Fr. Joseph Nguyễn Văn Hiển, op.
Dẫn nhập
Năm mươi ngày của mùa Phục Sinh được chuẩn bị bởi một thời gian bốn mươi ngày (Quadragesima) để cử hành sự kiện đó[1]. Chúng ta gọi đây là thời kỳ tiền Vượt Qua, hoặc theo cách gọi sau này là Mùa Chay. Tuy nhiên, nếu trong bảy tuần lễ hội Phục Sinh, thì thời gian dành cho việc chuẩn bị cho việc cử hành này không mang cùng một tầm quan trọng.
I.- THỜI GIAN TRƯỚC LỄ PHỤC
SINH
Chúng ta sẽ thấy Mùa Chay ở Rôma xuất hiện cùng với những yếu tố thực hành liên hệ chặt chẽđến các dự tòng, và chúng ta gọi đó là “thời gian sát hạch”. Đây cũng là thời gian dành cho các tội nhân thực hành việc phải đền tội công khai, đểđược giao hòa vào chiều ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Những thực hành thuở ban đầu bao gồm cả việc ăn chay cách nghiêm ngặt.
1.- Ăn chay – cầu nguyện
Lúc ban đầu, việc ăn chay trong Tuần Thánh đãđược thiết lập và nó cho thấy sự chuẩn bị này được đánh giá cách tích cực và phù hợp (thế kỷ thứ III) trong hoàn cảnh.
Việc ăn chay được tuân giữ cách nghiêm túc : chỉăn một bữa trong một ngày vào lúc kết thúc của ngày; ngoài ra vào ngày thứ Sáu Tuần thánh thì không dùng bất kể một thứ thực phẩm nào, và việc này kéo dài sang cả ngày thứ Bảy Tuần thánh.
Rôma cũng nhận biết việc ăn chay trong 3 tuần trước khi gắn kết vào 40 ngày vốn đã được thực hành tại Ai cập và ở một số nơi khác vào thế kỷ thứ IV[2]. Thời gian bắt đầu việc ăn chay trong 3 tuần là từ ngày 1 tháng 3 cho đến cử hành Vượt Qua[3]. Nhưng vào thế kỷ thứ V hình thức ăn chay dường nhưđược kéo dài ra trong 40 ngày (tức trong 6 tuần)[4]. Điều này được chứng thực qua chứng tá của Đức Leo Cả (+ 461), khi ngài đã cho thực hành ở Rôma sáu Chúa nhật trước lễ Vượt Qua, 40 ngày trọn với Chúa nhật, dĩ nhiên vào Chúa nhật thì không ăn chay[5]. Vào thế kỷ kế tiếp, người ta đã muốn liệt kê 40 ngày ăn chay một cách hiệu quả vàđã bắt đầu vào ngày thứ 4 trước đó. Việc thực hành này được thực hành cách tích cực trong cả 10 thế kỷ[6], ngoại trừ những trường hợp bệnh tật cần phải được chăm sóc theo sự cân nhắc của người có thẩm quyền (bác sĩ và giáo
quyền).
Lịch sử cũng cho biết
rằng, việc ăn chay trong 40 ngày đã được thực hành với một số người vào ngay ngày hôm sau của lễ Hiển Linh, nhằm tưởng nhớ 40 ngày Đức Giêsu được dẫn vào trong hoang địa sau khi đã lãnh nhận phép thanh tẩy của Gioan Tiền hô. Tuy nhiên, người ta đã nhanh chóng tách việc thực hành này ra khỏi biến cố Hiển Linh, và lo lắng hướng đến biến cố Vượt Qua. Mùa Chay kết thúc vào ngày Thứ Năm Tuần thánh, vì nhường chỗ cho việc cử hành Tam Nhật Vượt Qua (Triduum pascal).
Sáu tuần lễ cầu nguyện vàđền tội của Mùa Chay tạo ra một khung cảnh cho việc chọn lựa những giai đoạn kế tiếp của việc chuẩn bị cho những dự tòng, những người sẽ nhận lãnh bí tích thanh tẩy trong đêm Phục Sinh. Vì thế, Mùa Chay trở thành đối với tất cả các cộng đoàn kitô hữu, một hành trình tâm linh với những thành viên dự tòng của họ, được theo dõi bởi những người có trách nhiệm và những bài giáo lý.
2.- Việc chia sẻ
Việc chia sẻ với người khác trong thời gian Mùa Chay được coi như là một bổn phận. Và nó kết hợp với việc ăn chay và cầu nguyện. Hình thức này vẫn còn được thực hiện ngày nay trong đời sống kitô hữu chúng ta. Việc thực hành chia sẻđược thấy từ thời Đức Giáo hoàng Lêo Cả khi ngài đề cập đến những giáo huấn của thánh Augustino (350-430) hay của thánh Gioan Kim Khẩu (344-407) đối với tín hữu là“đừng làm ngơ với 3 khía cạnh mà nó không thể tách rời ra khỏi những giáo huấn của Chúa” (Mt 6,1-18).
Những cuộc tụ họp cầu nguyện và lắng
nghe Lời Chúa được
nhân lên gấp bội. Cuối cùng, việc ăn chay vàđền tội đôi khi có thể kéo dài cho đến 9
tuần lễ trước lễ Vượt Qua[7].
3.- Khai mở Mùa
Chay bằng thứ Tư Lễ tro
Ở Rôma, yếu tố đặc
trưng căn bản của Mùa Chay được bắt đầu bằng một cuộc rước[8] trước khi diễn ra
thánh lễ. Cuộc rước này bao gồm những người sẽ lãnh nhận việc giao hòa vào ngày
thứ Năm Tuần Thánh và cả những dự tòng, những người sẽ lãnh nhận bí tích khai
tâm Kitô giáo vào đêm Vượt Qua. Đó là cuộc rước đèn tội.
Thật vậy, một cuộc rước
đền tội hướng dẫn dân chúng đến nơi quy tụ, hoặc đó là “một sự qui tụ” tại
vương cung thánh đường vào khu vực cử hành thánh thể. Sách lễ Rôma cho đến năm
1974 vẫn còn giữ một đề nghị dành cho nhà thờ chính cho mỗi ngày của Mùa Chay,
vốn đã bị bỏ quên trong nghiên cứu từ thế kỷ XII.
Thánh lễ ngày thứ Tư lễ
Tro cũng là lúc bắt đầu cho việc ăn chay (in
capite ieiunii) bao gồm trước hết là lời mời gọi của ngôn sứ Giô-en cho một
cuộc cử hành cộng đoàn về sự sám hối và sự hoán cải (Ge 2,12-18), kế đến là lời
huấn dự của thánh Phaolô về việc giao hoà với Thiên Chúa vì, “đây là thời gian
thuận tiện và là thời gian của ơn cứu độ” (2Cr 5,20; 6,2). Cuối cùng, là dựa
vào bản văn Tin Mừng, vốn cần phải được đặt nền cho một sự tuân giữ với ba việc
cần làm của Mùa Chay : bố thí, ăn chay
và cầu nguyện (Mt 6,1-18). Trong những
quốc gia gần với Đức, nơi dân chúng chẳng bao giờ hiểu tiếng latin, ngay từ thế
kỷ IX và X, người ta đã hài lòng thêm vào tiến trình những bản văn Phụng vụ :
Đó là những việc thăm viếng ngôi mộ của các thánh nữ vào buổi sáng Phục Sinh và
cũng như việc bỏ tro lên đầu vào khởi đầu Mùa Chay: “Hãy thay đổi trang phục,
hãy phủ lên thân mình tro bụi và thắt lưng, hãy ăn chay và khóc than trước
Thiên Chuá”.
Ở Rôma, người ta đã hát
trong cuộc rước hướng về vương cung thánh đường Santa Sabina. Ở đó, hát trở thành
hành động hiệu quả của việc đền tội.
Người
ta dành riêng trước tiên cho các hối nhân, những người đang chờ cho việc hoà
giải vào thứ Năm Tuần Thánh, cử chỉ tiếp nhận tro; kế đến là toàn dân, bao gồm
cả hàng ngũ linh mục với giám mục nhận lãnh tro trên đầu. Người ta cũng nhanh
chóng đón nhận hình thức này tại Rôma, và hình thức này cuối cùng đã tồn tại
cho đến ngày nay.
4.- Năm Chúa nhật
của Mùa Chay
Trong mỗi Chúa nhật của
năm Chúa nhật Mùa Chay bày tỏ một đặc tính riêng. Giống như người ta đã làm thời
thánh Léon Cả, vào Chúa nhật thứ nhất, người ta đọc trích đoạn Tin Mừng Đức
Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc. Trong Chúa nhật thứ hai là bản văn về Chúa biến
hình (theo thánh Matthêu hoặc Marcô hoặc Luca). Bóng tối và ánh sáng, sự tiếp
cận là một biểu tượng của việc bước đi của dân Thiên Chúa đến biến cố Vượt Qua.
Ba Chúa nhật tiếp theo
trong năm A được tiếp tục bởi những bản văn Tin Mừng căn bản về giáo lý của
việc rửa tội: 1).- cuộc gặp gỡ Đức Giêsu của người Samaria (Ga 4,5-42), chung
quanh chủ đề Nước hằng sống; 2)- việc chữa lành người mù từ thuở mới sinh (Ga
9,1-41), xoay quanh chủ đề ánh sáng; 3)- biến cố Phục Sinh của Lazare (Ga
11,1-45), xoay quanh chủ đề sự sống vĩnh cửu.
Hẳn nhiên các bài đọc
Tin Mừng này có thể được thay thế bởi những năm khác như phần ơn gọi về việc
siêu tôn Đức Kitô trên thánh giá (B) và lòng thương xót mà Người trao tặng kẻ
tội lỗi (C) qua bài Tin Mừng Người cha nhân hậu.
Trong mỗi Chúa nhật,
bài đọc thứ nhất nhằm nhắc lại những bước chính của lịch sử cứu độ, nguồn gốc
về các ngôn sứ. Bài đọc trong thư Tông đồ theo các Chúa nhật làm sáng tỏ bài
đọc Tin Mừng. Mỗi Chúa nhật của Mùa Chay được đi kèm theo với một Kinh Tiền
tụng liên quan đến Tin Mừng của năm A. Một kinh nguyện khác tóm lược tất cả sự
nhiệm mầu của Mùa Chay.
Hằng năm, lạy Chúa,
Người ban cho dân kitô hữu việc sửa soạn để mừng lễ Vượt Qua trong niềm vui của
trái tim tinh tuyền; trong mọi hoàn cảnh, khi chuyên tâm vào lời cầu nguyện và
làm chứng cách tốt nhất về tình yêu của Chúa cho người bên cạnh, các tín hữu
trung thành với các bí tích mà nhờ đó họ được tái sinh, xin cho họ được hưởng
trọn ân sủng mà Người đã chuẩn bị cho con cái Người.
Những dự tòng không thể
bị quên trong lời cầu nguyện của Giáo hội. Trong các Chúa nhật thứ 3, thứ 4 và
thứ 5 có một lời cầu nguyện riêng, đặc biệt nói về họ.
Phụng vụ của các tuần
trong Mùa Chay cũng phong phú như các Chúa nhật. Người ta đã cố gắng cung cấp
những bản văn tốt nhất cho việc suy niệm hằng ngày qua những bản văn của các
Giáo phụ, và được đề nghị trong các bài đọc Kinh Sách.
II.- TUẦN THÁNH
Như một cầu nối của Mùa
Chay và Tam Nhật Vượt Qua, Tuần Thánh là một sự Vượt Qua từ cái này qua cái kia
được xác định vào Kinh Chiều của ngày thứ Năm Tuần Thánh. Tuần Thánh được mở ra
cùng với Chúa nhật Thương Khó và Lễ lá.
1.- Chúa nhật Thương
khó và Lễ Lá
Tại Rôma vào giữa thế
kỷ thứ V, đã cử hành vào Chúa nhật thứ 6 Mùa Chay như là một Chúa nhật Thương
Khó. Trong lễ cử hành này, một bài giảng về sự thương khó của Chúa được công
bố, điều này được lặp lại vào ngày thứ tư và thứ sáu tuần thánh. Bài đọc về
cuộc Thương Khó theo một trong ba Tin Mừng nhất lãm tạo nên trung tâm của Phụng
vụ Lời Chúa. Nó được chuẩn bị bởi cùng một trong những “bài ca của Người Tôi
Trung” (Is 50,4-7), với thánh vịnh 21 và bởi bài thánh thi Vượt Qua về sự khiêm
nhường cao cả của Đức Kitô và việc siêu tôn của Người được trình bày trong thư
của thánh Phaolô gởi cho tín hữu Philippe (Ph 2,6-11). Những lời nguyện khai mở
đầu và kết thúc cùng những lời Kinh Tiền Tụng dẫn vào Kinh Nguyện Thánh Thể
dường như được nối kết trong cùng một điều đã được cho thấy trước : chết và
Phục Sinh của Chúa.
Tại Giêrusalem, vào
cuối thế kỷ thứ IV, dân kitô hữu đã tái diễn việc sống điều này trong khi cử
hành việc tiến vào một cách đầy vinh thắng của Đức Giêsu vào thành Giêrusalem.
Người ta đã tự quy tụ lại tại đồi Oliu vào khoảng từ giữa buổi chiều. Một phó
tế đọc bài Tin Mừng của ngày hôm đó. Kế đến, là một cuộc rước dài đến Thành
Thánh, và các trẻ em thì cầm cành lá trên tay.
Cuộc cử hành lễ hội này
tạo sự ảnh hưởng lớn ở Tây Phương, đặc biệt tại Tây Ban Nha, ở Pháp và ở Đức.
Nó cũng được đón nhận tại Rôma từ khoảng thế kỷ thứ X. Dĩ nhiên, người ta chỉ
đưa ra những đánh giá chắc chắn có tính giới hạn trong thời gian cải tổ của Đức
Giáo hoàng Pio XII về Tuần Thánh vào năm 1955.
Nếu
như Phụng vụ được làm mới lại đã muốn thực hiện một cuộc rước bước vào thánh lễ
Thương khó, như một sự tôn vinh trọng thể hướng về Đức Kitô, Vua được thể hiện
qua bài ca : Gloria laus et honor tibit
sit, thì những khó khăn của việc di chuyển và tính chất trần tục của xã hội
đã tạo tâm lý e dè và không muốn thực hiện việc đầy mong ước này.
2.- Tam nhật Vượt
Qua – Triduum Pascal
Rõ ràng, nền tảng của
Năm Phụng vụ Kitô giáo được thiết lập dựa trên Tam Nhật Vượt Qua. Ba ngày
thánh : Thứ Sáu, Thứ Bảy và Chúa Nhật Phục Sinh. Tuy nhiên, Tam Nhật Vượt
Qua ấy được bắt đầu vào chiều tối ngày Thứ Năm Tuần thánh khi Giáo hội cử hành
Thánh lễ Tiệc Ly.
Thánh Ambrôsiô viết
rằng : “Hãy xem về sự thánh dường nào của ba ngày : đóng đinh, an táng trong mồ
và Phục Sinh. Những gì biểu tỏ trong ngày thứ nhất của ba ngày chính là thập
giá, tựa như những gì chúng ta hoàn thành trong đời sống hiện tại; nhưng những
gì biểu hiện nơi ngôi mộ và sự Phục Sinh, đó là những gì chúng ta chuẩn bị từ
đó bởi niềm tin và niềm hy vọng”[9].
Tuy nhiên, thành ngữ
"Tam Nhật Vượt Qua" chỉ được nhận biết cách rộng rãi từ những năm
1930. Thành ngữ này được thấy trong cuốn Liber
sacramentorum[10] của Đức Hồng y Schuster ở
Milan năm 1929; và cũng nhờ đó, thành ngữ được sử dụng trong bản văn Phụng vụ
từ năm 1969 với cuộc cải cách các chuẩn tác của Năm Phụng vụ[11]. Nhưng như đã nói ở
trên, ngay cuối thế kỷ thứ IV, thánh Ambrôsiô và thánh Augustinô đã nói đến Tam
Nhật Thánh (Triduum Sacrum) hay Tam Nhật Vượt Qua (Triduum Pascal).
Thánh Lêô Cả (440-461) cũng đã bàn đến "đêm thánh", "lễ Vượt
Qua" và "bí tích Vượt Qua", và tất cả được hiểu đó là những ngày
lễ trọng Vượt Qua nói chung. Cũng kể từ đó, khái niệm về Mầu Nhiệm Vượt Qua và
việc cử hành Mầu Nhiệm đã đi vào trong đời sống tín hữu.
a.- Quy Chế
Sách lễ Rôma trong phần “Quy luật phổ quát về Năm Phụng vụ và Niên Lịch”[12] xác
định chung về Tam Nhật Vượt Qua như sau :
“Chúa Kitô đã hoàn tất trọn vẹn
công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa Cha, trong mầu nhiệm Vượt
Qua, khi Người chịu chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để khôi phục sự sống
cho chúng ta. Tam nhật Vượt Qua tưởng niệm cuộc Thương khó và Phục Sinh của
Chúa chính là đỉnh cao của Năm Phụng vụ. Nếu Chúa nhật là ngày trọng nhất trong
tuần, thì Phục Sinh là lễ trọng nhất trong năm Phụng vụ” (SLRM, số 18).
Ở số 19 nói về Tam Nhật
Vượt Qua:
“Tam nhật Vượt Qua tưởng niệm
cuộc Thương khó và Phục Sinh của Chúa, bắt đầu từ chiều Thứ Năm Tuần Thánh với
Thánh lễ Tiệc Ly, điểm trung tâm là đêm Canh thức Vượt Qua, và kết thúc sau giờ
kinh Chiều Chúa nhật Phục Sinh”.
Đối với ngày Thứ Sáu
Tuần thánh, số 20 khẳng định :
“Trong ngày Thứ Sáu tưởng niệm
cuộc Thương khó của Chúa và nếu hoàn cảnh thuận tiện, cả trong ngày Thứ Bảy
thánh cho tới giờ Canh thức Vượt Qua, khắp nơi phải giữ chay thánh Vượt Qua”.
Số 21 nói về giá trị
của Đêm Canh Thức :
“Lễ Vọng Vượt Qua, trong đêm
thánh Chúa sống lại, được coi là “Mẹ của các lễ vọng”. Trong lễ này, Hội Thánh
canh thức để đón chờ Chúa Kitô sống lại và cử hành mầu nhiệm Phục Sinh trong
các bí tích. Vì thế, lễ Vọng phải được cử hành trọn vẹn trong đêm: khởi sự khi
đêm tối bắt đầu và kết thúc trước rạng đông Chúa nhật”.
b.- Ba điểm
nổi bật của ngày Thứ Năm Tuần Thánh
Sách Bí tích Gelasio cổ
(Reginensis 316)[13] đề cập đến 3 thánh lễ
cử hành vào ngày này : thánh lễ thứ nhất liên quan đến việc hoà giải các tội
nhân - “Reconciliatio poenitentis”,
thánh lễ thứ hai liên quan đến lễ : Làm phép dầu - “Missa Chrismatis” và thánh lễ thứ ba vào buổi chiều tối : Bữa ăn
tối - “Missa ad vesperum”. Tuy nhiên,
hình thức này không còn biết đến vào thời Đức Giáo hoàng Grêgôriô, khi mà ngài
chỉ nói đến 3 thánh lễ được cử hành vào cùng ngày của Noel. Trong Sách Bí tích
mang tên của ngài chỉ chứa đựng duy nhất một thánh lễ vào buổi sáng liên quan
đến việc chúc lành và thánh hiến dầu thánh, và một thánh lễ khác vào buổi tối.
Vì những lý do bên ngoài và cần một yếu tố đặc trưng nên thánh lễ để giao hòa
các tội nhân bị quên lãng[14].
b.1.- Sự giao hoà của các tội nhân
Ngày thứ Năm Tuần Thánh
bao gồm một phần của việc giao hoà của các tội nhân hay còn gọi là ngày hối tội
công cộng. Những Sách bí tích cũ còn để lại dấu vết về một thánh lễ đặc biệt
cho việc giao hoà này. Ngày nay, Tuần Thánh được coi là thời gian đặc biệt cho
những việc cử hành hoà giải và việc chuẩn bị cho việc đón nhận bí tích[15].
Theo truyền thống,
Thánh lễ truyền dầu hay chúc lành và thánh hiến dầu được chủ tế bởi Đức giám
mục, được cử hành vào sáng Thứ Năm Tuần Thánh đã làm nổi bật và phong phú về
đặc tính của ngày này và của Mùa Chay trong việc chuẩn bị các dầu thánh cho việc cử hành bí tích thánh
tẩy vào đêm Vượt Qua.
Cho đến năm 1955, việc
chuẩn bị dầu và việc chúc lành dầu dự tòng, cũng như dầu cho bệnh nhân, có một
vị trí trong thánh lễ Tiệc ly của Chúa được cử hành vào sáng thứ năm. Đến năm
1955, chúng được ấn định bởi một thánh lễ riêng, theo một nghi thức của thời
Trung cổ.
b.3.- Ngày thứ Năm Tuần Thánh,
ngày lễ của các linh
mục
Vào năm 1969 (1970),
thánh Giáo hoàng Phaolo VI đã muốn cử hành một thánh lễ Truyền dầu với việc
đồng tế để tưởng nhớ việc Chúa thuyết lập ơn gọi tư tế và ở đó, tất cả các tư
tế của Chúa lập lại lời hứa trung thành trong chức tư tế thánh mà họ đã lãnh
nhận trong ngày truyền chức. Thần học về chức tư tế duy nhất của Đức Kitô; chức
tư tế hoàng cung của các tín hữu và của hàng tư tế thánh, được diễn tả trong
lời cầu nguyện Thánh Thể. Sau đó, phần Phụng vụ Lời Chúa đã công bố những điều
căn bản: Đức Giêsu là Tư Tế cao nhất (Is 61,1-9; Lc 4,16-21), nhưng Người cũng
đã làm cho chúng ta trở thành một vương quốc và những tư tế của Thiên Chúa, Cha
của Người (Kh 1,5-8).
Và vì thế ngày Thứ Năm
Tuần thánh cũng được gọi là ngày lễ của các linh mục. Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolo II luôn gởi đến cho các linh mục một lá thư vào ngày này.
[1] Từ tiếng
La-tinh là Quadragesima mà có cụm từ Mùa Chay trong ngôn ngữ chúng ta. Dường như chỉ
cho đến thế kỷ thứ IV, nhất là vào thời gian của Công Đồng Nicea năm 325, Giáo
hội Rôma mới đề cập đến khái niệm Mùa Chay. Và vào năm 360, Công Đồng Laodecia
đã khẳng định về việc giữ Mùa Chay.
[2] Chúng ta tìm
thấy điều này trong một khoản luật của Công Đồng Nicea. Và 40 ngày trở thành một
thời gian Phụng vụ đặc trưng với những thực hành nhiệm nhặt, điển hình là Giáo
hội tại Giêrusalem đã tuân giữ cách kính trọng 40 ngày này bằng một hình thức
ăn chay trong 8 tuần và trong thời gian đó, thứ bảy và Chúa nhật thì không ăn
chay. Điều này cũng được thực hành tại Ai Cập. Vào thế kỷ thứ V, tại Rôma và
Gaule (Pháp ngày nay), người ta bắt đầu ăn chay vào ngày thứ bảy và Mùa Chay
kéo dài trong 6 tuần. Tuy nhiên, thứ Tư
lễ Tro chưa thực sự nối kết với sự khởi đầu của Mùa Chay (chỉ được tính vào từ
thế kỷ VII vì lo lắng đến con số 40 ngày). Trước hết, đó là việc “dứt phép
thông công tạm thời” hoặc loại ra khỏi cộng đoàn những ai đã phạm tôi nặng. Vào
thế kỷ thứ VII, những tội nhân sau khi đã xưng thú các tội của mình cách riêng
tư, thì được chứng thực trước giám mục và họ sẽ đứng vào hàng ngũ những người
hoán cải. Họ sẽ sống tình trạng cô tịnh, không liên hệ với gia đình hay cộng
đoàn kitô hữu trong thời gian 40 ngày và theo một cách nói là để từ bỏ tất cả tội
lỗi của họ và chuẩn bị để được xá tội vào ngày thứ Năm Tuần thánh. Việc thực
hành này kéo dài cho tới thế kỷ XI.
Cũng cần thêm rằng, việc
ăn chay này cũng được coi như một cơ hội để dành những thực phẩm khi mùa đông đến
và tránh tình trạng bị rơi vào đói kém.
Đặc biệt vào thứ Sáu
và thứ Bảy Tuần thánh, người ta sẽ không ăn gì. Hơn nữa, trong hai ngày này còn
kèm theo việc hoán cải đối với thân xác, tâm hồn và con tim (kìm hãm tất cả những
gì có hại cho thân xác, tâm hồn và trái tim). Các tín hữu được mời gọi ngủ ít
hơn và dùng thời gian đó để cầu nguyện nhiều hơn; nói ít hơn hoặc chỉ nói về
Chúa và tĩnh tâm trong thinh lặng trọn vẹn.
Việc ăn chay đã có sự
thay đổi bắt đầu từ thế kỷ XII. Những người được nhận biết là “yếu nhân” được
ăn trứng, cá hay uống sữa và uống ít rượu vang. Đây là những sự nới lỏng đầu
tiên của việc thực hành chay tịnh. Hơn nữa, việc dùng bữa không còn vào cuối
ngày nhưng là vào giữa trưa (tk. XIII), nhưng vẫn trong tinh thần của hoán cải.
Tuy nhiên lại được một “lót dạ vào buổi tối” hay được uống một ly rượu để cho
cơ thể ấm và để có thể đọc kinh đêm. Vào thế kỷ XVII, đươc dùng súp nhẹ. Từ năm
1949, Giáo hội Công giáo chỉ ghi hai ngày chay buộc cho tất cả tín hữu là thứ
Tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần thánh. Các tín hữu được mời gọi sống tinh thần chay tịnh
theo chính khả năng của mình, cũng như thực hành những điều hữu ích cho đời sống
thiêng liêng.
[3] Đây là 3 tuần
trước lễ Vượt Qua và thật là quan trọng (từ Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay), vì đó là
thời gian kiểm tra cách nghiêm ngặt đối với những dự tòng để họ lãnh nhận phép
rửa trở thành kito hữu vào đêm Vượt Qua, và đối với các hối nhân để được giao
hòa vào chiều thứ Năm Tuần thánh.
[4]Xem trong
Cyrille Vogel, Introduction aux sources de l’histoire du
culte chrétien au moyen Age, Centro Italiano di studi sull’alto Medioevo,
Spoleto, 1966, tr. 334-335.
[5] Cũng cần biết
rằng, vào thời của Đức Giáo hoàng Gregorio, việc ăn chạy thực sự sẽ chỉ bắt đầu
vào thứ hai đầu tiên của Mùa Chay, nghĩa là ngay sau Chúa nhật I, Mùa Chay, điều
này vẫn còn được chứng tỏ trong lời cầu nguyện của Chúa nhật I : « Sacrificium quadragesimalis initii »
cho sự khởi đầu của 40 ngày.
[6] Nhưng trước
theo một lá thư của thánh Irênê, giám mục tại Lyon gởi cho Đức Giáo hoàng
Victor (189-199) vào thời gian này đã đề cập đến việc ăn chay : thời gian ấy
thì rất ngắn từ 1 đến 2 ngày trước lễ Vượt Qua và không dùng bất kể thực phẩm
nào cả. Sau đó là tất cả Tuần Thánh ở Alexandria vào thế kỷ thứ III.
[7] Xem trong
Cyrille Vogel, Introduction aux sources de l’histoire du
culte chrétien au Moyen Âge, Centro Italiano di studi
sull’alto Medioevo, Spoleto, 1966, tr. 334-335.
[8]Ngày nay, việc
cử hành Mùa Chay vẫn còn kèm theo cuộc rước khởi sự. Trong cuộc rước này
có Đức Giáo hoàng và đoàn đồng tế và dĩ nhiên là cả dân chúng nữa. Cuộc rước khởi
đi từ nhà thờ Thánh Anselmô, Dòng Biển Đức và đi bộ đến nhà thờ Thánh Santa
Sabina của Dòng Đaminh (khoảng 250m) để cử hành Thánh Lễ.
[9]Robert Fery, Jours de fêtes. Histoire des celebrations chretiennes, Paris, Seuil,
2008, tr.71.
[10]Liber sacramentorum = cuốn sách các bí tích
[11]Hẳn nhiên, dưới
thời của Đức Pio XII, khi ngài tiến hành việc cải tổ về Phụng vụ Tuần Thánh
cũng đã bàn đến những yếu tố này trong các văn bản từ 1951-1955. Chẳng hạn,
ngài đã đề cập đến thứ Năm và thứ Sáu Tuần thánh trong Công bố “Maxima
Redemptionis nostrae mysteria’ (16 novembre 1955). Xem trong Cf. AAS,
t. 47, 1955, p. 838-841. Traduction française dans La Documentation
Catholique, n° 1214, t. 52, 1955, c. 1537-1541.
[12] Xin xem bản dịch
mới của UBPT/HĐGMVN năm 2019.
[13] Hay còn gọi
là Liber sacramentorum Romanae ecclesiae.
Sách được gắn tên của Đức Giáo hoàng Gelasio thứ I và bản copy vào khoảng
năm 750 tại Paris. Sách có tên đầy
đủ : « In nomine Domini nostri Jesu
Christi salvatoris, incipit liber sacramentorum Romanæ Ecclesiæ ordinis anni
circuli ». Cuốn sách này gồm có 3 phần hay là gồm 3 tập : Cuốn thứ
nhất nói đến thời gian cử hành trong năm : « In nomine Domini nostri Jesu Christi salvatoris, incipit liber
sacramentorum Romanæ Ecclesiæ ordinis anni circuli » ; cuốn thứ 2
về các thánh : « Incipit liber
secundus. Oraciones et præces de nataliciis sanctorum » ; cuốn thứ
ba về Canon của thánh lễ, những lời nguyện và cầu nguyện khác nhau :
« Incipit liber tertius. Oraciones
et præces cum canone per dominicis diebus ».
[14] Xem trong
Emmanuel Bourque, Etude sur les Sacramentaires romains. Les
textes primitifs. Cita del Vaticano, Rome 1949, tr. 209 tt.
[15] Sđd, tr.
209-214.
Đăng nhận xét