm lịch sử phát triển. Một Hội thánh học theo mô hình kim tự tháp đã bị bãi bỏ và một mô hình mới được triển khai trong Công đồng Vatican II, mô hình Hội thánh đồng tâm. Hội thánh được diễn tả là Dân Thiên Chúa. Trong Hội thánh, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá nhưng mỗi người có bổn phận khác nhau tùy theo bậc sống của mình.[5]

Đoạn trích Kinh Thánh trong sách Công Vụ Tông Đồ (CV 10) được trình bày như là mô hình cho việc hoán cải thường xuyên trong Hội thánh. Hội thánh được mời gọi hoán cải, lắng nghe nhau, và cùng nhau lắng nghe tiếng Chúa. Chính vì thế, Thượng Hội đồng này đặt nặng tính “lắng nghe”. Giai đoạn đầu của tiến trình Thượng Hội đồng lần thứ XVI được cử hành tại các Hội thánh địa phương mang tên “Giai đoạn lắng nghe”. Trong giai đoạn này mọi thành phần dân Chúa được mời gọi lắng nghe Chúa nói và lắng nghe nhau nói. Cách đặc biệt là hàng giáo phẩm lắng nghe tiếng nói của giáo dân và giáo dân can đảm lên tiếng nói về hoàn cảnh của mình.

9. Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI có điều gì khác với những lần trước?

Ngày 15 tháng 09 năm 2018, với ý muốn canh tân Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Tông hiến Episcopalis communio (Sự hiệp thông Giám Mục)Tông hiến quy định rằng từ nay có thêm giai đoạn tham khảo ý kiến Dân Chúa ở các Hội thánh địa phương với tiến trình kéo dài 3 năm theo 3 giai đoạn: giáo phận, châu lục và hoàn vũ.

Vì thế, THĐGM thường lệ lần thứ XVI là THĐGM đầu tiên áp dụng Tông hiến này. Có nghĩa là từ THĐGM này trở đi, các THĐGM không chỉ đơn thuần là một đại hội của các Giám Mục mà còn là hành trình dành cho tất cả các tín hữu thuộc các Hội thánh địa phương tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Hội thánh hoàn vũ.

Đặc biệt, THĐGM lần này mong muốn người nghèo và người bị loại trừ trong Hội thánh cũng được thình ý: “Cuối cùng, điều quan trọng cơ bản là người nghèo và người bị loại trừ cũng được cất tiếng nói, chứ không chỉ những người có vai trò hoặc trách nhiệm nào đó trong các Hội thánh [địa phương] (trích “Tài liệu chuẩn bị, số 31).

 

10. Thượng Hội đồng Giám mục XVI diễn tiến thế nào?

Sau khi Tòa Thánh công bố chủ đề về tính Hiệp Hành của Hội Thánh, Văn phòng Tổng Thư Ký đã chuẩn bị nội dung, gồm các Tài Liệu và Cẩm Nang, và công bố ba giai đoạn tiến hành như sau:

1/ Giai đoạn cấp giáo phận (từ tháng 10/2021 đến tháng 8/2022)

Mục đích của giai đoạn này nhằm thúc đẩy các Hội thánh địa phương tham gia vào tiến trình hiệp hành của Hội Thánh một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.   

Hoạt động chủ yếu của giai đoạn này là những buổi họp mang tên gọi là BUỔI THỈNH Ý HIỆP HÀNH được tổ chức rông khắp trong các giáo xứ, các dòng tu, các cộng đoàn, các hội đoàn, các phong trào giáo dân và phong trào đại kết và liên tôn, và các nhóm hoạt động khác.

Mục đích của những buổi thỉnh ý hiệp hành này là để những người tham dự lắng nghe và chia sẻ. Có thể đưa ra những câu hỏi gợi ý để người tham dự trả lời, phản hồi hoặc đề nghị những giải pháp.

Có thể là những gặp gỡ trực tiếp, hoặc trực tuyến do hoàn cảnh dịch bệnh, hoặc các hình thức truyền thông khác.

Các tài liệu, sách báo, các bài thánh ca, tác phẩm nghệ thuật cũng có thể tạo bầu khí thiêng liêng, giúp suy tư và đối thoại.

Giai đoạn cấp giáo phận này là cơ hội để các giáo xứ và giáo phận gặp gỡ, cảm nghiệm và cùng nhau thực hành những bước đường hiệp hành, nhờ thế khám phá hoặc phát triển các phương cách và con đường hiệp hành phù hợp nhất với bối cảnh địa phương, không chỉ ở hiên tại mà cả trong tương lai nữa.

2/ Vai trò của các Hội Đồng Giám Mục và các Công nghị Hội thánh Đông Phương

Sau khi nhận các bản đúc kết của các giáo phận, các Hội Đồng Giám Mục sẽ thu thập các thông tin và làm tổng hợp gởi về Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục. Sau đó những tổng hợp này sẽ là cơ sở cho Tài liệu làm việc I, do Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục xuất bản.

3/ Giai đoạn tại Châu lục

Dựa vào Tài liệu làm việc I, do Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội Đồng Giám Mục, bảy cuộc họp tại các châu lục sẽ đưa ra 7 văn kiện cuối cùng làm cơ sở cho Tài liệu làm việc II được sử dụng tại Đại Hội Thượng Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 năm 2023.

4/  Đại hội Thượng hội đồng Giám mục

Các Giám mục và quan sát viên sẽ họp với Đức Thánh Cha Phanxicô trong Đại hội thượng Hội đồng Giám mục ở Rôma vào tháng 10 năm 2023.

 

THƯỢNG HĐGM

 

II.  TÌM HIỀU VỀ TÍNH HIỆP HÀNH CỦA HỘI THÁNH

Hãy Về Nhà”: Lời Tâm Huyết ĐGH Phanxicô Dành Cho Người Trẻ Công Giáo Việt  Nam

1.   Hiệp hành là gì?

Không kể văn bản ngoại ngữ, “HIỆP HÀNH”, một từ rất mới trong ngôn ngữ giáo lý, thần học, mục vụ của Hội thánh tại Việt Nam. Thật vậy, đây là một từ ghép gốc Hán lần đầu tiên xuất hiện trong một văn kiện Huấn quyền
(x. Christus Vivit) tiếng Việt. Cũng cần ghi nhận rằng: có một số dịch giả khi chuyển ngữ từ “SYNODALITÉ, SYNODALITY” sang tiếng Việt thì dùng từ đồng nghị, đồng hành, có chỗ dịch là tính hội đồng, tính đồng b, hay tính liên hợp.

Ở đây, hiệp hành là từ Hán Việt được dùng để dịch từ “Synodus”, cùng đi trên một con đường.

Trong diễn văn với 4 ngàn đại biểu của giáo phận Roma ngày 18/9/2021, Đức Thánh Cha giải thích hiệp hành là lối sống và hành động của Hội thánh:

Đề tài hiệp hành, không phải là một chương trong khảo luận Hội thánh học, và càng không phải là một kiểu thời trang, một khẩu hiệu hay một từ ngữ mới cần sử dụng hoặc lèo lái trong các cuộc gặp gỡ của chúng ta. Không phải vậy, hiệp hành biểu lộ bản chất của Hội thánh, là cách thức, lối sống và sứ mạng của Hội thánh.

Hiệp hành là để phục vụ cho sứ mạng của Hội thánh, mọi thành viên trong Hội thánh đều được mời gọi tham gia vào sứ mạng này.

2.   Nền tảng Kinh thánh của tính hiệp hành

Ta có thể tóm kết những điểm căn bản Văn kiện của Ủy Ban Thần học quốc tế đã diễn giải về nền tảng Kinh thánh của tính hiệp hành như sau:[6]

Khởi đi từ Cựu ước

Thiên Chúa đã tạo ra con người, có nam có nữ, theo hình ảnh và họa ảnh Người như một hữu thể xã hội được kêu gọi làm việc với Người bằng cách tiến tới trong dấu hiệu hiệp thông, bằng cách chăm sóc vũ trụ và hướng công trình sáng tạo của Chúa về mục tiêu của nó (St 1: 26-28).

Thế nhưng, ngay từ đầu, tội lỗi làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa, đã xé toặc mạng lưới các mối tương quan có trật tự vốn nói lên sự thật, sự tốt lành và vẻ đẹp của công trình sáng tạo, và làm trái tim của người đàn ông và của người đàn bà không còn nhận ra ơn gọi của họ.

Tuy nhiên, Thiên Chúa giàu lòng thương xót, đã củng cố và làm mới lại giao ước của Người nhằm đem tất cả những gì đã bị phân tán trở lại con đường thống nhất, chữa lành tự do của con người và hướng dẫn con người đến chỗ chào đón và sống ơn hợp nhất với Thiên Chúa và thống nhất với anh chị em của mình. Khi thực hiện kế hoạch của Người, Thiên Chúa triệu tập Ápraham và các hậu duệ của ông (xc. St 12:1-3; 17:1-5; 22:16-18).

Cuộc triệu tập này là hình thức đầu tiên trong đó ơn gọi có tính hiệp hành của dân Chúa được tiết lộ. Trong sa mạc, Thiên Chúa ra lệnh điều tra dân số các chi tộc Israel, dành cho mỗi chi tộc vị trí (xc. Ds 1-2). Thiên Chúa là trung tâm của cuộc triệu tập, Người hiện diện qua thừa tác vụ của Môsê (xc. Ds 12: 15-16; Gs 8:30-35), qua các Thủ lãnh (xc. Xh 18: 25-26), các Trưởng lão (xc. Ds 11: 16-17, 24-30), và các thầy Lêvi (xc. Ds 1:50-51). Cuộc triệu tập Dân Thiên Chúa không chỉ bao gồm đàn ông (Xh 24: 7-8) mà còn cả phụ nữ, trẻ em và cả dân ngoại nữa (xc. Gs 8: 33,35). Đó là đối tác được Chúa triệu tập mỗi khi Người đổi mới giao ước của Người (xc. Đnl 27-28; Gs 24: 2 V 23; Nkm 8).

Rồi các ngôn sứ xuất hiện dạy cho Dân Thiên Chúa sự cần thiết phải trải hành trình gian khổ để trung thành với giao ước. Các ngài mời gọi mọi người hướng lòng về Thiên Chúa và công lý trong các mối liên hệ của họ với người lân cận, thường là những người nghèo nhất, bị áp bức, ngoại kiều, như một nhân chứng hữu hình của lòng Chúa thương xót (xc. Grm 37: 21; 38: 1).

Đến thời Tân ước

Thiên Chúa chu toàn giao ước mới mà Người đã hứa nơi Đức Giêsu, Con Chí Ái của Người. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa mặc khải chính mình ra là sự hiệp thông tình yêu; Đấng lòng thương xót, muốn ôm lấy toàn thể nhân loại này và trao ban cho con người hồng ân cứu độ.

Kế hoạch của Chúa Cha được thực hiện trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, khi Chúa Giêsu tự hiến sự sống của Người để nhận lại sự sống ấy trong sự phục sinh vinh hiển (xc. Ga 10,17) và tuôn đổ sự sống là hồng ân Thánh Thần xuống trên các Tông đồ và toàn thể Hội thánh. Người tha thiết cầu xin Chúa Cha cho mọi người hiệp nhất nên một, và Người là con đường dẫn chúng ta tới Chúa Cha (xc. Ga 14:6). Trên hành trình về nhà Cha, mọi người được mời gọi hiệp hành, cùng nắm tay nhau tiến bước.

Sách Tông Đồ Công Vụ cho thấy hành trình của Hội thánh, một dân mới được mời gọi biện phân thánh ý của Đấng Phục Sinh, trong tư cách một cộng đồng. Nhân vật lãnh đạo dẫn đường và chỉ hướng đi là Chúa Thánh Thần, được tràn đổ trên Hội thánh vào ngày lễ Ngũ Tuần (xc. Cv 2: 2-3). Các môn đệ, khi thực hiện các vai trò khác nhau của họ, có trách nhiệm lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần và biện phân đường đi (xc. Cv 5:19-21; 8:26,29,39; 12: 6-17; 13: 1-3; 16: 6-7,9-10; 20: 22).

Công đồng đầu tiên, Công đồng tông đồ Giêrusalem được triệu tập (xc. Cv 15; Gl 2: 1-10). Ở đó, ta thấy một biến cố có tính hiệp hành đã xuất hiện, trong đó, Hội thánh Tông truyền, trong một thời điểm quyết định của lịch sử phát triển của mình, đã sống thực ơn gọi của mình hướng tới việc truyền giáo, được soi sáng bởi sự hiện diện của Chúa Phục Sinh. Trong nhiều thế kỷ, biến cố này đã được giải thích như là mô hình cho các Công Nghị từng được Hội thánh cử hành. Cách thức hành xử của Công đồng Giêrusalem là một minh chứng đời thực cho sự kiện này là cách dân Thiên Chúa tiến bước là một điều được suy nghĩ có trật tự và thấu đáo, trong đó, mỗi người có một chủ trương và vai trò chuyên biệt (xc. 1 Cr 12:12-17; Rm 12: 4-5; Ep 4: 4).

Nhờ mọi người biết lắng nghe Chúa Thánh Thần qua chứng tá đưa ra về hành động của Thiên Chúa và nhờ mỗi người biết đưa ra phán đoán riêng của mình, các ý kiến thoạt đầu khác khác nhau đã qui hướng dần tới sự đồng thuận và nhất trí, vốn là hoa trái của việc biện phân cộng đồng để phục vụ sứ mệnh truyền giảng Tin mừng của Hội thánh.

Đích điểm của cuộc hành trình của Dân Thiên Chúa là Giêrusalem mới, được bao bọc bởi sự huy hoàng rạng ngời của vinh quang Thiên Chúa, nơi phụng vụ nước trời được cử hành. Ở đấy, sách Khải huyền chiêm ngưỡng "Chiên Con đang đứng dường như đã bị sát tế", Chiên Con, bằng máu của mình, đã chuộc về cho Thiên Chúa “muôn người thuộc mọi nước, mọi dân”.

3.   Hiệp hành là lối sống của Hội thánh

Trong Kinh Thánh, trong các văn kiện Huấn Quyền, trong văn chương thần học, tu đức và nhiều lãnh vực khác trong nhịp sống đức tin, chúng ta thường xuyên gặp các hạn từ với các nội dung ý nghĩa hàm chứa trong đó như “xuất hành”, “lữ hành”, “đồng hành”… thì trong những ngày này, Dân Chúa được nhắc nhở “tập chú” tới chiều kích “hiệp hành” (synodality), một khái niệm không phải là mới, nhưng hình như đã có một thời bị lãng quên (ít ra cho tới trước Công Đồng Vatican II), như nhận xét sau đây của Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế:

Những thập kỷ gần đây, người ta thấy xuất hiện một hạn từ mới, “tính hiệp hành - synodality”… Kiểu nói “lạ tai” này, một khi được thần học làm sáng tỏ cách nghiêm túc, sẽ là dấu chỉ của một điều mới mẻ đang chín mùi trong ý thức Hội thánh, (một chiều kích) đã được khơi mào từ Giáo huấn của Công Đồng Vatican.

Ngoài những ý nghĩa mà Uỷ Ban Thần Học vừa quảng diễn, chúng ta có thể lắng nghe chính Đức Thánh Cha Phanxicô cắt nghĩa, đặc biệt, qua hai diễn từ quan trọng: diễn từ ngày 17.10.2015, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Đức Phaolô VI thiết lập cơ cấu “Thượng Hội Đồng Giám Mục”; và diễn từ hôm thứ Bảy 18/9/2021, khi nói với giáo phận Roma. Linh mục Trần Đức Anh, OP., đã tóm tắt mấy ý chính như sau:[7]

Hiệp hành: Hội thánh “lắng nghe, quan tâm mục vụ” thay vì duy giáo sĩ và cứng nhắc

Trong diễn văn dài 40 phút với 4 ngàn đại biểu của Giáo phận Roma hôm 18/9/2021, Đức Thánh Cha giải thích “sinodalità”, sự hiệp hành, như một lối sống và hành động của Hội thánh: lắng nghe nhau và có thái độ mục vụ, đặc biệt đứng trước cám dỗ của chủ nghĩa duy giáo sĩ và thái độ cứng nhắc. Đức Thánh Cha nói: “Đề tài hiệp hành, sinodalità, không phải là một chương trong khảo luận Hội thánh học, và càng không phải là một kiểu thời trang, một khẩu hiệu hay một từ ngữ mới cần sử dụng hoặc lèo lái trong các cuộc gặp gỡ của chúng ta. Không phải vậy, sinodalità biểu lộ bản chất của Hội thánh, hình thể, kiểu sống và sứ mạng của Hội thánh.” Và Đức Thánh Cha dựa vào sách Tông Đồ công vụ, với nhiều giai thoại để chứng tỏ Hội thánh là hiệp hành.

Hiệp hành: Vai trò của cộng đoàn địa phương

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng trong tiến trình hiệp hành, giai đoạn giáo phận rất quan trọng, vì thực hiện sự lắng nghe toàn thể các tín hữu đã chịu phép rửa. Ngài nhận xét: có nhiều đối kháng chống lại việc vượt qua hình ảnh một Hội thánh được phân biệt cứng nhắc giữa các thủ lãnh và những người bề dưới, giữa người giảng dạy và người phải học hỏi, mà quên rằng Thiên Chúa muốn đảo lộn các vị trí: “Ngài lật đổ những người cường quyền khỏi tòa cao, và nâng cao những người hèn mọn” (Lc 1,52).

Hiệp hành: Một Hội thánh “hàng ngang”, ở giữa nhau và cùng nhau

Việc hiệp hành khám phá chiều ngang của Hội thánh hơn là chiều dọc. Hội thánh hiệp hành tái lập chân trời từ đó mặt trời của Chúa Kitô mọc lên: dựng lên những đền đài phẩm trật có nghĩa là che phủ mặt trời Chúa Kitô. Các mục tử bước đi với dân, khi thì đi trước, khi thì đi giữa, lúc thì đi sau. Đi trước để hướng dẫn, đi giữa để khuyến khích và không quên mùi của đoàn chiên, đi sau vì dân có “mũi”, có khứu giác trong việc tìm ra những con đường mới để đi, hoặc để tìm lại con đường đã lạc mất.

Chúng ta dễ dàng nhận thấy lối sống hiệp hành trong Hội Thánh được nêu lên ngay trong chủ đề của Thượng Hội Đồng : hiệp thông – tham gia – sứ vụ.[8]

Hiệp thông

Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người… Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất (1 Cr 12, 4-6.12-13).

Tất cả mọi Kitô hữu, dù nhiều và đa dạng, nhưng hiệp thông sâu xa với nhau vì có chung một sự sống thần linh và làm nên một Hội Thánh duy nhất. Tất cả mọi Kitô hữu, do việc lãnh nhận bí tích rửa tội, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, khác nhau về chức năng, nhưng xét về phẩm giá thì tất cả đều bình đẳng (x. LG 32). Để có sự hiệp thông, luôn phải giữ hai điều: tôn trọng sự khác biệt và duy trì hợp nhất. Sự hiệp thông là phẩm tính thiết yếu và là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá mọi sinh hoạt trong Hội Thánh.

Tham gia

Chân không thể nói: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể”. Tai không thể nói: “Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể”. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày (1Cr 12, 15-21).

Một thân thể triển nở khỏe mạnh khi mọi chi thể hoạt động theo đúng chức năng của mình trong sự hài hòa của toàn thân. Tất cả mọi Kitô hữu đều có quyền và bổn phận tham gia vào sự tăng trưởng của Hội Thánh, tùy theo chức năng và đặc sủng Chúa ban cho mình, làm đúng và làm tròn vai trò của mình, đồng thời luôn tôn trọng vai trò của người khác. Trong Hội Thánh, không ai được thụ động hay dửng dưng; không ai là độc quyền; không ai bị loại trừ; không ai được coi thường vai trò của người khác, dù đó là một chi thể bé mọn nhất.

Sứ vụ

Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ (1Cr 12, 7-10).

Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người một đặc sủng là để thi hành sứ vụ xây dựng Hội Thánh và Phúc Âm hóa thế giới. Sứ vụ trong Hội Thánh thì nhiều: rao giảng, thánh hóa, phục vụ, quản trị…, tùy theo Chúa Thánh Thần hoạt động nơi từng người, theo ơn gọi riêng và cách thế riêng của người ấy.

Để sống được một Cộng đoàn hiệp hành, hướng tới một Hội thánh Hiệp hành, trong bài giảng khai mạc Thượng Hội Đồng (ngày 10/10/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ rõ 3 việc cần làm:

1.   Gặp gỡ trực tiếp

Cần gặp gỡ trực tiếp, mặt đối mặt, nhìn vào nhau và chia sẻ lịch sử của cuộc đời từng người. Cuộc đời của ai đó có thể thay đổi chỉ bằng một cuộc gặp gỡ. Đức Giêsu đã không vội vã hoặc nhìn vào đồng hồ để kết thúc buổi họp. Cần dành thời gian cho việc gặp Chúa và gặp anh chị em, chứ đừng tập trung quá nhiều cho việc tổ chức các sự kiện hoặc suy tư lý thuyết về các vấn đề. Chúa muốn chúng ta từ bỏ những thói quen cũ. Mọi thứ sẽ thay đổi khi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau cách chân thành, không hình thức giả tạo, không tính toán, nhưng bằng con người thật của chúng ta.

2.   Lắng nghe

Để thực sự là cuộc gặp gỡ, cần biết lắng nghe. Đức Giêsu đã lắng nghe bằng con tim, với thái độ bình tĩnh và kiên nhẫn, chấp nhận mất thời gian, không vội đưa ra giải pháp có sẵn, chung chung. Chúng ta cần lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau, đừng đóng cửa. Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, – tất cả những người đã được rửa tội –, mỗi người đều có quyền nói và cũng có bổn phận lắng nghe. Tránh những phản ứng giả tạo, nông cạn và đưa ra những giải đáp được đóng gói sẵn. Chúa Thánh Thần yêu cầu chúng ta lắng nghe những thắc mắc, mối quan tâm và hy vọng của mọi thành phần Hội Thánh, của mọi người, mọi quốc gia, của thế giới.

3.   Phân định

Gặp gỡ và lắng nghe, nhưng không kết thúc ở đó và để lại mọi thứ như trước. Mọi sự phải được thay đổi. Lời Chúa soi sáng tận thâm tâm để mỗi người nhìn vào bên trong và khám phá ý định của Thiên Chúa về cuộc đời mình. Một người có thể nói ra những bức xúc hay những tổn thương trong tâm hồn, nhưng không phải để chấm dứt với những cay đắng giận hờn; trái lại, sau đó cần được Lời Chúa soi chiếu để bước sang một giai đoạn mới. Thượng Hội Đồng phải là một tiến trình của sự phân định thiêng liêng, một sự phân định mang chiều kích Hội Thánh, được thực hiện trong cầu nguyện và đối thoại với Lời Chúa. Không thể có hiệp hành nếu không có cầu nguyện và bầu khí thiêng liêng.

4.   Hiệp hành
diễn tả đặc tính nền tảng và căn tính của Hội thánh

Đức Hồng y Michael Czerny SJ., Phó Tổng thư ký phụ trách Phân bộ Di dân và Tị nạn thuộc Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, đã diễn giải phong phú về Hội thánh hiệp hành, ngài khám phá những cội rễ của tính hiệp hành nơi Công đồng Vatican II, và phương thế theo đó nó đòi hỏi sự tham gia của tất cả những ai đã chịu phép rửa vào trong đời sống Hội thánh. Nói cách khác, tính hiệp hành diễn tả đặc tính nền tảng về căn tính của Hội thánh.

Thật vậy, qua hiệp hành, Hội thánh trình bày và hiện thực hóa chính mình qua việc quy tụ như là “Dân Thiên Chúa”, là những người bước đi cùng nhau. Chúng ta có thể nói rằng tính hiệp hành là mô mẫu để cho ơn gọi nguyên thủy và sứ vụ nội tại của Hội thánh được lịch sử hóa: quy tụ mọi dân nước, thuộc mọi thời đại, và đưa họ dự phần vào niềm vui và ơn cứu độ của Đức Kitô.

Qua Văn kiện của Ủy Ban Thần học quốc tế: Tính đồng nghị trong đời sống và sứ mệnh của Hội thánh (Nguyên bản: “La sinodalità nella vita e nella missione della Chiesa 
(2018),
ta khám phá thấy ý nghĩa căn bản này: Hội thánh học về Dân Thiên Chúa nhấn mạnh phẩm giá và sứ mệnh chung của mọi người đã chịu phép rửa, trong việc thực hiện sự đa dạng và tính phong phú có phẩm trật của các đặc sủng, ơn gọi và các thừa tác vụ của họ. Trong bối cảnh này, khái niệm hiệp thông nói lên bản chất sâu sắc của mầu nhiệm và sứ mệnh của Hội thánh, mà nguồn gốc và đỉnh cao là Cộng Đoàn Thánh Thể. Đây là thực tại (res) của Bí tích Hội thánh (Sacramentum Ecclesiae): sự hợp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi và sự thống nhất giữa các nhân vị, được làm cho hiện thực nhờ Chúa Thánh Thần trong Chúa Giêsu Kitô.

Trong bối cảnh Hội thánh học này, tính hiệp hành là một cách sống và hành động chuyên biệt của Hội thánh, Dân Thiên Chúa; hiệp hành tỏ lộ và đem lại cho hữu thể Hội thánh bản thể hiệp thông khi mọi chi thể của Hội thánh cùng hành trình với nhau, tụ họp thành cộng đoàn và tích cực tham gia sứ mệnh truyền giảng Tin mừng của Hội thánh.[9]

5.      Hiệp hành diễn tả vị trí và vai trò của người giáo dân trong Hội thánh

Ở đây,  chúng ta tiếp tục triển khai tư tưởng của Đức Hồng Y  Michael Czerny, SJ:[10]

Hiệp hành hàm ý về sự tham dự và dấn thân của toàn thể Dân Thiên Chúa vào đời sống và sứ vụ của Hội thánh. Tác vụ giám mục kết hợp cả chiều kích đặc thù – trong liên hệ với đoàn dân quy tụ tại một Hội thánh địa phương, lẫn chiều kích phổ quát – tức việc thi hành tác vụ trong sự hiệp thông với các giám mục khác và với Đức Thánh Cha. Do vậy, bất kỳ biểu hiện nào của tính hiệp hành, để mang lại hiệu quả, đều đòi hỏi việc thực thi tác vụ theo tính cách tập đoàn của các giám mục.

Đức Phanxicô sử dụng thuật ngữ “synod-synodality” theo nghĩa rộng, tức biến chính thống thần học thành chính hành mục vụ. “Synod” không chỉ quy chiếu đến một cơ cấu thuộc Hội thánh được lãnh đạo bởi sự điều hành của tập đoàn [giám mục] nói riêng, nhưng còn là một hình thái hữu hình của sự hiệp thông, là con đường mang tính huynh đệ của Hội thánh, nơi mà tất cả những ai chịu phép rửa đều tham dự và đóng góp trong tư cách cá nhân theo cách thế của riêng mỗi người.

Trước Công đồng, người ta thiên về mô hình mang tính xã hội của Hội thánh học, xem Hội thánh là một xã hội hoàn hảo [societas perfecta]. Công đồng lại quay về với các phạm trù của Kinh thánh và Giáo phụ. Trong Hiến chế Lumen Gentium (LG), chúng ta nhận ra những tiền đề thần học đặt nền tảng cho việc hình thành khái niệm tính hiệp hành hậu Công đồng. Hội thánh hoàn vũ được trình bày như là “bí tích” (LG, số 1) và là “Dân Thiên Chúa” (LGsố 4).

Theo chiều hướng này, một trong những khía cạnh mang tính đổi mới hơn hết của Lumen Gentium là khôi phục lại học thuyết về “chức tư tế cộng đồng của các tín hữu” (LGsố 10), theo đó người giáo dân một lần nữa được nhìn nhận là trung tâm của đời sống Hội thánh. Nhờ phép Rửa, mọi thành viên của Hội thánh được trao “phẩm giá làm con cái Thiên Chúa” và sự tham dự tích cực vào sứ vụ của Hội thánh là điều cần thiết và bắt buộc. Với những khẳng định này, Công đồng triệt để chấm dứt thông lệ đã có hàng thế kỷ, là điều đưa đến một sự phân biệt cứ  sự [de facto] giữa hàng giáo phẩm có vai trò giáo huấn và hàng giáo dân có vai trò thụ giáo. Nhiều giáo dân hiện nay cảm thấy bị thôi thúc để suy nghĩ về ơn gọi của mình theo một cách thế hoàn toàn mới.

Được ban phẩm giá làm con cái cùng với ân huệ và trách nhiệm đối với việc loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo, người giáo dân được kêu gọi để tham dự vào việc quản trị của Hội thánh tùy theo bổn phận, vai trò và phạm vi hoạt động của chính họ. Thần Khí ban phát các đặc sủng và hồng ân đặc biệt, làm cho họ “có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân và xây dựng Hội thánh” (LGsố 12). Trong thực tế, họ được “cho phép và đôi khi còn có bổn phận bày tỏ những ý kiến của mình về những điều liên quan đến lợi ích của Hội thánh” (LG, số 37).

Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất để đưa mọi thành phần của Hội thánh, với những ơn gọi, sứ vụ và thừa tác vụ khác nhau, qui tụ lại cùng nhau trong một chủ thể năng động duy nhất.

Hiệp hành cho thấy đâu là vai trò của người giáo dân. Giáo dân đại diện cho đại đa số Dân Thiên Chúa, và có thật nhiều bài học rút ra từ sự tham dự của họ với những cách biểu hiện khác nhau trong cộng đoàn Hội thánh: lòng đạo đức bình dân, sự dấn thân vào việc chăm sóc mục vụ thông thường, năng lực hoạt động trong những lãnh vực khác nhau của đời sống văn hóa và xã hội (EG, số 126). Và nếu địa vị và kinh nghiệm của đời sống giáo sĩ tạo ra những thành kiến vô thức nhất định, chúng ta có thể đặt hy vọng vào một giáo dân nhiệt tâm đóng vai trò một nhà quan sát ân cần và từ ái, người sẽ giúp cho mọi người ý thức về họ. Khi được hỏi về vai trò của hàng giáo dân, thánh John Henry Newman trả lời rằng: “Hội thánh sẽ trông thật ngớ ngẩn nếu thiếu vắng họ”.[11]

Chính vì vậy, tính đồng trách nhiệm của toàn thể Dân Thiên Chúa đối với sứ vụ của Hội thánh đòi hỏi việc bắt đầu các tiến trình thỉnh ý, trong đó, giới giáo dân tham gia và phát biểu một cách tích cực hơn. Đây không phải là vấn đề thành lập một kiểu “nghị viện giáo dân”, bởi vì thẩm quyền của tập đoàn giám mục không dựa vào việc các tín hữu ủy nhiệm qua một tiến trình bầu chọn; nhưng đúng hơn, thẩm quyền ấy xuất hiện như một đặc sủng riêng mà Thần Khí ban cho thân thể Hội thánh. Điều này có nghĩa là cần tận dụng mọi nguồn lực và cơ cấu mà Hội thánh nắm giữ.

Từ viễn tượng này, vào này 15/9/2018, bằng Tông hiến Episcopalis Communio (Tình hiệp thông Giám mục) (EC), Đức Thánh cha đã đưa ra tất cả các bước đặc thù hướng đến con đường mang tính quy chuẩn về một “Hội thánh hiệp hành từ nền tảng”. Ở đây, so với Vatican II, Tông hiến thể hiện một sự tiến triển được Thần Khí dẫn dắt: trong khi chúng ta tri ân Công đồng vì việc khôi phục lại các chủ thể của Hội thánh và bản chất thừa tác vụ của họ, thì văn kiện này đưa những lý luận mang tính lý thuyết trở thành thực tiễn Hội thánh. Viên đá đỉnh vòm là sự lắng nghe: mọi thực hành về tính hiệp hành “bắt đầu bằng việc lắng nghe Dân Thiên Chúa”, “tiếp tục bằng việc lắng nghe các Mục tử”“đạt tột đỉnh với việc lắng nghe Giám mục Rôma, Đấng được kêu gọi để phát ngôn trong tư cách là “mục tử và thầy dạy của tất cả các Kitô hữu”.

6.      Hiệp hành,
Hội thánh ưu tiên lựa chọn người nghèo

“Ưu tiên lựa chọn người nghèo” được truyền đạt cách mạnh mẽ bởi các Ngôn sứ và cả trong Tin mừng Mátthêu chương 25; điều đó cũng được diễn tả bằng những lời lẽ tương tự ở câu mở đầu của Hiến chế Gaudium et Spes: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô” (GS, số 1). Điều đó đã trở thành trọng tâm của Thượng Hội đồng năm 1971 với chủ đề “Công bình trong thế giới”; Thánh Gioan Phaolô II và Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đưa tư tưởng này vào trong Học thuyết Xã hội của Hội thánh Công Giáo. Nếu xem đây là dấu ấn của triều đại giáo hoàng hiện tại thì cũng chẳng có gì lạ thường, bởi Đức Thánh Cha Phanxicô rất quyết liệt đi theo những gợi ý của tư tưởng này trong việc rao giảng Tin mừng. Chúng ta cùng xem Hội thánh học về sự hiệp thông, tính tập đoàn, và tính hiệp hành đóng vai trò như thế nào trong việc thực hiện lựa chọn trên.

Đối với Đức Phanxicô, việc Hội thánh ưu tiên lựa chọn người nghèo (Evangelii Gaudium [EG], số 48) tuân theo logic vượt trội của biến cố Ngôi Lời Nhập thể. Cũng vậy, điều đó bắt nguồn từ những điều mà Ngôi Lời, Đức Giêsu Kitô đã dạy chúng ta về người nghèo qua lời nói và hành động của Ngài. Theo đó, Hội thánh phải nhận ra nơi ưu tiên này đặc quyền căn bản của việc phục vụ bác ái. Đức Thánh Cha chỉ rõ đây không phải là sự ưu đãi về mặt xã hội học, nhưng là một vấn đề thần học xác đáng, bởi vì nó quy hướng trở lại hành động cứu độ của Thiên Chúa: “Nếu không ưu tiên lựa chọn người nghèo, ‘việc rao giảng Tin mừng, một hoạt động tự thân mang hình thức hoàn hảo của đức ái, có nguy cơ bị ngộ nhận hoặc bị nhấn chìm bởi vô vàn lời nói đang vùi lấp chúng ta hằng ngày trong xã hội của phương tiện truyền thông đại chúng đương thời’” (EG, số 199).

Hơn nữa, đây không phải là biểu hiện của một “chủ nghĩa hành thiện” ngờ nghệch, thể hiện qua một số hoạt động hoặc một thứ khuynh hướng nào đó, nhưng lại không thực sự đại diện cho đặc tính căn cốt của đời sống Hội thánh. Đúng hơn, cần phải thừa nhận đó là một phần không thể thiếu, không những của các sách Tin mừng, mà còn của quá trình biến đổi Hội thánh được Công đồng Vatican II đòi buộc và khởi xướng. Trong thực tế, khi nhận ra “dấu chỉ thời đại” giữa dòng lịch sử về những người bé mọn và bị bỏ rơi, các Nghị phụ Công đồng tuyên bố rằng Hội thánh được kêu gọi để đi từ một tổ chức hoạt động bác ái xã hội, nơi người nghèo bị giản lược thành “những đối tượng” thuần túy cần chăm sóc, đến chỗ thừa nhận họ như “những thành viên” của Dân Thiên Chúa và như “những chủ thể” đón nhận ơn giải thoát.

Trong Thông điệp Fratelli Tutti (FT), giữa tất cả những hoàn cảnh dễ bị tổn thương, là những hoàn cảnh đặc trưng cho kết cấu xã hội ngày nay và đòi hỏi một phản ứng cấp bách, Đức Thánh Cha đặt lên hàng đầu tình trạng khẩn cấp mà những người tị nạn, di cư và tản cư nội địa phải đối mặt, hay được định nghĩa cách khác là tình trạng khẩn cấp của “các biên giới và các giới hạn của chúng” (FT, số 129-132). Mọi người trong Hội thánh cũng như xã hội được kêu gọi để “tiếp đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập” những người vì những lý do khác nhau bị ép buộc phải rời bỏ quê nhà, tức không thừa nhận “quyền không phải di trú của họ” (FT, số 38; 129).

Ý nghĩa của việc này là biến khái niệm về xã hội, nơi người xa lạ bị phân biệt đối xử, trở thành quan niệm về việc cùng chung sống trong xã hội, nơi tư cách công dân đầy đủ được bảo đảm cho tất cả. Thay vì “thực hiện các chương trình phúc lợi từ trên xuống” (FT, số 129), cần thiết phải đưa ra những khả năng cụ thể và hiệu quả cho sự hòa nhập: cấp phép nhập cảnh, mở các hành lang nhân đạo, được quyền sử dụng các dịch vụ thiết yếu và giáo dục, bảo đảm tự do tôn giáo (FT, số 130).

Như thế, những lời lẽ của Đức Phanxicô đưa chúng ta trở lại với ý thức mà Vatican II đã chân nhận về việc cần ưu tiên cho người nghèo, một sự kêu gọi của Chúa Thánh Thần để biến đổi cả các cấu trúc nội tại của Hội thánh lẫn chính đường hướng gắn liền với Tin mừng (LG, số 8; GS, số 1). Trao cho người nghèo vị trí ưu tiên giữa các thành phần của Dân Thiên Chúa (EG, số197-196) không chỉ có nghĩa là thừa nhận họ như những đối tượng ưu tiên lãnh nhận việc Phúc âm hóa mà còn xem họ như những chủ thể, những tác nhân tích cực của hoạt động này.

Evangelii Gaudium cổ võ tất cả những người đã chịu phép rửa xem việc gặp gỡ người nghèo là cơ hội thuận lợi cho phép chính họ được Đức Kitô Phúc âm hóa (EG, số 121,178). Lằn ranh phân biệt giữa những người đi loan báo Tin mừng và những người được loan báo đã bị xóa nhòa: “Chúng ta phải không ngừng để cho người khác loan báo Tin mừng cho chúng ta” (EG, số 121,174). Người nghèo cũng là những người loan báo Tin mừng, bởi vì trong tư cách là những thành viên của Dân Thiên Chúa, họ có nhiều điều để trao và để dạy chúng ta (EG, số 48). Như lời Đức Phanxicô gửi tới các thành viên nghèo của các phong trào cấp cơ sở: “Với tôi anh chị em là những nhà thơ xã hội, bởi vì từ những khu ngoại vi bị lãng quên nơi anh chị em đang sống, anh chị em tạo ra những giải pháp đáng khâm phục cho những vấn nạn cấp bách nhất đang tác động lên những người bị loại trừ”.[12][1]

Việc cổ võ các tín hữu bắt đầu lại từ những vùng ngoại vi – không chỉ về địa lý mà còn về hiện sinh – mang nhiều hình thức. Đó có thể là lưu tâm đến những bất công xã hội và những nỗi đau khổ cá nhân của những người sống trong những hoàn cảnh tuyệt vọng – đau đớn, nghèo khổ và bất hạnh. Đó có thể là thực hiện mọi điều được nêu trong chương 25 Tin mừng Mátthêu cũng như truyền thống tốt đẹp về các công việc của lòng thương xót. Và đó có thể mang ý nghĩa là vận dụng sự phong phú phức hợp của một chủ đề duy nhất ở Thượng Hội đồng Amazon, “Những con đường mới cho Hội thánh và cho nền sinh thái học toàn diện”, với hai yếu tố liên kết và phụ thuộc lẫn nhau về bản chất.

Từ ơn gọi được diễn tả trong Lumen Gentium của Hội thánh và con đường hiệp hành của nó, sứ mệnh truyền giáo, thăng tiến con người toàn diện và chăm sóc ngôi nhà chung tuôn trào. Và khi con đường mới mẻ để dấn thân vào các  vấn đề của gia đình nhân loại này được áp dụng cách quyết liệt, như một vấn đề thiết yếu và cần kíp, Hội thánh được trợ giúp để  thực hiện việc tản quyền và được thôi thúc đi ra những vùng ngoại vi. Hội thánh, Dân Thiên Chúa, cần bước đi cùng nhau, mang lấy gánh nặng nhân loại, lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, sửa đổi chính bản thân và hoạt động của mình, trước hết bằng cách lắng nghe tiếng nói của người thấp cổ bé họng, là số sót [anawim] theo Kinh thánh Do Thái, tức những người nằm ở tâm điểm đối với sứ vụ công khai của Đức Giêsu.

Chúng ta có thể xem tất cả những điều này như một giải pháp thông diễn cung cấp và tái định nghĩa lại việc thực hiện tính hiệp hành. Thật cần thiết việc “đặt tất cả vào trong một nhãn quan truyền giáo” (EG, số 34) và thông qua một mô hình đa diện về sự hiệp nhất Hội thánh và xã hội (EG, số 234-237), phản ánh một sự bén nhạy mới mẻ về Hội thánh và đại kết từ bên trong.

Cuộc cải cách mà Đức Phanxicô mời gọi chúng ta hoàn thành sẽ có kết quả nếu nó “hoàn toàn trút bỏ” khỏi mọi logic kiểu thế gian, tức logic của ý thức hệ biến đổi cũng như ý thức hệ bảo tồn. Thế gian hãnh diện về khả năng làm được các công việc hay thực hiện sự thay đổi về mặt cơ cấu một cách thường xuyên, mọi lúc và mọi nơi. Cuộc cải cách cổ võ mọi người biết biện phân những thời điểm và cơ hội “hoàn toàn trút bỏ” để cho sứ mệnh chiếu tỏa ánh sáng Đức Kitô đạt kết quả nhiều hơn. Giờ đây, khi Đức Phanxicô kêu gọi “tất cả các Kitô hữu” (EG, số 3) và “hết mọi người” (Laudato si’ [LS], số 3) “bất kể họ sinh ra và sống ở đâu chăng nữa” (FT, số1), để cùng đảm đương trách nhiệm được tóm kết trong “mối bận tâm dành cho những người dễ bị tổn thương” (EG, số 209-216), ngài hướng sự chú ý của mình không chỉ đến những người “nghèo” mà còn đến cả một trái đất “nghèo”.

Trở nên bén nhạy trước “tiếng kêu của người nghèo” cho phép chúng ta lắng nghe tiếng kêu của “chị trái đất” (LS, số 1). Đức Phanxicô nhấn mạnh mối tương quan giữa việc chăm sóc môi sinh và quan tâm người nghèo (LS, số 49); ngài nhắc lại vấn đề này rõ hơn bao giờ hết trong Tông huấn Amazon Yêu quý [Querida Amazonia] (QA, số 52) và trong loạt bài giáo lý từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2020.[4] Việc nối kết giữa vấn đề người nghèo và môi sinh khiến chúng ta tập chú vào việc tương lai của toàn thể nhân loại được liên kết mật thiết với vấn đề môi sinh như thế nào, và do đó, việc bảo vệ cho quyền lợi của những người bé mọn nhất cũng trùng khớp với việc giữ gìn công trình tạo dựng. Như Laudato Si’ tuyên bố: “Tất cả đều được nối kết với nhau” (LS, số 16;91;117;138;240).

Lắng nghe Dân Thiên Chúa, lắng nghe nơi họ tiếng kêu của những người nghèo bị ruồng bỏ và của trái trất bị lạm dụng, giúp cho Hội thánh tránh được nguy cơ phóng chiếu vào thực tại một kế hoạch nằm ngoài kinh nghiệm. Sai lầm này xuất hiện khi, mải mê với sự cải cách, Hội thánh theo đuổi một số chương trình lý tưởng xuất phát từ những tham vọng, dù có ý tốt nhưng lại truyền tải tư tưởng quy ngã. Nếu thế, kết cục của nó sẽ là việc rập theo một dạng khác của ý thức hệ thay đổi có tính cách “trần thế” thuần túy. Khi Hội thánh đồng hành cùng người nghèo trong công cuộc giải phóng họ, đến lượt họ, những người ấy sẽ giúp cho Hội thánh tự giải thoát khỏi những nguy cơ vốn có trong quá trình thể chế hóa của chính Hội thánh.

 


THAY LỜI KẾT :
THƯ GỬI NHỮNG NGƯỜI THÀNH TÂM THIỆN CHÍ
VÌ GIÁO HỘI HIỆP HÀNH[13]

Tác giả: Văn phòng Thường trực, HĐGM Ý

Bạn thân mến, 

Bạn là người khao khát một cuộc sống đích thực

Khao khát cái đẹp và công lý.

Bạn là người không hài lòng
với những câu trả lời dễ dãi

Bạn đang lo lắng và bối rối

khi đồng hành với con cái đang tuổi lớn lên.

Hay bạn đang trải qua bóng tối của cô đơn và đau buồn

Bồn chồn bởi nghi ngờ và mong manh bởi sự yếu đuối.

Bạn là người sống biết ơn trân trọng tình bạn

Hay bạn là người trẻ

và đang tìm kiếm sự tin tưởng và tình yêu. 

Bạn là người lưu giữ truyền thống

và những câu chuyện lịch sử

Bạn không ngừng hi vọng và bạn cũng là người

mà dường như hiện tại đã đánh cắp hi vọng.

Bạn là người đã gặp Chúa của sự sống

Hay là người vẫn đang loay hoay tìm kiếm

hoặc đang còn nghi ngờ… 

Chúng tôi mong muốn được gặp bạn! 

Chúng tôi muốn đi cùng bạn

trong buổi bình minh của những nỗi niềm mong đợi

Trong ánh sáng ban ngày

và cả khi bóng đêm buông xuống

và xung quanh không còn gì chắc chắn.

Trước mỗi người chúng ta

đều có những chướng ngại vật

Chúng ta chỉ có thể vượt qua khi vượt qua cùng nhau

Vì cuộc đời của chúng ta được gắn kết với nhau

Và lời hứa của Thiên Chúa

thì dành cho tất cả mọi người

Không loại trừ ai ! 

Chúng ta cùng bước theo Chúa Giêsu,

Đấng Hiệp Hành mà chúng ta tuyên xưng trước thế giới

là Con Thiên Chúa và Chúa chúng ta;

Người trở thành một người bạn đường

Hằng hiện diện cách kín đáo

nhưng trung tín và chân thành.

Người có khả năng thinh lặng đón nhận

Nâng đỡ mà không phán xét,

và trên hết là sự lắng nghe. 

“Hãy lắng nghe!”

Đó là mệnh lệnh Kinh Thánh phải học:

Lắng nghe Lời Chúa

và lắng nghe các dấu chỉ của thời đại.

Lắng nghe tiếng rên của trái đất

và tiếng kêu của người nghèo.

Lắng nghe tiếng lòng của từng người nam, nữ

Dù họ thuộc bất kỳ thế hệ nào.

Có một kho tàng ẩn trong tâm hồn mỗi người

Mà chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng vẻ đẹp

Và gìn giữ trong sự mong manh của nó. 

Tiến trình hiệp hành

sẽ kéo dài cho đến Năm Thánh 2025

Để khám phá lại cảm thức thuộc về một cộng đồng

Sự ấm áp của một ngôi nhà thân thiện

và nghệ thuật chăm sóc.

Chúng ta cùng mơ ước về một Hội thánh

cởi mở trong đối thoại.

Không còn là “của tất cả” mà luôn là “vì tất cả”. 

Có lẽ hôm nay chúng ta cần sống chậm lại

Gạt sang một bên những lo lắng về những việc phải làm

Để bản thân chúng ta trở nên gần gũi với nhau hơn.

Thực vậy, chúng ta là những người chăm sóc cho nhau

Và chúng ta muốn vượt ra ngoài thói quen thoải mái

Những gì đã luôn được làm như thế

Theo lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô

Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ phục vụ,

Ngài đã mời gọi chúng ta:

“Hãy bước đi, kiến tạo và tuyên xưng”. 

Cuộc khủng hoảng y tế đã cho thấy rằng

Chuyện của mỗi người đều đan xen

với câu chuyện của những người khác

và chúng phát triển với nhau.

Thậm chí, nó tiết lộ một cách đáng kinh ngạc rằng

Nếu không có sự lắng nghe lẫn nhau

Và một con đường hiệp hành

Chúng ta sẽ kết thúc trong một tòa tháp Babel mới.

Ngược lại, khi tình huynh đệ

được ưu tiên hơn tính ích kỷ cá nhân

Thì điều đó không còn là không tưởng.

Nhưng đó là một cách hiện diện trong thế giới

Trở thành một tiêu chí chính trị

Để đối diện

với những thách thức lớn của thời đại hôm nay.

Đây là ý nghĩa của Tiến trình Hiệp Hành:

Chúng ta cùng lắng nghe và chia sẻ

để mang niềm vui Tin Mừng đến cho mọi người.

Đó là cách mà tài năng của mỗi người,

gồm cả sự yếu đuối

Tạo nên một bức tranh mới

Trong đó mỗi người đều có một khuôn mặt

không thể nhầm lẫn.

Một xã hội mới và một Hội thánh đổi mới.

Một Hội thánh đổi mới cho một xã hội mới. 

Bạn có ở đó không?

Vậy thì hãy cùng nhau ta hăng hái hiệp hành.

Tương lai ấy trước hết phải được mơ ước,

khát khao và mong đợi. 

Chúng ta hãy lắng nghe nhau

 để xây dựng mối quan hệ và tạo niềm tin.

Hãy lắng nghe nhau

để khám phá lại khả năng của chúng ta;

Hãy lắng nghe nhau

bắt đầu từ những câu chuyện của chúng ta

Học cách trân trọng những nén bạc tài năng

và sức mạnh khác nhau.

Chắc chắn khi trao nhau những hồng ân

sẽ tạo ra sự sống.

Cho đi là sinh ra.

Cảm ơn sự đóng góp của bạn. 

Chúc bạn “chân cứng đá mềm” !

Roma, ngày 29 tháng 9 năm 2021



[1] Vì nhu cầu học hỏi, người biên soạn xin phép được sử dụng các bản văn có sẵn, lược bỏ, sắp xếp, tổng hợp, in nghiêng, in đậm và đặt thêm các tiêu đề để bạn đọc dễ lãnh hội hơn.

 

[3] Xc. Tài liệu chuẩn bị THĐ, số 32.

[4] Ibid., số 1.

[5] Xc. Lumen Gentium, số 32

[6] Xc. Bản dịch tiếng Việt của tác giả Vũ Văn An, Tính đồng nghị trong đời sống và sứ mệnh của Hội thánh, số 11-23 (thay vì dịch là tính “hiệp hành”, tác giả dịch là “tính đồng nghị”).

[7] Xc. WHĐ 30.9.2021

 

[8] Xc. https://tgpsaigon.net/bai-viet/hiep-hanh-la-loi-song-cua-hoi-thanh-64898

[9] Xc. Văn kiện của Ủy ban Thần học Quốc tế, số 6.

[10] Xc. Michael Czerny, SJ, Lumen Gentium và chiếc kim t tháp ngược.

 

[11] J. H. Newman, On Consulting the Faithful in Matters of Doctrine, John Coulson biên tập và giới thiệu, London, 1961, tr. 41.

 

[12] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thư gửi các phong trào đại chúng,
  12/4/2020 (https://www.vatican.va/).

[13]  Đình Chẩn chuyển ngữ từ camminosinodale.chiesacattolica.it.   
   
Nguồn: vanthoconggiao.net (18.02.2022)

 

 

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn