Fr. Giuse Nguyễn
Văn Hiển, OP.
DẪN NHẬP
1. “Con người nội tâm cảm thấy những thời giờ thinh lặng là một yêu sách của tình yêu Thiên Chúa, và theo thông thường họ cần phải có một sự cô tịch để lắng nghe Thiên
Chúa “nói trong tâm hồn họ” (số 46)”[1].
Đó là những nhắn nhủ của Đức Phaolô VI trong Tông huấn “Chứng tá Phúc âm” khi trình bày về những yếu tố của việc Canh Tân và Thăng tiến đời sống thiêng liêng của đời Tu mà trong đó có sự Thinh lặng.
Ngài nói tiếp ở một chỗ khác của Tông huấn rằng:
“… Ta cần nhấn mạnh rằng: một sự thinh lặng mà chỉ là vắng tiếng động và lời nói nhưng trong đó linh hồn không được rèn luyện lại, thì rõ ràng là một thứ thinh lặng thiếu giá trị thiêng liêng,
và có thể làm tổn thương đến đức ái huynh đệ, nếu lúc đó cần phải có những lời trao đổi với nhau. Nhưng sự tìm kiếm tình thân mật với Thiên Chúa đòi toàn thể con người cần phải thinh lặng cho thật sống động, đối với những người phải tìm Thiên Chúa
trong ồn ào náo nhiệt, cũng như đối với những người chuyên chiêm
niệm. Đức tin, đức cậy, lòng mến yêu Thiên Chúa, sự sẵn sàng đón nhận hồng ân Chúa Thánh Thần cũng như một tình yêu
huynh đệ biết mở rộng đón nhận mầu nhiệm tha nhân và nhu
cầu của họ, tất cả đều đòi phải có một sự thinh lặng” (số 46).
2. Trong một bức ảnh về thánh Phêrô Vêrôna, op., ở cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13 ở Tu viện thánh Marcô, và cũng
được thấy tại ngay cuối hành lang trước khi vào khu giảng đường của Đại học Giáo hoàng Angelicum,
cho thấy tu sĩ Đaminh này đang đặt một ngón tay trên miệng với ngụ ý : hãy im lặng. Đó là tiếng nhắc nhở, mời gọi vào thinh lặng khi bước vào trong tu viện hay trong giảng đường thánh khoa. Đó là tiếng gọi vào sự thinh lặng cho đời sống bên trong : Hãy im lặng và tôi thinh lặng. Hình ảnh này cho thấy một biểu tượng của sự bày tỏ của trái tim cũng như của thân thể.
3. Chúng ta bắt đầu bước vào Năm Phụng vụ mới, và khởi đầu của nó là Mùa Vọng, chuẩn bị cho Giáng Sinh và Hiển Linh. Trong cái se lạnh của tiết trời mùa đông; trong cái long lanh của ánh sáng đêm, của hang đá, của trang hoàng đường phố đang tấp nập… Đi qua những con đường ấy, chúng ta dừng lại bên hang đá, sự thánh thiêng mời gọi chúng ta thinh lặng; mời gọi chúng ta dừng lại và quy hướng vào nội tâm của chính mình, để nhận biết và cảm nếm ý nghĩa của lời mời gọi: “Ngày hôm nay đã
sinh cho chúng ta Đấng Cứu Độ muôn dân”. Hài nhi mới sinh. Chưa biết nói. Thinh lặng trong vòng
tay mẹ mình và trong giấc ngủ. Sự thinh lặng bao trùm.
Trong bài huấn dụ của Đức Phanxicô trong ngày lễ Hiển Linh năm 2021, ngài mời gọi : « Chúng ta hãy dừng lại trong sự thinh lặng trước máng cỏ Hài Nhi để cảm nếm sự dịu dàng của Thiên Chúa thể hiện cách gần gũi trong thân thể của người ».
… Và mới đây, Toà giám mục Saigon cũng
nhắc nhở cộng đoàn tín hữu về việc giữ “thinh lặng thánh” trong thánh lễ cử hành, để cho Phụng vụ
được cử hành không phải là một sự hoàn thành các nghi thức, nhưng là để sống
thực sự tương quan thần thiêng mà trong đó cần có những khoảng thinh lặng để
chiêm ngắm, cảm nhận (x. Toà giám mục Sàigon, Văn thư ngày 25.11.2022).
Ở nơi mời gọi thinh lặng
Hãy bước vào trong cung nguyện của lòng mình và hòa mình vào trong các cử hành Phụng vụ thánh.
Khi bạn bước vào trong một Phụng vụ, bạn bắt gặp một rừng những cử chỉ diễn ra một cách đều đặn liên tục. Nhưng một thực tế đã xảy ra là rất nhiều tín hữu đã phàn nàn với lý do về sự thiếu vằng sự thinh lặng trong một số hình thức cử hành phụng vụ theo nghi thức của chúng ta, theo nhận định của hồng y Sarah Robert, tổng trưởng Bộ Phụng tự, kỷ luật và Bí tích của Giáo hội. Người ta cũng ước ao có những cử hành Phụng vụ đẹp, trang trọng và sốt mến.
Chính vì điều này mà đã có một xu hướng khuyến khích cho một sự lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, vốn được coi là một trong những khía cạnh cần thiết, quan trọng trong cử hành Phụng vụ; và hẳn nhiên căn bản cho đời tu chúng ta.
Trong phần trình bày dưới đây, chúng ta sẽ nói đến thinh lặng :
- ví như giá trị nhiệm nhặt Kitô giáo
- như một điều kiện cần thiết cho một lời cầu nguyện sâu sắc và chiêm niệm
- một chuẩn bị cách chính đáng
thích hợp trong việc cử hành Thánh Thể
- là phẩm chất quan trọng của phụng vụ
“Phụng vụ là một cái gì mà người ta sống, chứ không nói đến, nhưng người ta sống với một năng lực lạ lùng”, cha Maurice
Zundel đã cảm nhận như vậy khi bắt đầu làm quen với đời sống Đan viện theo phong thái Biển Đức. Và ở đó là một sự trải dài của đời sống được chiếu theo Phúc âm của những con người ở đó.
1.-
Sự thinh lặng mang giá trị nhiệm nhặt Kitô
giáo
Trong ý nghĩa
phủ định, thinh lặng là thiếu vắng tiếng động. Nó có thể là bên ngoài hoặc bên trong. Sự thinh lặng bên ngoài liên quan đến sự thiếu vắng của thinh lặng : trong lời nói và hành động (những tiếng động của các cửa nhà, của xe cộ, của máy cắt, của máy bay.....). Sự thinh lặng nhân đức - cũng như mầu nhiệm - dĩ nhiên cần phải phân biệt với sự thinh lặng ngượng ép, từ chối để hướng đến lời; sự thinh lặng khiếm khuyết bởi sự lỏng lẻo, tự kiêu và chai cứng của trái tim.
Sự thinh lặng bên ngoài là một sự thinh lặng nhiệm nhặt của việc làm chủ hình thức của lời. Chúng ta nói về ý nghĩa của nhiệm nhặt. Hạn từ này dường như không phù hợp với một thế giới hưởng thụ như xã hội của chúng ta. Cũng thấy rằng, hạn từ này có thể gây nên sự sợ hãi cho người đương thời và hẳn nhiên cả với những kitô hữu, vốn chịu ảnh hưởng bởi tinh thần thế tục. Vậy thế nào là nhiệm nhặt ?
Sự nhiệm nhặt đó là một phương thức không thể không nghĩ đến, bởi nó giúp chúng ta lấy khỏi đời sống mình tất cả những gì đã đè nặng nó, nghĩa là những gì đè nặng đến đời sống thiêng liêng hay bên
trong của chúng ta, tất cả những gì góp phần tạo ra những rào cản cho lời cầu nguyện.
Quả thật, trong lời cầu nguyện, Thiên Chúa đưa chúng ta đi vào mối liên kết với Sự Sống của Người, nghĩa là bày tỏ sự hiện diện của Người trong tâm hồn chúng ta bởi chính sự tròn đầy của Tình Yêu Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Và căn bản, cầu nguyện là thinh lặng.
Tán gẫu, xu hướng này đưa ra bên ngoài tất cả những kho báu của tâm hồn trong lúc tán gẫu. Tán gẫu là một tai hại bao trùm cả đối với đời sống tâm linh. Lấy vào từ bên ngoài bởi nhu cầu của việc muốn nói tất cả; sự tấn gẫu chỉ có thể đưa đến sự xa cách Thiên Chúa, viển vông và chẳng có khả năng hướng trọn vẹn đến hành động sâu sắc.
Những cuốn sách khôn ngoan của Cựu ước như sách Châm ngôn : 10,8.11.13.14.18-21.32; 15,1-7; và sách Sáng thế
19,7-12;,20,1-2.5-8 hoặc 23,7-15; 28,13-26 đã
khuyến cáo hãy tránh xa những tội lỗi do cái lưỡi gây ra. Các Ngôn sứ kêu gọi sự thinh lặng như sự diễn tả của sự kính sợ đối với Thiên Chúa. Vì thế, nó là một sự chuẩn bị cho sự biểu lộ của Thiên Chúa, nghĩa là
cho sự mặc khải của sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới chúng ta (Sôphônia
1,7; Ha 2,20; Is 41.1 và Dacaria 2,17).
Trong Tân ước, lá thư của thánh Giacôbê đã bàn đến sự thống trị của miệng lưỡi (Gc 3,1-10). Tuy
nhiên, chúng ta thấy rằng, chính Đức Giêsu đã chống lại những ngôn ngữ điêu ngoa, vốn là sự diễn tả của tư tưởng lầm lẫn (Mt 15,19) và cũng như chống lại những ngôn từ tưng bốc. Chúng ta sẽ phải trả lẽ về những điều đó (Mt 12,36).
Ngược lại chúng ta chỉ có thể yên vị cách đáng khâm phục bởi sự thinh lặng của Chúa Giêsu khi đối diện với Philatô và Hêrôđê: “Jesus
autem tacebat” (Mt 26,63). Hêrôđê đề nghị một phép lạ cho chính ông và quần thần của ông như một sự hài hước. Nhưng Đức Giêsu đã im lặng trước sự đề nghị ngỗ nghịch, kiêu căng của vị vua này, trong khi đó Người lại thực hiện cho những người bé mọn và khiêm nhường.
Thực tế, sự thinh lặng chân thực và tốt lành luôn thuộc về ai đó muốn nhường lại chỗ của mình cho người khác, nhất là cho Đấng Khác, là Thiên Chúa.
Ngược lại, sự ồn ào bên ngoài cho thấy tính cá nhân mà nó muốn chiếm đoạt một vị trí rất quan trọng.... mà nó muốn lấn chiếm hoặc xâm lấn toàn bộ những chỗ trống ở bên trong, giống như đó là trường hợp của nhiều cửa tiệm và của những nơi phục vụ công cộng, và nhất là trong những phòng đợi của nha khoa hay cắt tóc... nơi mà người ta để một loại âm nhạc căn bản không ngừng.
Sự thinh lặng bên trong có thể được coi như bởi sự thiếu vắng của những kỷ niệm, của kế hoạch, của ngôn ngữ bên trong, của những lo lắng... Quan trọng hơn nữa, nhờ một hành động của ý muốn, nó có thể giải quyết sự thiếu vắng của những ảnh hưởng lộn xộn hoặc của những ước muốn vượt quá sự kiểm soát.
Các Giáo phụ của Giáo hội đồng ý về một vị trí tuyệt vời cho sự thinh lặng trong đời sống nhiệm nhặt. Chúng ta nghĩ đến thánh
Ambrosio trong bài chú giải Thánh vịnh 37,12-15 và thánh Augustinô, thánh Grêgôriô Cả khi nói đến đời sống đạo đức (Moralia II, 48; XXII, 16; XXX, 16), chúng ta chưa nói đến chương VI của Tu Luật của Thánh Biển Đức, về “taciturnite”- sự kiệm lời, hoặc trong chương 62 về sự thinh lặng của đêm tối, nơi đã làm nên môn đệ Cassien. Từ những vị tôn sư này, tất cả những nhà thiết lập các dòng tu thời trung cổ, đã theo những sự nhiệm màu này cho sự Cải tổ Công giáo, họ nhấn mạnh đến không chỉ là sự nhiệm nhặt nhưng còn cả sự nhiệm mầu của thinh lặng.
2. Thinh lặng được ví như điều kiện của lời cầu nguyện chiêm niệm
Trong Tin mừng, chính Đấng Cứu Độ đã cầu nguyện trong thinh lặng, nhất là ban đêm (Lc 6,12)
hoặc tự lui ra nơi hoang vắng/sa mạc (Lc 5,16; Mc 1,35). Sự thinh lặng là một đặc trưng của việc chiêm niệm Lời Thiên Chúa. Chúng ta có những mẫu gương đã sống ý nghĩa đó, nhất là với Đức Maria trước mầu nhiệm của Con của người (x. Lc 2,19.51) và dĩ nhiên là cả thánh Giuse nữa. Đây là người được thấy là giữ thinh lặng nhất trong Tin mừng. Chúng ta chẳng tìm thấy một lời nào của ngài được ghi nhận trong Tân ước. Chính vì thế, thánh Basiliô
đã nhìn nhận sự thinh lặng không chỉ tựa như một sự nhiệm nhặt cần thiết của đời sống đan viện, nhưng nó còn giống như một điều kiện của việc gặp gỡ với Thiên Chúa (Lettre 2,2-6: PG 32,224-232). Sự thinh lặng báo trước và chuẩn bị cho một sự kiện đáng nhớ, mà ở đó, chúng ta chuẩn bị một con đường cho Thiên Chúa, Đấng chờ để nói với chúng ta diện đối diện tựa như chúng ta nói với một người bạn của mình (x. Xh 33,11; Ds 12,8; Đnl 34,10).
Chính nhờ đó mà chúng ta nhận biết Thiên Chúa. Sự thinh lặng được ghi trong con đường tiếp cận với Thiên Chúa[2] và nó rất quan trọng đối với tư tưởng các Giáo Phụ, nhất là những giáo phụ hy lạp, các vị đã đòi hỏi sự thinh lặng từ những lý do chinh đáng khi đối diện với mầu nhiệm Thiên Chúa (chẳng hạn: Clémentê d’Alexandrie, Gregoire de Naziane, Gregoire de Nysse).
Một điểm chắc chắn và vững mạnh xuất phát từ sự thinh lặng và nhất là nó mang đến thái độ tích cực đối với những người chuẩn bị cho việc đón tiếp Thiên Chúa nhờ việc lắng nghe Người. Bởi vì, Thiên Chúa hoạt động ngay trong chính sự thinh lặng. Thánh Gioan Thánh
Giá đã rất đề cao cho việc này : “Thiên Chúa Cha, Người chỉ nói một lời, cũng như chính Con của Người và trong sự thinh lặng vĩnh cửu, Người đã nói rằng: linh hồn phải lắng nghe Người trong thinh lặng”[3].
Sách Khôn ngoan
chương 8 câu 14 đã cho thấy cách thức mà Thiên Chúa đã can dự để giải phóng dân của Người khỏi sự nộ lệ Ai Cập: Hành động không thể quên này được thực hiện ban đêm : “Như vậy, một sự thinh lặng an bình đã lấy đi tất cả mọi sự và bóng đêm đang bao trùm, cuộc hành trình từ trên các tầng trời, Lời của Thiên Chúa được phát ra từ trên ngai”.
Những lời này đã được lấy lại đặt vào trong Truyền thống Phụng vụ kitô giáo như một biểu tượng của sự Nhập Thể lặng lẽ của Ngôi Lời vĩnh cửu trong máng cỏ Belem[4].
Chân phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi đã khẳng định, sự thinh lặng là điều kiện của việc chiêm niệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Vậy cần phải thực hiện sự thinh lặng: cần phải có một hành động, không phải chỉ một hình thức. Nếu như “điện thoại di động bên trong của chúng ta” rung nhưng luôn luôn bận rộn, là bởi vì chúng ta đang “nói chuyện” với những tạo vật khác. Điều này cho thấy làm thế nào Đấng Tạo Dựng có thể có con đường đến với chúng ta, làm thể nào Người có thể “gọi cho chúng ta”?
Vậy chúng ta cần phải thanh tẩy sự thông minh của chúng ta khỏi những sự tò mò này, khỏi những ý muốn của những dự phóng của chúng ta, để nhờ đó chúng ta mở ra cách trọn vẹn cho ân sủng của ánh sáng và sức mạnh mà Thiên Chúa muốn trao cho
chúng ta cách tràn đầy : “Lạy Cha, không phải ý của con, nhưng ý của Cha”[5].
3. Sự Thinh lặng được chuẩn bị bởi những quy luật Phụng vụ
Lời cầu nguyện là một cuộc nói chuyện, cuộc đối thoại với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Vào một số thời gian nào đó, người ta hướng đến Thiên Chúa hoặc người khác, người ta giữ thinh lặng để lắng nghe Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta chẳng lấy làm bất ngờ khi phải đánh giá rằng, sự thinh lặng là một yếu tố quan trọng cấu thành thành phần của Phụng vụ.
Hẳn rằng, đối với nghi thức Đông Phương, thời gian thinh lặng trong Phụng vụ Thánh dường như không đề cao. Thánh lễ luôn được hát lớn tiếng, linh mục chỉ không hát ở những chỗ cần thiết, nhưng cũng có nghĩa là lúc ngài cầu nguyện trong thinh lặng (trong sự âm thầm như cách nói latin là secreto), nhất là trong phần Kinh Nguyện Thánh Thể, ngoại trừ đối với những lời thánh hiến. Quả nhiên, trong suốt thời gian Phụng vụ Thánh, phó tế, ca đoàn hoặc ngay cả các tín hữu hát một cách liên tục.
Nhưng, truyền thống Đông phương lại nhận biết cách mạnh mẽ chiều kích thần học của lời cầu nguyện, được diễn tả bởi tất cả những ý nghĩa hình thức của giá trị ngôn ngữ ở dạng tính từ và trạng từ, nói đến Vua Thống Trị Vũ trụ và Đấng Cứu Độ các tâm hồn. Chẳng hạn, trong kinh “Tiền Tụng” của nghi thức Byzantin hát rằng: “Người là Thiên Chúa không
thể diễn tả, không thể hiểu, không nắm bắt, đụng chạm và bất bại....”. Hơn nữa, điều căn bản của Phụng vụ Thánh đó là yếu tố kéo dài trong “Mầu nhiệm”; một cách rõ ràng, nó được cử hành phía sau những bức tường icôn, và
linh mục đứng ở bàn thờ Thánh Hiến, luôn cầu nguyện trong thinh lặng.
Ở Tây Phương thì ngược lại, trong mọi nghi thức (Roma, Roma-Lyon, Đaminh, Ambrôsiô....), lời cầu nguyện thinh lặng của linh mục đã chẳng bị chồng lên bởi những bài hát của ca đoàn hay của các tín hữu. Vì thế, trong thánh lễ latin luôn bao
gồm thời gian thinh lặng trọn vẹn. Cho đến thời kỳ cải tổ của thánh giáo hoàng
Phaolo VI, đã có một trường hợp nhất là trong thời gian của Kinh Nguyện Thánh Thể (Canon), đã được công bố bởi người cử hành trong thinh lặng (secreto),
ngoại trừ một ít trường hợp của việc đồng tế bí tích.
Thực sự, trong một số nơi, người ta đã muốn lấp đầy những chỗ trống của sự thinh lặng trong giây lát (từ 5-8) mà trong thực tế nó chỉ mang hình thức, thể hiện qua tiếng đàn organ hoặc bởi những bài hát nhiều cung; nhưng cần phải thấy rằng hình thức thực hành này không liên quan đến tinh thần của các nghi thức này.
Công đồng Vatican II đã trù bị cho việc giữ một thời gian thinh lặng trong phần thánh hiến Thánh Thể. Và điều này còn được ghi nhận trong Hiến chế về Phụng vụ Sacrosanctum Concilium số 30 rằng : “Để thúc đẩy cho việc tham dự tích cực, [...] Cũng cần phải giữ sự thinh lặng thánh thiêng đúng lúc của nó”.
Bản Giới Thiệu Chung về Sách Lễ Roma của thánh Giáo hoàng Phaolo VI, tái bản năm 2002 bởi thánh Gioan Phaolo II
đã nhấn mạnh ở nhiều chỗ của thánh lễ cần thiết có sự thinh lặng. Chúng ta đọc thấy trong một giải thích ý nghĩa của
việc tuân giữ sự thinh lặng, vốn đã được nói ở số 30 rằng : “Một sự thinh lặng thánh, làm thành thành phần của cử hành, và vì thế nó cũng cần được tuân giữ vào thời điểm của nó (x. Instr. Musicam
sacram, số 17)[6].
Quy
chế
Sách lễ
Roma và sự
thinh lặng
được
đề
nghị
[SLRM, các số
51 (số
cũ 29), 164 (121), 165 (122)]
Tính chất của nó lệ thuộc vào lúc mà nó tìm thấy vị trí trong mỗi cử hành phụng vụ: trong khi chuẩn bị cho việc sám hối, sau khi đã mời gọi tất cả bước vào lời cầu nguyện, từng người tự đón nhận; sau bài đọc hoặc bài giảng, chúng ta suy niệm ngắn ngọn những gì chúng ta vừa lắng nghe; sau rước lễ, sự thinh lặng cho phép lời ca tụng và lời cầu nguyện xuất phát từ bên trong. Hẳn nhiên, trước khi cử hành, cũng thật tốt khi giữ sự thinh lặng trong nhà thờ, nơi phòng thánh và trong những nơi vốn gắn với việc chuẩn bị cử hành Phụng vụ. Điều này được thực hiện nhằm giúp mọi người đi vào việc cử hành những mầu nhiệm thánh bằng tất cả trái tim và theo những nghi thức” (SLRM, số 45/ số cũ là 23).
Thời gian đầu tiên được đề cập cho hành động thinh lặng này đó là : khi chuẩn bị cho phần sám hối: “[...]. Sau một thời gian ngắn thinh lặng, tất cả cộng đoàn thú tội [...].” (SLRM, số 51/ cũ là 29).
Kế đến là lời tổng nguyện: “[....] Linh mục mời dân chúng cầu nguyện và tất cả cùng với linh mục, giữ thinh lặng một chút để hồi tâm và ý thức rằng, họ đang đứng trước sự hiện diện của Thiên Chúa; rằng họ đang gởi đến Đấng Cao Cả thánh thiêng và để nói đến những ý hướng bên trong là những lời cầu nguyện của chính họ. [...]” (SLRM, số 54/32 và
127/88).
Chúng ta tìm thấy tính cách hợp lý đặc biệt cho sự thinh lặng ngay sau khi rước lễ (x. SLRM, số 164/121), và ngay cả lúc chuẩn bị lắng nghe lời nguyện “sau hiệp lễ” (số 165/122). Đối với những thánh lễ cử hành không có cộng đoàn tham dự, việc giữ thinh lặng trong những thời khắc cần thiết cũng được đề nghị đối với người cử hành : “Ngay khi việc tráng chén được hoàn thành, thật là phù hợp khi linh mục giữ một thời gian thinh lặng .....” (số 271/230).
Quả thực, sự thinh lặng chẳng bao giờ vắng bóng trong hình thức Phụng vụ Roma, nếu người ta thực sự giữ những chỉ dẫn trong sách Phụng vụ và rằng người ta thực sự hiểu những đề nghị này. Tiếc thay, rất thường khi “người ta quên rằng, Công đồng cũng đã đặt trong l’actuosa
participatio của thinh lặng, vốn thúc đẩy cho một sự tham dự thực sự sâu sắc, cá nhân, và nó cho phép chúng ta được lắng nghe lời của Thiên Chúa từ bên trong chúng
ta. Hoặc từ sự thinh lặng này, không còn dấu vết trong một số nghi thức”[7].
Ngoài ra, ngoài bài giảng, cần phải loại bỏ tất cả những bài tán dương, giới thiệu cá nhân trong thời gian cử hành Thánh Lễ.
Thật vậy, cần phải tránh việc chuyển đổi nhà thờ vốn là nhà của Thiên Chúa dành cho
việc tôn thờ, thành một khán phòng của tuồng kịch, ở nơi mà người ta luôn vỗ tay tán dương các diễn viên, những người ít nhiều có những phẩm chất trong chức năng và khả năng truyền thông theo cách mà
chúng ta thường thấy trong lĩnh vực giải trí và truyền thông. Hoặc trong thời đại của chúng ta, đôi khi người ta có ấn tượng rằng “sự phụng thờ công giáo đã chuyển qua từ việc tôn thờ Thiên Chúa thành một sự trưng bày của linh mục, của các thừa tác vụ và của các tín hữu. Lòng đạo hạnh hay đạo đức phụng vụ
bị loại bỏ, nó cũng bao hàm như chính ngôn ngữ của nó. Vì thế, phụng vụ đã bị làm cho “tan chảy” bởi chính các “nhà phụng vụ-cử hành”, vốn được phẩm chất hóa qua những “đam mê đạo đức” hào nhoáng và mang
đầy sắc thái phô trương lễ hội, trong khi chính họ làm đau khổ dân chúng bởi “kinh nghiệm phụng vụ” của chính họ.
Người ta đã đạt được việc đưa vào trong cử hành phụng vụ những lần vỗ tay; và hành vi này
diễn ra ngay cả trong đám tang, thay
vì đó là nơi của tang thương và nước mắt: Đức Kitô đã chẳng khóc thương trước cái chết của Lazaro sao? Khi những tiếng vỗ tay cắt mất sự linh
thiêng và sự kính trọng trong phụng vụ, thì đó là dấu chỉ chắc chắn rằng chúng ta đã làm mất đi yếu tố chính căn bản của phụng vụ[8].
4. Tầm quan trọng của thinh lặng cho phẩm chất của phụng vụ
Cuối cùng, cần phải nỗ lực để hiểu rằng, những hướng dẫn có tính kỷ luật phụng vụ thì liên hệ trực tiếp đến thinh lặng và giúp để tự đào sâu chúng. Tôi mạn phép nhắc đến hai nhân vật thế giá có hiểu biết đặc biệt về ý nghĩa của thinh lặng phụng vụ; các ngài sẽ giúp chúng ta hiểu không chỉ là tầm trong quạn của việc cử hành Phụng vụ thánh nói chung, nhưng nhất là sự cần thiết của thinh lặng trong phụng vụ thánh.
1. Người đầu tiên mà chúng ta đề cập đến đó là Đức giám mục Guido Marini, nguyên là Chưởng nghi của Phủ Giáo hoàng dưới triều thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II,
Đức Biển Đức XVI và Đức Phanxicô cho đến năm 2021, khi ngài được bổ nhiệm làm giám mục tại Tortone, Ý. Theo ngài:
“Một phụng vụ được cử hành tốt nhất thì trong một số phần khác nhau của tiến trình, cần phải chuẩn bị những khoảng thời gian đan kẽ của sự thinh lặng và của lời, nơi mà sự thinh lặng điều khiển lời, cho phép tiếng vang lên với một sự sâu rộng ngoại thường, và giữ cho sự diễn tả lời kinh trong một bầu khí chân thật của sự đón nhận.... Sự thinh lặng được đề nghị không phải là được coi như một sự nghỉ ngơi giữa một thời gian của cử hành và của sự tiếp theo. Cần phải nghĩ rằng nó là một thời gian chân thật của nghi thức, bổ túc cho lời: của lời cầu nguyện bằng lời, của lời hát và của cử chỉ”[9].
2. Người thứ hai trong đó là hồng y Joseph Ratzinger. Ngài đã bàn đến vai trò của thinh lặng thánh trong phụng vụ trong cuốn sách (vốn cũng tạo ra những tranh luận) có tên : “Tinh Thần Phụng vụ” (2001). Đối vị hồng y, Tổng trưởng Bộ giáo lý Đức tin và sau này là
Giáo hoàng Biển Đức XVI :
“Mầu nhiệm lớn lao vượt qua mọi lời nói, nó kêu gọi chúng ta đến sự thinh lặng. Và thinh lặng, cách hiển nhiên, cũng thuộc về phụng vụ. Thinh lặng cần phải tròn đầy, rằng nó không đơn thuần chỉ là sự vắng bóng của bài diễn thuyết hay một hành động. Điều mà chúng ta đợi chờ trong phụng vụ, đó là nó cung cấp cho chúng ta sự thinh lặng căn bản, tích cực mà ở nơi đó chúng ta có thể tìm thấy chính chúng ta. Một sự thinh lặng, không phải là một sự nghỉ, ở nơi mà hàng nghìn ý tưởng và ước muốn khuấy động chúng ta, nhưng đó là một sự tiếp nhận, mà chính nó mang lại cho chúng ta sự bình an nội tại, giúp chúng ta hít thở và khám phá ra điều căn bản…”[10].
Vì thế, cần phải có một sự thinh lặng mà ở đó chúng ta chỉ đơn giản sẽ nhìn ngắm Thiên Chúa, và chúng ta để cho Thiên Chúa nhìn chúng ta và
làm cho chúng ta được
phát triển trong mầu nhiệm của sự cao cả và tình yêu của Người.
Cũng vậy, hồng y Joseph Ratzinger cũng đã đề cập đến những thời gian của thinh lặng đặc biệt. Chẳng hạn: “Khi đến lúc chuẩn bị lễ vật, và việc chuẩn bị lễ vật trong thinh lặng. Việc thực hành này vì thế phù hợp với việc chuẩn bị những lễ vật và chỉ là sự triển nở. Với những điều như thế, việc chuẩn bị cần được đón nhận không chỉ như một hành động bên ngoài, cần thiết cho tiến trình của phụng vụ, nhưng giống như một sự khởi sự cần thiết từ bên trong. [...] Nó cần thiết cho sự kết hợp của chúng ta vào hiến tế mà Đức Giêsu Kitô dâng hiến cho Chúa Cha [...]”[11].
Vì thế, dường như cần phải giảm thiểu hay loại bỏ đi những hình thức rước, tiến dâng lễ vật lâu giờ và đầy ồn ào, nó bao gồm những điệu nhảy đan kẽ ở một số quốc gia Châu Phi hoặc cả chính trong xã hội Việt Nam của chúng ta. Việc thực hành này nó tạo ra ấn tượng rằng người ta đang trình diễn dân gian và
làm mất đi bản chất của sự hiến tế của Đức Kitô trên thập giá và làm
cho chúng ta bị lìa xa việc đi vào mầu nhiệm thánh thể, bị phân tán bởi những điều rườm rà không cần thiết. Hoặc việc chuẩn bị này có thể chỉ được cử hành trong một sự tiếp nhận đơn giản, nhưng cần phải làm cho nổi bật ý nghĩa của sự tiến dâng rằng: chúng ta được dìm mình vào trong cái chết và lễ vật của Người dâng lên Chúa Cha.
3. Cũng thế, thật là hợp lý khi khẳng định về sự thinh lặng đối với các tín hữu trong thời gian của Kinh nguyện Thánh thể. Đức ông Marini ghi nhận : “Sự thinh lặng không phải như là một sự thụ động hoặc thiếu sự tham dự. Sự thinh lặng này nhằm để thực hiện việc đi vào của tất cả các tín hữu trong .... hành động tình yêu bởi nhờ đó Đức Giêsu tự hiến cho Cha trên thập giá vì ơn cứu độ con người. Sự thinh lặng này, thật là một hiến tế chân thật, là một thời gian phụng vụ đích thực, mà trong đó cần phải biết nói “vâng” với tất cả sức mạnh của con người, để trong hành động của Đức Kitô cũng trở thành hành động của chúng ta trong thời sống thường nhật... [...]”[12].
Cuối cùng, theo hồng y Joseph
Ratzinger, những “lời cầu nguyện thinh lặng của linh mục, một cách rõ ràng, chuẩn bị cho việc chìm sâu vào trong sứ vụ của họ và tự hiến cho Thiên Chúa trong tất cả con người riêng của họ: ‘tôi’” [...], nó luôn
hiện hữu và cần tiếp tục để hiện hữu”[13].
Đối với tất cả, “sự thinh lặng ngay sau rước lễ là một thời gian xứng đáng tuyệt vời nhất cho cuộc đối thoại nội tâm, gần gũi với Thiên Chúa, Đấng vừa tự trao cho chúng ta, đó là thời gian liên hệ thân mật của chúng ta với Người, Đấng đã làm cho chúng ta đi vào trong sự tương hỗ của tình yêu mà không có nó sự đón nhận bên ngoài của bí tích sẽ chỉ như một cử chỉ tinh ròng nghi thức và vì thế thật khô cằn”[14].
TẠM KẾT
Vậy cần phải chú tâm điều này “thinh lặng thật dẫn đến an bình, thờ lạy và mến yêu” : cần học cách thinh lặng nơi môi miệng, nơi nội tâm và nơi con người toàn diện, và hãy để cho “lời và sự thinh lặng được hòa quện với nhau”, để nhờ đó, chúng ta đi vào trong hành vi phụng thờ thánh một cách “ân sủng, hiệu quả, cộng đoàn” và xứng đáng.
[1] Thánh Giáo hoàng Phaolo
VI, Tông huấn Chứng tá phúc âm (Evangelica
testificatio), ngày 29.6.1971. Trích trong https://catechesis.net/tong-huan-evangelica-testificatio-chung-ta-phuc-am-cua-dgh-phaolo-vi-ngay-29-06-1971/.
[2] “Sự thinh lặng chiêm niệm, đó là sự thinh
lặng với Thiên Chúa. Sự thinh lặng này được gắn kết với Thiên Chúa : sự giới
thiệu và sự bày tỏ trước Người, tự hiến cho Người, tự hủy trong Người, tôn kính
Người, yêu mến, lắng nghe Người và nghỉ ngơi trong Người. Đó là sự thinh lặng của
tuyệt đối, vĩnh cửu, là sự thông hiệp của tâm hồn với Thiên Chúa” Hồng y Robert Sarah, La force du silence, Fayard, 2016, số 72. Có thể tìm đọc bản dịch
Việt ngữ của Dòng thánh Phaolo thánh Charles, Sức mạnh của sự thinh lặng, Saigon, 2019.
[3] Thánh Gioan Thánh
Giá, Maximes, 147, ed.
Du P. Lucien-Marie de Saint Joseph, ocd, Bruges, DDB, 1949, tr. 1314.
[4] Jean Tauler
đã viết : “Chính trong giữa của sự thinh lặng, khi tất cả được đắm chìm trong sự
thinh lặng lớn lao nhất thì ở đó ngự trị sự thinh lặng chân thật, và người ta lắng
nghe trong chân lý về Ngôi Lời, vì nếu bạn muốn rằng Thiên Chúa nói thì bạn phải
im lặng”, trong Hồng y Robert Sarah,
op.cit., số 73.
[5] Một tâm hồn biết
lắng nghe : “Điều mà anh em đồng loại đòi hỏi nơi tôi là tình thương và ai yêu
thương thì biết lắng nghe. Tình yêu khởi đầu như vậy. Không lạnh lùng khô khan,
không khép kín “thủ thế” đối xử quảng đại song không chủ tâm làm cho người khác
phục mình, không vì lý do tránh cho lương tâm khỏi bị dằn vặt. Lắng nghe, là
chấp nhận cho người khác có quyền sống, là tôn trọng con người họ với tất cả
những nhiệt tình, ước vọng, yếu đuối hay hào hiệp của họ.
Lắng nghe, là thương cảm
sâu xa nỗi đau khổ của anh em, là “hiệp thông đau khổ” với họ, không từ chối,
không bực bội, không phê phán khi họ thất bại hoặc vấp ngã. Lắng nghe, là vui
với người vui, mừng thấy người ta tiến bộ thành công, nhận thức rằng, tiến bộ
trong ánh sáng và bình an của Chúa là điều quan trọng hơn hết. Lắng nghe, là
cởi mở, sẵn sàng thật sự và tận tình, vì tâm hồn tràn đầy nhân ái, khoan dung
mọi sự, tin tưởng mọi sự, hy vọng mọi sự, chịu đựng mọi
sự.” -
Gonzague Motte -
[6] Bản văn
trong Mucicam sacram, n.17 :
« Sacrum quoque silentium suo
tempore servetur ; per illud enim fideles non modo non sunt habendi
tamquam extranei vel muti spectators actionis liturgicae, sed arctius in
mysterium inseruntur, quod celebrator, per dispositions internas, quae e verbo
Dei audito, e cantibus et precibus prolatis, atque ex spirituali coniunctione
cu, sacerdote, suas partes proferente, dimanant”. DC 1965, số 1490, cột 500
: “Chúng ta cũng sẽ giữ vào lúc của nó một sự thinh lặng thánh. Bởi sự thinh lặng
này, các tín hữu đã không bị giảm thiểu việc tham dự vào hành động phụng vụ như
những khán thính giả cẩm nín và xa lạ, nhưng họ kết hợp một cách sâu sắc hơn
vào mầu nhiệm mà chúng ta cử hành; nhờ vào khả năng bên trong này mà nó chảy
trong chúng ta lời của Chúa khi chúng ta nghe những bài ca và những lời cầu
nguyện mà chúng ta đọc lên, và từ sự hiệp nhất thiêng liêng với chủ tế đối với
những phần mà ngài công bố một mình”.
[7] Joseph Ratzinger, Entretien sur la foi avec Vittorio Messori, Paris, Fayard, 1985,
tr. 151.
[8] Nicolas Bux, La réforme de Benoît XVI, Edit. Tempora,
2009, tr. 142-143.
[9] Mgr Guido Marini, La liturgie. Gloire de Dieu, sanctification de l’homme, Perpignam,
Artège, 2013, tr. 71-72.
[10] Joseph Ratzinger, L’esprit de la liturgie, Genève, Ad
Solem, 2001, tr, 164. Có thể xem trong bản dịch Việt ngữ của Linh mục Nguyễn Luật
Khoa, OFM và nữ tu Nguyễn Thị Huy, OP, năm 2008.
[11] Joseph Ratzinger, L’esprit de la liturgie, Genève, Ad
Solem, 2001,
tr, 165-166.
[12] Mgr Guido
Marini, La liturgie. Gloire de Dieu, sanctification de l’homme, Perpignam,
Artège, 2013, tr. 71-72.
[13] Joseph Ratzinger, L’esprit de la liturgie, Genève, Ad Solem, 2001,
tr. 167 ; 168.
[14] Ibid., tr, 165.
Đăng nhận xét