Fr. Giêrônimô Bùi Thiện Thảo, op.
“Người thích tiền
bạc có bao nhiêu cũng không lấy làm đủ ;
kẻ bo bo giữ của chẳng thu được lợi lộc gì.
Điều ấy cũng chỉ là phù vân !”
(Giảng viên 5, 9)
Vở kịch Lão hà tiện của
nhà văn người
Pháp Jean- Baptiste Poquelin (thường được biết đến dưới bút danh Molière, 1622–1673) miêu tả một cách
khôi hài nhân vật chính là ông Harpagon.
Vốn thuộc tầng
lớp tư sản khá giả
nhưng ông này
không bao giờ được bình an vì luôn lo lắng
cho của cải.
Chỉ vì lo sợ một kẻ nào đó cuỗm hết tiền
vàng, ông đem chôn giấu kho báu của mình nhưng
vẫn không được
yên thân. Bị ám ảnh
mất trộm, ông đâm ra nghi
ngờ tất cả mọi người
trong gia đình
: từ anh hầu phòng cho
đến con cái ; thậm
chí lão còn sẵn sàng
hy sinh gia đình
để cứu lấy tài sản (bắt con cái phải
từ bỏ tình yêu để kết hôn với những người
cao niên và goá bụa nhưng giàu có). Thật vậy, lão không bao giờ bằng
lòng với những
gì mình sở hữu, lão còn thèm khát những
thứ mình chưa có và luôn
phải sống trong ngờ vực lẫn lo sợ người
ta sẽ tước đoạt hết những gì mình vất vả thu gom, tích trữ được. Tệ hơn nữa,
lão còn cảm thấy
đau khổ khi thấy người
khác giàu có hơn mình nhưng lại khinh miệt
những người nghèo
khổ. Lão đổ bệnh chỉ vì mất một vài đồng
tiền.
Qua vở hài kịch này, nhà văn Molière lên phơi bày nghịch lý nực cười
của những kẻ coi trọng
tiền bạc quá đáng,
dù sở hữu tiền rừng
bạc biển nhưng
họ vẫn bất hạnh vì phải
sống trong cô độc, lo âu và sợ hãi triền miên. Nhân vật Harpagon này là một lời cảnh tỉnh
cho những ai ham mê của
cải vì điều
đó có thể gây ra mâu thuẫn
và đổ vỡ trong tương quan gia đình cũng như
xã hội, đồng thời nhắc
nhở độc giả tôn
trọng các giá trị nhân bản đang
bị đồng tiền
làm biến chất.
1.- Tại sao hà tiện bị coi như một
tội đầu ?
– Cái nhìn về hà tiện trong một số truyền
thống văn hoá và tôn
giáo
Ngày xưa, người
Hy Lạp coi hà tiện
như một thái độ
không xứng đáng đối với
một công dân tự do và có trách
nhiệm. Triết gia Aristotle (384–322 TCN) cho rằng,
hà tiện là một thói xấu vô phương
cứu chữa vì nó huỷ
hoại tính hào phóng và lòng
quảng đại1. Đối với người
Hy Lạp, một người
hạnh phúc là người có đời sống
cân bằng được thể hiện
qua lối sống ôn hoà và điều độ. Vì vậy mà hà tiện
bị coi như một hình thức thái
quá và trái ngược với lý tưởng
điều độ. Cũng vậy, người La Mã coi hà tiện như một thói
xấu có thể
làm băng hoại đời sống xã hội. Họ cho rằng,
tính hà tiện
đi ngược lại lợi
ích cộng đồng, thậm chí
còn nguy hại cho người
khác vì kẻ hà
tiện sẵn sàng làm tất
cả để bảo vệ tài sản của mình2. Vì vậy, những ai có biểu hiện
của tính hà tiện đều bị thiên
hạ coi là đáng ô nhục3.
1 Xc. Ménager DANIEL,
“Philosophie et théologie de l’avarice chez
Erasme”,
Seizième Siècle, số 4, 2008, tr. 36.
2 Xc. Séléna
HÉBERT, “Milon ou l’avarice
dans les Métamorphoses d’Apulée”,
Bulletin de
l’Association Guillaume Budé, số 2, 2017, tr. 161-185.
3 Koenraad VERBOVEN,
“Cité et réciprocité. Le rôle des croyances culturelles dans l’économie romaine”, Annales.
Histoire, Sciences Sociales,
vol. 67, 2012/4, tr. 928.
của cuộc sống
là được giải thoát khỏi vòng luân hồi. Ấn giáo
cũng khuyến khích các tín
hữu của mình thực hành bố thí và
từ bỏ của cải vật chất bằng
cách lưu tâm
đến đời sống tâm linh.
Hồi giáo coi hà tiện
là tội lỗi
và khuyến khích
các tín hữu quảng đại bố thí một phần
tài sản của
mình cho người
nghèo. Chính ông Muhammad
(† 632), người
sáng lập tôn
giáo này, từng dạy rằng của cải không
hề giảm sút
khi người ta bố thí và
bàn tay trao
tặng thì cao
trọng hơn bàn tay nhận
lãnh.
Sách Xuất hành nhắc nhở : “Ngươi không
được ham muốn
nhà người ta, ngươi không
được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam
nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người
ta” (Xh 20, 17).
Còn sách Châm ngôn
đồng nhất hà tiện với
hám lợi, thu nhập bất chính
chẳng những không
được hạnh phúc mà ngược lại còn “làm tan hoang
nhà cửa” (Cn 15,
27). Thánh kinh Cựu
ước
tuy không nêu đích danh hà tiện
như một thói
xấu nhưng thường hay
gộp chung với sự tham
lam và ích kỷ vốn là những
biểu hiện của
hà tiện (Xc.
Lv 19, 11-13 và Am 8, 4-6).
Cũng vậy, trong Tân ước, Chúa Giêsu từng nhiều lần
nhắc nhở các môn đệ đừng để thói xấu
này thống trị mình : “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam,
không phải vì dư giả mà mạng
sống con người
được bảo đảm nhờ
của cải đâu” (Lc 12, 15). Và liền ngay
sau đó Chúa kể câu chuyện dụ ngôn về ông phú hộ khờ dại chỉ biết tích trữ của
cải mà không hề hay biết những gì mình thu gom được
chẳng có nghĩa lý gì nếu
“đêm nay, người
ta sẽ đòi lại mạng
ngươi, thì những gì ngươi
sắm sẵn đó sẽ về tay ai” (Lc 12, 20) ? Trong
Tin mừng theo thánh Mát-thêu, Chúa Giêsu khẳng
định : “Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn Tiền tài” (Mt 6, 24). Chính Chúa từng
cảnh báo rằng,
ham muốn của cải, một biểu hiện của tính hà tiện, làm cho người
ta chỉ chú
ý đến vật chất mà lãng quên cứu cánh cuộc
đời là làm giàu cho Thiên Chúa và “tích trữ
cho mình những
kho tàng trên
trời” (Mt 6, 20).
Chúa còn khuyên
các môn đệ đừng lo lắng thái
quá về chuyện cơm ăn áo mặc nhưng hãy
lưu tâm đến
đời sống tâm
linh và giúp đỡ anh em đồng
loại. Mặc dù Chúa không
lên án của cải
vật chất nhưng chỉ mời gọi chúng
ta hãy đặt tiền của vào đúng vị trí của nó là tôi tớ để phục
vụ con người chứ không
được coi nó như ông chủ hay thần
linh, nếu không
nó sẽ biến chúng ta thành
nô lệ và ngăn cản sự thăng
tiến của con
người trong tương quan với Thiên Chúa
và tha nhân.
Sau này thánh
Phao-lô cũng nhiều
lần nhắc nhở
các tín hữu đừng để thói
hà tiện, thường
được thể hiện
qua sự tham lam và ích kỷ, điều
khiển chính mình.
Trong Thư thứ nhất
gởi thánh Ti-mô-thê, thánh
Phao-lô đã chỉ
rõ “cội rễ sinh ra mọi
điều ác là lòng ham
muốn tiền bạc” (1 Tm 6, 10). Còn trong Thư gởi giáo
đoàn Cô-lô-xê, thánh nhân coi tham
lam như một hình thức tôn thờ ngẫu
tượng (Cl 3, 5). Cũng
vậy, thánh Gio- an tông đồ từng nhắc
nhở rằng ai có của ăn của
để mà lại từ chối giúp đỡ người anh em túng
thiếu thì nơi người ấy không
có tình
yêu của Chúa Ki-tô (1 Ga 3, 17).
Cũng như nhiều
truyền thống tôn giáo khác,
ngay từ khi mới ra đời, Giáo hội đã coi hà tiện
như một tội đầu vì ngoài
những tác hại
đối với cá nhân, gia đình và xã hội,
thói hà tiện còn gây nguy hại cho đời sống
tâm linh.
Thánh Basiliô thành Caesarea (330–379), trong bài giảng số 6, đoạn
nói về ông phú hộ muốn phá hết kho
lẫm cũ để xây kho lẫm mới chứa
thóc lúa (Lc 12, 18)
đã chú giải
rằng, sở dĩ ông ta nảy ra ý định ngông
cuồng này là vì tính
hà tiện4. Do lòng tham như thùng không
đáy, vì muốn
tích trữ cả thóc
mới
lẫn thóc cũ mà ông ta phải rơi vào tình trạng
tiến thoái lưỡng nan giống như con lừa của ông Buridan vừa đói vừa khát cứ do dự mãi
giữa xô nước
và bó cỏ cho đến
chết5. Càng giàu có ông ta càng phải
bận tâm lo lắng, rầu rĩ và bối rối nhiều
hơn. Tâm hồn ông bị gặm nhấm
không phải vì chuyện miếng cơm manh áo nhưng
vì của cải, thóc lúa quá nhiều
không biết cất giữ vào đâu cho hết (Bài giảng
số 6, 1). Thánh Basilio
còn so sánh kẻ hà tiện như ngọn lửa
của một vụ hoả hoạn
dữ dội không hề nhường
bước cũng chẳng
có giới hạn,
nó sẵn sàng chiếm lấy và thiêu rụi tất cả6. Từ đó,
thánh nhân khích
lệ các tín hữu sống giản
dị và rộng lượng với
người túng thiếu.
Theo thánh nhân, nếu chúng ta cứ khư khư giữ lấy của cải cho mình,
nó sẽ vuột khỏi tay
chúng ta ; ngược lại,
nếu biết tung
gieo, nó sẽ ở lại mãi với chúng ta (Bài giảng
số 7, 2)7.
Bên cạnh đó,
ở phương Tây,
thánh Ambrôsiô (giám
mục Milano, † 397) cũng cho rằng hà tiện là gốc rễ của vô luân vì nó thúc
đẩy người ta tìm kiếm
tư lợi thay vì góp phần vào lợi
ích chung, và tệ hơn
nữa, nó khiến
người ta cầu mong cho người khác gặp hoạ để mình
được hưởng lợi8. Trong khảo
4 Xc. Bài giảng số 6 của thánh Basil thành Caesarea về thói hà tiện tại
Patristique.org, tham khảo ngày 02/5/2023.
5 Chuyện Con lừa của ông Buridan
(triết gia người
Pháp Jean Buridan,
† 1358) chỉ là một ngụ ngôn triết
lý nói về những nghịch
lý của cuộc
sống. Trong thực tế, không có một con lừa nào như vậy cả.
6 Bài giảng về người giàu có, xc. Christoph STROSETZKI & Christoph
LÜTGE, The Honorable
Merchant - Between Modesty and Risk-Taking :
Intercultural and Literary Aspects, New York, Springer
Verlag, 2019, tr. 5.
7 Xc. Bài giảng số 7 của thánh
Basil thành Caesarea
lên án những kẻ giàu có tại Patristique.org, tham khảo ngày 16/3/2023.
8 Christoph STROSETZKI
& Christoph LÜTGE, op. cit.,
2019, tr. 5.
luận về ông Naboth, thánh nhân lên án lòng tham của con
người vốn là động lực khiến họ xử sự bất công
và tàn bạo với
đồng loại như hoàng hậu Jezabel đã dùng thủ đoạn hiểm độc
để giúp chồng
là vua Achab
chiếm đoạt vườn
nho của ông Naboth9.
Thánh Gio-an Kim Khẩu (thượng
phụ Constantinople,
† 407) cho rằng, sự giàu có không phải là điều
xấu xa hay độc dữ nhưng thói hà tiện
mới đáng sợ vì không
những nó ngăn cản con người thực hành
nhân đức, ngược
lại, nó dẫn đưa con người đến những tội
khác như ghen
tị, ham muốn,
giận dữ hay kiêu ngạo. Hơn nữa, thói
hà tiện còn
đầu độc tâm hồn con người do đó khiến người
ta mất đi bình an, niềm vui và tự do
nội tâm. Thánh nhân còn nhấn mạnh
rằng, thói hà tiện là một
thảm hoạ và kẻ hà tiện bị đồng nhất
với kẻ tôn thờ ngẫu tượng
vì quá coi trọng đến độ tôn thờ tiền của như thần linh
và như vậy là tự biến
mình thành nô lệ của tiền tài (8, 26)10. Chính
vì vậy, hà tiện
thúc đẩy người
ta hành động
một cách bất công
bất
chấp đạo lý như bóc lột người
nghèo hay lợi dụng khi người ta gặp hoạn nạn để trục
lợi. Để thoát
khỏi quyền lực
của tiền tài, thánh
nhân khuyên những
người giàu có nên quảng đại chia sẻ với người
nghèo khổ11.
9
Xc. AMBROISE DE MILAN, Richesse et pauvreté ou Naboth le Pauvre, Paris, Desclée de Brouwer,
1978, tr. 9-19
; Lorenzo CAPPELLETTI, “L’ancienne histoire de Nabot se répète tous les jours”, tham khảo ngày 02/5/2023, tại http ://www.30giorni.it.
10 Nicoleta ACATRINEI, “Saint
Jean Chrysostome (IVe siècle) : à propos de
business ethics”, Finance & Bien Commun, số 22, 2005/2, tr. 94 ; đặc biệt xin coi Kevin M. CLARKE (ed.),
Sayings of the Fathers
of the Church : Seven Deadly Sins, Washington, Catholic University of America Press, 2018, các
số 3 (tr. 68), 8 (tr. 69)
và 26 (tr. 74).
11 Xc. Anthony G. PERCY, Entrepreneurship in the Catholic Tradition, Lanham, Lexington
Books, 2010, tr. 60.
Thánh Augustinô (354–430) nhấn mạnh rằng,
thói hà tiện có thể ngăn
cản con người
từ bỏ hoàn toàn để dâng hiến đời mình cho Thiên
Chúa một cách trọn vẹn. Thánh nhân cảm
thấy ngạc nhiên vì theo
ghi nhận của người, thật khó để loại
bỏ nó ra khỏi đời sống của
con người, ngay
cả đối với các đan sĩ12. Thánh
nhân đồng nhất
ước muốn sở hữu với
thói hà tiện và
cho rằng càng
có nhiều của
cải người ta càng ham muốn có thêm
do đó càng chìm sâu vào thói xấu này13. Người nói rằng,
tiền bạc là để lưu chuyển chứ không phải
để nằm im trong két sắt, vì nếu làm như vậy,
nó sẽ trở nên vô ích. Hơn nữa, của cải
vật chất cần phải được
sử dụng để giảm bớt nỗi đau do thiếu thốn gây ra chứ không phải
để thoả mãnh
tính ích kỷ của con người. Khi chú giải
đoạn Tin mừng theo thánh Mát-thêu (25, 24-30) về câu chuyện dụ ngôn người
đầy tớ lười
biếng đã chôn nén bạc của chủ, thánh nhân nói rằng anh chàng này
không bị kết án vì đã làm mất nén bạc, nhưng
ngược lại, vì đã
giữ nó quá kỹ ; từ đó người nhắc nhở các tín hữu không được dửng dưng, vô cảm với người
khác14. Cũng như Thánh Gio-an Kim Khẩu, thánh Augustinô cho rằng thói
hà tiện có thể dẫn đưa người ta tới chỗ bất công hoặc bóc lột người
nghèo.
Thánh Grêgôriô I († 604) coi hà tiện như một thói
xấu vì nó làm cho người
ta trở nên dửng dưng
hay vô cảm với người khác. Theo thánh nhân,
của cải vật chất không
thể khoả lấp được
khoảng trống nội
tâm của kẻ hà tiện
và họ cũng không
12
Henry CHADWICK, Augustine of Hippo : A Life, Oxford, Oxford
University Press, 2009, tr. 54.
13 Xc. Kate WARD, “Porters to Heaven : Wealth, The Poor, and Moral
Agency in Augustine”, Journal of Religious, vol. 42, 2014/2, tr. 219.
14
Xc. Jérôme LAURENT,
“Peccatum nihil est : remarques sur
la conception augustinienne du péché comme néant”, Cahiers philosophiques, số 122,
2010/2, tr. 18-19.
có khả năng cảm nhận
được vẻ đẹp hay giá trị của đời sống tâm linh như sau này nhà văn Molière đã diễn tả qua tâm trạng
đầy u uất của
Lão hà tiện. Trong
cuốn Luân lý trong
sách ông Gióp, thánh
nhân khẳng định
“thói hà tiện nảy sinh
phản trắc, gian lận,
lừa lộc, man trá, bất
an, bạo lực,
vô cảm hay dửng dưng trước
sự khốn cùng của người
khác15.” Thánh nhân còn nhấn mạnh rằng, hà tiện có thể dẫn đưa con người đến
chỗ băng hoại về luân
lý vì nó làm cho người ta trở nên
ích kỷ do đó cũng đánh mất lương
thiện và liêm chính. Người
còn nói thêm rằng, những
kẻ hà tiện thường hay bị cám dỗ nói dối,
trộm
cắp hay gian
lận để thu lợi nhiều
hơn nữa, do đó những kẻ ấy càng lạc xa chân
lý và coi nhẹ đời sống tâm linh.
Đến đầu thiên
niên kỷ thứ II, thói hà tiện
bị lên án nặng nề. Đức
cha Jean xứ Salisbury (1115–1180, giám mục thành Chartres) cho rằng “không
có thói xấu nào tệ hại hơn hà tiện”. Cũng vậy, thần học
gia và là thi sĩ Alain thành
Lille († 1202/1203) giải thích
rằng : “Hà tiện làm suy yếu tình bằng hữu, làm phát sinh
thù hận, sinh ra giận
dữ, gieo trồng
chiến tranh, nuôi dưỡng
bất hoà và cắt đứt tương quan giữa cha mẹ
với con cái.”16
Chẳng có gì đáng
ngạc nhiên khi
chúng ta thấy phần lớn các nhà giảng thuyết
thời bấy giờ đều lên án lòng tham và thú ăn chơi của giới thượng
lưu. Và vì vậy, không
phải bổng dưng thi
sĩ người Ý Dante trong
Thần khúc (tiếng Ý :
Divina Commedia) đã dành
nguyên cả tầng địa ngục
thứ tư cho những kẻ phung phí
và hà tiện. Thánh Tôma
Aquinô († 1274)
15
Moralia in Job, XXXI, 88. Trích lại từ Shawn
R. TUCKER (ed.),
The Virtues and Vices in the Arts
: A Sourcebook, Cambridge, Lutterworth, 2015, tr. 104.
16 Trích lại từ Rudi VERBURG, “The Rise of Greed in Early Economic Thought : From
Deadly Sin to Social Benefit”, Journal of the History
of Economic Thought, vol. 34, 2012/4, tr. 521.
chỉ rõ rằng
hà tiện gắn liền với vô độ do vậy cũng gây
ra hậu quả tai hại cho người khác.
Thánh nhân đồng nhất lòng tham
với tội chống lại tha nhân vì không ai có thể làm giàu mà không gây hại cho người khác. Nhiều thần học gia thời Trung đại cũng
lên án hà tiện vì nó vừa làm người
ta đánh mất linh hồn mình, đồng thời làm hại người
chung quanh (làm
cho họ phải nghèo khổ hơn)17.
Trong những thế kỷ về sau, Giáo
hội không thay
đổi quan điểm về vấn đề này và luôn mời gọi các tín hữu sống quảng
đại để chống
lại thói hà tiện. Thêm
vào đó, Giáo
hội tìm cách áp
dụng giáo huấn
của mình vào bối cảnh
kinh tế xã hội phức tạp hơn. Chẳng hạn Giáo hội chống lại
chủ nghĩa tư bản man rợ
lẫn chủ nghĩa
tiêu thụ cực đoan vì chúng thúc
đẩy người ta tìm kiếm
lợi nhuận và tích trữ của cải vật chất
cho riêng mình thay vì dùng tiền của dư thừa
giúp đỡ người
nghèo để họ có
cơ hội thăng
tiến. Trong tông
thư Laudato si’ (ban
hành ngày 18/6/2015 thường
được coi như tông thư về sinh thái), Đức Thánh Cha Phanxicô lên án việc đề cao tiền của đến độ coi chúng
như thần tượng
và chống lại
văn hoá lãng
phí, đồng thời người mời gọi các tín hữu sống giản
dị và sử dụng của cải vật chất một cách
có trách nhiệm18.
18 Về vấn đề này, xin coi Jean MERCKAERT, “Laudato si’ : accueillir nos limites”, Revue Projet, số 350, 2016/1, tr. 28-37 ; Marc STENGER & Catherine BILLET,
“Laudato Si’ : événement ecclésial et mondial”, Revue d’éthique et
de théologie morale, số 288, 2016/1, tr. 11-32 ; Fabien
REVOL,
“L’encyclique Laudato si’
du Pape François (18/06/2015)”, Droit, Santé et Société, số 4, 2016, tr. 46-51 ; Louise ROBLIN,
“L’écologie chrétienne de
l’encyclique Laudato si’”, Écologie & politique, số 58, 2019/1, tr. 151-168.
Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo (1992, mục 10 về điều
răn thứ mười)
dành nhiều số nói về lòng tham
của con người “phát sinh do đam mê vô độ của cải và quyền
lực do của cải
đem lại” (số
2536). Giáo lý Giáo
hội còn nhấn mạnh đến những
tác hại do lòng tham
gây ra như bóc lột,
bất công, đàn
áp những người yếu thế (số 2537) hay làm băng
hoại luân lý (số
2538). Ngược lại,
Giáo lý Giáo hội khích lệ các tín hữu sống quảng đại vốn là nhân đức đối nghịch
của thói hà tiện (số 2554). Nhân đức bao gồm việc rộng lượng chia
sẻ tài sản với người nghèo (số 2402) và coi đó như hình
thức quan trọng nhất của đức bác
ái (số 2447).
2.- Những tác hại của thói hà tiện
Về nguyên nhân
của thói hà tiện, các nhà tâm lý học nhận
thấy nhiều khuynh
hướng trái ngược
nhau. Một số người cho rằng, cha mẹ phung
phí sẽ khiến
con cái họ sống ngược
lại do chúng đã nhận ra sai lầm của thế hệ trước
nên không muốn rơi vào vết xe đổ vì những kẻ phung phí thường không
bao giờ giàu có cả. Trái
lại, những đứa trẻ có cha mẹ từng phải
mang nợ nần hoặc
thuở nhỏ phải
sống thiếu thốn
thường có khuynh hướng hà tiện hơn những
đứa trẻ con
nhà khá giả vì những đứa trẻ từng trải
cơ cực tự hình thành
một cơ chế tự vệ dự
phòng nhằm thoát
khỏi chấn thương
hay bất ổn do thiếu
thốn tiền bạc gây
nên. Nhưng cho dù bắt nguồn từ nguyên nhân
nào đi chăng nữa, thói hà tiện gây nhiều hậu
quả tai hại
cho chính bản thân và cả những người
chung quanh. Dưới
đây, chúng tôi sẽ bàn đến một số tác động
tiêu cực của thói hà tiện đối
với tâm lý cá nhân và nhất là trong đời sống tâm linh.
Những kẻ hà tiện thường
rất khó để xây dựng
và duy trì một tương quan tốt đẹp.
Sở dĩ như vậy vì họ thường
chỉ nghĩ đến mình
và lợi ích của bản
thân nên không
muốn chia sẻ hay
giúp đỡ bất kỳ người
nào. Điều đó có thể gây đổ vỡ trong tương quan hay làm cho họ tự thu mình
lại, không muốn
giao tiếp với tha
nhân vì sợ phải tốn kém. Hơn nữa, thói
hà tiện có thể làm cho người ta trở nên mưu mô và gian
xảo để kiếm thêm chút lợi lộc, do vậy cũng
dễ dàng đánh
mất lòng tin của
người khác. Thần
học tâm linh
nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của các mối tương quan
liên cá nhân đối với đời sống
tâm linh, trong khi đó, thói
hà tiện lại phá vỡ các tương
quan này do kẻ
hà tiện thường ích kỷ và chỉ nghĩ đến
mình nên cũng
không màng đến chuyện
kết nối với
ai ngoài thần tài mà họ tôn thờ.
Thói hà tiện có thể biến người ta trở thành kẻ cô đơn vì chủ nhân của nó vốn dĩ ích kỷ, do vậy cũng thường tự mình tách biệt
khỏi thế giới. Ngoài ra, nỗi ám ảnh về tiền bạc chiếm hết tâm trí,
thời gian cũng như sức lực cho nên họ cũng không màng các mối tương quan xã hội nữa. Hơn nữa, kẻ hà tiện thường không dám tin tưởng người khác vì sợ giao trứng cho ác nên cũng không bao giờ muốn xây dựng mối giao hảo chân tình và bền vững với tha nhân. Cuối cùng, kẻ hà tiện chỉ biết chạy theo tiền tài và thu tích của cải nên
cũng không hề biết đến niềm vui của người biết sống
yêu thương và được thương mến. Chính họ tự tách mình ra khỏi sự quan tâm của thân bằng quyến thuộc để làm kẻ độc hành tự nguyện giữa
chợ đời đông đúc.
Giống như trong
tâm lý học, thần học tâm linh
cũng cho rằng thói
hà tiện có thể khiến
người ta cô đơn về tâm linh
và gây ra đoạn
tuyệt trong tương
quan. Sở dĩ như như vậy vì kẻ hà tiện coi trọng
của cải vật chất hơn Thiên Chúa
lẫn tha nhân. Điều này khiến
người ta hững
hờ với mọi tương quan gia đình, xã
hội lẫn tâm linh. Vì vậy, thần
học nhấn mạnh
đến đức bác ái
(yêu thương) và lòng quảng
đại (chia sẻ những gì mình có với người
khác) như phương
thuốc chữa trị sự cô độc do hà
tiện
gây ra.
–
Căng thẳng và lo âu triền miên
Thói hà tiện
có thể gây căng thẳng
và lo âu cho chủ
nhân của nó vì người ta sống trong
nỗi sợ hãi triền miên
: mất của hoặc không đủ giàu có. Mối ưu tư thường
trực này khiến
họ luôn tìm mọi
cách để bảo
vệ tài sản thay vì tận hưởng
niềm vui do vật chất mang
lại cho con người. Hơn nữa, những
kẻ hà tiện còn bị ám ảnh về chuyện làm
giàu, điều đó có thể khiến
tham vọng về tiền tài của họ không bao giờ được
thoả mãn cũng là nguyên nhân gây căng thẳng.
Ngoài ra, việc
gắn bó thái quá với tiền của có thể khiến người
ta trở nên đa nghi
hay vô liêm sỉ (chiếm đoạt
tài sản của
người khác) cũng
là nguyên nhân làm cho họ thường
gặp phải tâm trạng lo lắng.
Thần học tâm linh coi căng thẳng
và lo âu do thói
hà tiện gây ra như hậu quả của tội
lỗi vì những điều này ngăn cản tương
quan với Thiên
Chúa và với tha
nhân. Thêm vào đó, việc
chạy theo tiền của còn
làm cho cuộc sống
cá nhân mất thăng
bằng khiến người ta dễ dàng đánh
mất những giá trị tâm linh và những ưu tiên của đời người.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng,
căng thẳng và lo âu phát
sinh từ lòng ham
muốn sở hữu thật nhiều có thể dẫn đến nỗi sợ thiếu
thốn và nghi ngờ người khác.
–
Dửng dưng với chính mình và với người khác
Sở dĩ hà tiện khiến
chủ nhân của nó dửng
dưng với tất cả
mọi người, kể cả chính
bản thân mình,
vì người ta chỉ mải mê với chuyện
làm giàu đến độ không
màng đến bất kỳ điều gì
khác, ngay cả chăm sóc bản thân và gia đình. Do vậy, họ không
bận tâm đến
các hoạt động
cộng đồng cũng
như xây dựng những
tương quan tốt
đẹp. Hơn nữa,
do cách hành
xử tất cả vì tiền cũng
khiến họ dễ bị người
ta xa lánh.
Thần học coi việc dửng
dưng với tha
nhân là tội đối
nghịch đức bác
ái, vì những
kẻ này không có khả năng sống yêu
thương như Chúa
Ki-tô đã yêu thương nhân loại và mời
gọi chúng ta yêu thương
nhau. Sự dửng
dưng với chính
mình do quá chú
tâm vào chuyện
thu tích của
cải cũng bị coi như tội
lỗi vì không để ý đến việc
chăm sóc sức khoẻ, một trong những quà tặng quý giá nhất mà Thiên Chúa
tặng ban cho
con người.
Tóm lại, hà tiện là một thói xấu có thể gây ra những
hậu quả tai hại cho đời sống vật chất cũng
như tâm linh
vì nó khiến người ta trở
nên cô độc, đánh mất tương quan
với người khác và
với Thiên Chúa,
dửng dưng với tha nhân
và lơ là với chính mình, đồng thời còn
làm cho chủ
nhân của nó phải sống
trong lo lâu và căng thẳng
triền miên. Vì vậy, Thánh
kinh và thần học
tâm linh không
ngừng nhắc nhở chúng ta sống giản
dị, bác ái và quảng đại với tha nhân như cách thức tốt nhất
để chiến thắng thói xấu này. Việc nhận ra những hiệu quả tiêu
cực do thói hà tiện gây ra giúp chúng
ta biết chú
tâm nuôi dưỡng những giá trị
tích cực đối
nghịch với chúng
nhằm cải thiện
đời sống cá nhân
và thăng tiến
trong đời sống
tâm linh cũng
như đem lại niềm vui cho những người
chung quanh chúng
ta.
3.- Những biểu hiện của thói hà
tiện
Nét đặc trưng
của tính hà tiện là ham muốn
của cải vô độ
và ước muốn
tích trữ của cải vật
chất đến độ không muốn chi
tiêu hay từ chối chia
sẻ với người
khác. Hà tiện không chỉ là một thói xấu mang
tính cá nhân
nhưng còn mang
tính xã
hội nữa.
Những kẻ hà tiện thường
hay bị ám ảnh về của cải vật
chất, quyền bính
hay danh vọng vốn gắn liền với
tiền tài. Đối với
họ, thành ngữ “có tiền
mua tiên cũng
được” là câu thần chú linh nghiệm nhất
và là chìa khoá vạn
năng cho mọi thành công. Chính vì vậy,
tiền tài trở thành cứu cánh của những người
này và họ sẵn sàng làm tất cả những gì mình có thể, thậm
chí hy sinh bản thân hay người thân
trong gia đình
để sở hữu thêm hoặc để giảm bớt chi tiêu.
Anh nhà giàu
trong chuyện kể dân gian
Đến chết vẫn hà tiện
thuộc loại keo kiệt tột bậc và luôn bị ám ảnh về tiền
của. Anh ta thà thiệt mạng
còn hơn mất một ít tiền thuê
người cứu mạng, vì lúc ở tỉnh tiếc
tiền uống nước nên lúc
đi đò qua sông, do không
thể nhịn được
khát, anh ta tìm cách cúi xuống
hớp nước sông và hậu quả là gặp tai nạn.
Anh người ở vội vàng ra
giá với hy vọng tìm được người
cứu chủ nhưng
ông chủ chê “đắt quá, thà chết
còn hơn”. Còn Lão hà tiện
Harpagon của nhà văn Molière thì bắt
ép con cái phải cưới những người
goá bụa và cao niên để gia tài của lão khỏi bị hao hụt
vì chuyện hôn nhân của chúng. Trong
Tin mừng, ông Judas cũng
bị coi như một kẻ hà tiện.
Ông đã phản bội Chúa
Giêsu chỉ vì 30
đồng bạc19.
19 Mặc dù Tin mừng coi ông ta như một kẻ hám tiền nhưng việc ông phản bội Chúa Giê-su có lẽ có nhiều nguyên
nhân khác nữa. Xin coi Dictionary
of Jesus and the
Gospels, Downers Grove, InterVarsity Press, 1992, tr. 406-407 về động
cơ khiến
ông Judas giao nộp Chúa Giê-su cho người Do Thái.
–
Không có khả năng chia sẻ với người khác
Những kẻ hà tiện đều có khuynh
hướng giữ khư khư
những gì mình
có nên khó lòng chia sẻ hay trao tặng
cho ai thứ gì.
Anh nhà giàu
khờ dại (Lc 12, 13-21)
bị Chúa Giêsu
gọi là ngốc vì không biết trao
ban. Mặc dù sở hữu nhiều của
cải nhưng anh ta không biết dùng nó để mua
lấy bạn hữu mà chỉ nghĩ đến chuyện cất giữ cho thật nhiều.
Hay ông phú
hộ trong chuyện dụ ngôn về anh Lazaros
nghèo khổ (Lc
16, 19-31) mặc dù không làm gì xấu nhưng vẫn phải sa hoả ngục
vì thói hà tiện của mình. Lão ta giàu có, ngày ngày yến tiệc linh đình
nhưng không hề mảy may động lòng thương xót người hành khất nghèo khổ,
đói khát trước
cửa nhà.
Lão già Fagin
trong tiểu thuyết
Oliver Twist của nhà văn
Charles Dickens cũng
là một kẻ hà tiện
thậm tệ. Lão cầm đầu băng
nhóm trẻ em và ép buộc chúng
trộm cắp, móc túi cùng nhiều việc đáng chê trách khác nhưng không bao giờ chia
phần cho lũ trẻ. Còn nhân vật Ebenezer Scrooge
của nhà văn người Anh Charles Dickens
(1812–1870) trong tiểu thuyết
Bài ca Giáng sinh
(nguyên tác : A Christmas Carol, được dựng phim và trình chiếu
năm 2021 với phụ đề Hồn ma đêm Giáng
sinh), một kẻ chuyên
hành nghề cho
vay mượn và cầm cố,
cũng là một lão già đáng ghét do thói hà tiện thuộc
hàng “cao thủ” của
mình. Vì không
muốn tặng cho ai bất kỳ thứ
gì nên lão đâm
ra thù ghét lễ Giáng
sinh, ngày lễ của bình
an, niềm vui
và chia sẻ. Các nhân vật này đều
có chung một tính cách
là hà tiện và ích kỷ, chỉ biết
bo bo giữ của và cuối cùng
họ đều chịu
khốn khổ vì không
biết chia sẻ, chỉ có mình ông Scrooge khám
phá niềm vui trao
ban nhờ biết
hoán cải sau khi nhìn
thấy những bóng ma vào đêm Giáng sinh.
Những kẻ hà tiện thường
luôn lo sợ túng thiếu,
vì vậy họ cố gắng thu tích của
cải một cách
thái quá. Ông
Giacóp (xc. St 27-36), cháu nội tổ phụ Abraham
và là thân phụ ông Joseph,
có thể được coi là một người
hà tiện. Sau khi làm việc cật lực
cộng với việc
hiểu biết nhiều
kỹ thuật (hay
mánh lới) ở quê
ngoại đã trở thành người
giàu có ; ông lên đường trở về quê hương nhưng lại lo sợ người anh
là ông Esau trả thù vì vị này
từng bị ông Giacóp lừa gạt để đoạt lời chúc phúc
của cha. Trong thâm tâm,
ông Giacóp hiểu
rằng món quà
đi trước là món quà khôn để làm
lành với ông
anh nhưng ông lại buồn rầu khi nghĩ đến chuyện
mình phải mất một phần
tài sản. Chưa hết, sau khi
hai người gặp nhau, ông Esau ngỏ
lời tặng một phần súc vật của mình
cho em, ông Giacóp lại từ chối
vì sợ rằng đến lượt mình
cũng phải chia của cho anh.
–
Không bao giờ thoả mãn với những gì mình có
Những kẻ hà tiện thường
không bao giờ hài lòng
với túi tiền của mình. Họ luôn cảm
thấy thiếu thốn và muốn
sở hữu nhiều hơn nữa ngay
cả khi họ thu tích
được rất nhiều
của cải.
Vua Salomon, vị vua nổi tiếng trong
Cựu ước là người
thông mình và giàu có,
thế nhưng lại mang những
biểu hiện của một
kẻ hà tiện. Sách Các vua quyển thứ
nhất nói rõ vua
Salomon đã gầy dựng được
cơ nghiệp vĩ đại, xây dựng được nhiều công trình nguy
nga tráng lệ nhưng vẫn ra sức vơ vét, thu
tích thêm của cải bằng cách áp đặt lên dân chúng
sưu cao thuế nặng
khiến họ bất bình và căm ghét.
Trong khi đó, chính
ông
từng thú nhận trong sách
Giảng viên (truyền thống
vẫn coi vua Salomon là tác giả của tác phẩm này)
rằng tiền tài danh
vọng
cũng chỉ là của phù vân, còn kẻ chạy
theo nó sẽ không
bao giờ được thoả mãn (Gv 5, 9).
Người thanh niên
giàu có được Chúa Giêsu
quý mến (Mt 19,
16-30) có thể nói là một kẻ hà tiện vì anh ta không
có khả năng sống
xa rời tiền
của. Mặc dù tuân giữ lề luật
rất nghiêm ngặt nhưng
khi nghe Chúa
Giêsu đề nghị
bán hết tất cả mọi tài
sản rồi phân phát cho
người nghèo, anh ta buồn
rầu bỏ đi có lẽ vì muốn làm giàu thêm
nữa hay ít ra không
muốn trao tặng gia nghiệp của mình cho thiên hạ.
Ngoài những biểu
hiện trên bình diện cá nhân, thói
hà tiện còn được thể hiện qua những
hoạt động xã hội.
Trên bình diện
xã hội, hà tiện được thể hiện
bằng nhiều cách thức
khác nhau. Chúng
tôi xin đề cập đến
ba biểu hiện quan trọng nhất.
Xã hội hiện
đại thường đề cao của vật chất
đến độ lấy nó làm thước đo giá trị
của con người.
Những kẻ sở hữu nhiều của cải được coi là thành đạt và đáng trọng vọng.
Điều này càng khiến
cho thiên hạ ra sức chứng tỏ mình là người giàu
có đến nỗi không
ngần ngại chi tiêu những
món tiền khổng lồ
nhằm chứng tỏ đẳng cấp đại gia của mình
kiểu như Gatsby (nhân vật chính trong
tiểu thuyết Đại gia Gatsby của
nhà văn
F. Scott Fitzgerald, xuất bản năm
1925, được dựng
phim lần thứ tư năm 2013).
Và dĩ nhiên, để có thể sống
xa hoa, vương giả, trước hết người
ta phải tìm cách sở hữu thật
nhiều tiền bạc. Việc này trái ngược
với giáo huấn
của Chúa Giêsu
vì chính Người từng nhắc
nhở các môn đệ “đừng
tích trữ cho mình
những kho tàng dưới đất […] nhưng
hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời”
(Mt 6, 19-20). Sách Châm ngôn
cũng từng nhắc nhở : “Thà
ít của cải mà sống
công chính hơn nhiều
huê lợi mà thiếu công
minh” (Cn 16, 8). Và Thánh vịnh cũng nói điều tương
tự : “Ít tiền ít của mà là người
công chính, hơn nhiều vàng nhiều
bạc mà là kẻ ác nhân” (Tv
37, 16).
Thế nhưng điều
mà chúng ta dễ dàng nhận ra, đó là thời
đại chúng ta là thời
đại của tiêu
thụ và tích luỹ. Điều này đang đi
vào thói quen của từng
cá nhân, gia đình và cả xã hội. Văn hoá
tiêu thụ đang
thống lĩnh toàn
cầu và len
lỏi vào mọi ngõ
ngách của đời sống.
Sách Giảng viên từng khuyên rằng : “Hai người
thì hơn một, vì hai người
làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã đã có người
kia nâng dậy.
Nhưng khi chỉ có
một mình mà bị ngã thì thật là khốn,
vì chẳng có ai nâng
dậy cả” (Gv 4, 9-10). Lời khuyên này của cổ nhân cho chúng ta thấy
tầm quan trọng
của sự cộng tác và tình liên
đới giữa người với người trong
đời sống xã hội và nhất là cá nhân riêng lẻ rất dễ bị tổn thương.
Thế nhưng văn hoá hiện
đại thường cổ võ cho
cá nhân chủ nghĩa
(đặt lợi ích cá nhân
trên lợi ích
cộng đồng), đồng thời nhấn mạnh đến thành tích cá nhân
nhiều hơn sự hợp tác và
chia sẻ. Dĩ nhiên, trong
chừng mực nhất
định nào đó,
việc đề cao cá nhân đem lại nhiều
lợi ích cho xã hội như thúc
đẩy phát triển, khích
lệ sáng kiến
hay tôn trọng
tự do của người khác… nhưng chính
điều này có thể phát
sinh sự ganh
đua, gây ra những đổ vỡ trong
tương quan và đánh mất lòng tin của
nhau khi người
ta chỉ biết
hành động vì lợi ích của riêng
mình. Chính vì vậy,
người ta thường
bị thúc đẩy theo đuổi
những mục tiêu cá nhân hơn của tập thể hay cộng đồng
khiến họ dễ dàng
trở thành người
ích kỷ. Ngoài
ra, việc nhấn
mạnh thành tích cá nhân cũng có thể
làm biến dạng
quan niệm về giá trị và ý nghĩa
của thành công,
điều đó khiến
người ta cố tìm mọi cách
để thực hiện
chương trình của mình cho dù chương
trình này có thể
gây nguy hại
cho người khác
hoặc không đem lại ích lợi
gì cho xã hội.
Xã hội hiện
đại có nguy cơ thúc
đẩy bất bình
đẳng về kinh tế
giữa các quốc
gia hay cá nhân vì nó khuyến
khích người ta sống
ích kỷ để duy trì
hoặc gia tăng
địa vị xã hội của mình. Sự bất
bình đẳng này thường được coi như một biểu
hiện của thói hà
tiện của xã hội vì nó phát
sinh từ khuynh
hướng đề cao lợi
ích cá nhân
hơn lợi ích của cộng
đồng. Sự bất bình đẳng
về kinh tế này càng trầm
trọng hơn do những chính
sách kinh tế ưu
đãi những kẻ giàu có (một hình
thức lợi ích
nhóm) và phớt lờ
những nhu cầu chung của cộng đồng,
nhất là của những
người nghèo khổ.
Từ bất bình
đẳng về kinh
tế nảy sinh nhiều bất bình đẳng khác khiến cho những người
nghèo càng phải
chịu nhiều thiệt thòi hơn đặc biệt là hai lãnh
vực quan trọng
đối với đời
người là giáo dục và y tế. Cũng
cần lưu ý rằng, sự bất bình
đẳng này còn là hậu quả của khuynh
hướng cá nhân
chủ nghĩa và sự tập trung quyền bính vào tay một thiểu số thống trị ích kỷ chỉ biết lợi ích của mình hay phe nhóm mình mà thôi chứ không hề lưu tâm đến việc
xây dựng một xã hội
công bằng và bình đẳng để mọi người cùng được
hưởng lợi.
Trên đây là một số biểu hiện
cá nhân và xã hội của thói hà
tiện. Dù thuộc
bình diện nào đi chăng
nữa, thói hà tiện được thể
hiện qua việc
tích trữ của cải một cách thái
quá đến độ gây
nguy hại cho người khác.
Vì có nhiều của cải nên những
kẻ này cũng luôn nghi
ngờ người khác
do sợ mất của. Ngoài
ra, những kẻ thu gom được tiền rừng bạc biển này còn có ước thống
trị thiên hạ vì cho rằng đồng tiền
có sức mạnh phi thường
có thể giải quyết
được tất cả mọi vấn
đề nan giải.
Chính vì vậy, những
kẻ này thường
ích kỷ, thiếu
quảng đại hay không biết cảm
thông với người
bất hạnh do họ không
bao giờ thoả
mãn với tài sản của mình cho dù có kếch xù đến mấy đi chăng
nữa. Chúa Giêsu từng
cảnh báo về những kẻ bám víu tiền của : “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu
vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24).
4.- Cách thức chữa trị
Như chúng ta đã nói,
thói hà tiện
gây nhiều hậu quả xấu cho
chính bản thân
và cả những người chung
quanh. Ngoài những hậu quả đối với tâm lý cá nhân như sống
cô độc, hay bồn chồn lo lắng, bất an, sợ hãi vô cớ, dễ cáu gắt nóng giận, hay gây hấn, có thể bị trầm cảm, thậm chí sẵn sàng
quên sinh vì tiền…,
còn phải kẻ thêm những
hậu quả về mặt tâm linh như không biết trao
ban nên cũng
không thể đáp lại lời mời gọi sống quảng đại của Thiên
Chúa, vô ơn, dửng dưng
trước sự khốn cùng của tha nhân, không
biết tận hưởng
niềm vui khi làm điều tốt hay trở thành người
đáng ghét…. Vì vậy, việc
chữa trị thói hà tiện không
kém phần quan
trọng như chữa
trị bệnh tật thể lý nhằm giúp chúng
ta thăng tiến trong đời sống cá nhân, xã hội và tâm linh.
Dưới đây chúng
tôi xin giới
thiệu một số thực hành
có thể chữa trị thói hà tiện.
Tập sống quảng
đại bằng cách
dành cho người
khác không chỉ tiền
bạc nhưng còn cả thời
gian, năng lực
và cả tình thương. Quảng đại được coi là nhân
đức cao trọng
nhất đối nghịch với
thói hà tiện
vì người quảng
đại sẵn sàng
trao tặng những gì mình có cho tha nhân theo gương Chúa Giêsu, Đấng sẵn
sàng hy sinh chính mình
để cứu độ nhân loại.
Khác với kẻ hà
tiện coi đồng tiền liền
khúc ruột khiến
họ cảm thấy
đau xót mỗi khi phải móc hầu bao nên chỉ biết bo bo giữ kỹ những
gì thu gom được,
người quảng đại
lấy làm vui
sướng vì mình
có thể chia sẻ chút ít gì đó cho người
đang cần giúp
đỡ.
Thế nhưng, không
phải ai cũng
sống được như
vậy vì để sống
quảng đại cần phải biết
hy sinh. Chúng
ta hãy luôn
tâm niệm rằng, Thiên Chúa là Đấng vô cùng quảng đại, nhờ đó
mình mới cố gắng trở nên giống
hình ảnh của Người bằng cách
sống quảng đại với người khác. Chúng
ta được Thiên Chúa sáng tạo vì một mục đích
cao cả là trở thành
đôi tay của Người
ở giữa trần gian để trao ban và an ủi tha
nhân. Nếu chúng
ta muốn thấy thế giới tốt đẹp thì trước hết chính mình
cần góp phần thay
đổi bằng cách
làm giảm thiểu
nghèo đói. Hãy giúp
đỡ những người túng thiếu
và khuyến khích
người khác làm như vậy. Thế giới sẽ thay đổi khi mỗi người tự thay đổi.
Hãy luôn tâm niệm rằng,
tất cả những gì chúng
ta có đều do Thiên Chúa
ban tặng, đừng
như những kẻ luôn “tự hào tự đắc : mình làm nên,
thiên hạ tán
dương mình” (Tv
49, 19). Ngoài ra, phải
thành thực rằng,
không ai có thể sống
một mình, chúng ta luôn cần sự trợ giúp và tình thương của người khác. Sở
dĩ sống tâm tình tạ ơn đối với Thiên
Chúa và biết
ơn đối với tha
nhân được coi
như một phương
dược chữa trị thói hà tiện
vì điều này giúp chúng
ta ý thức rằng tất cả những
gì mình có là
đều là ơn thiêng Thiên
Chúa tặng ban,
để nhờ đó chúng ta biết chú tâm tìm
kiếm những sự trên trời chứ không
để cho của cải vật chất
lôi cuốn đến
độ trở thành nô lệ của chúng
và coi chúng như thần linh
hay cứu cánh
của mình. Cuối cùng, lòng biết
ơn giúp chúng
ta nuôi dưỡng
quan niệm sống tích
cực và vị tha, nhờ
đó chúng ta có thể tránh được
những cạm bẫy của
thói hà tiện
để theo đuổi
một lối sống
triển nở đem lại
nhiều hoa thơm
trái ngọt.
Nhiều nhân vật Thánh kinh đã sống tâm tình
tạ ơn một cách trọn vẹn chính là gương mẫu
cho chúng ta về điều
này. Ông Gióp, mặc dù phải
chịu rất nhiều
thử thách nhưng
vẫn luôn giữ vững
đức tin và lòng biết ơn Thiên
Chúa như chính ông đã nói : “Đức
Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi : xin chúc tụng danh
Đức Chúa” (G 1, 21).
Vua David cũng
nổi danh là người luôn
sống tâm tình
tạ ơn như lời Thánh
vịnh do ông sáng tác minh chứng
điều đó : “Chúc tụng
Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ
khá quên mọi ân huệ của Người”
(Tv 130, 2). Tin mừng giới thiệu Chúa Giêsu
như một mẫu gương tuyệt
hảo của lòng biết ơn. Người không
bao giờ quên
chúc tụng Chúa
Cha trước khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều
cũng như trong
nhiều hoàn cảnh khác. Còn thánh Phao-lô, trong nhiều thư tín, cũng thường xuyên bày tỏ lòng
biết ơn đối với Thiên
Chúa và những cộng tác viên của mình như
chính thánh nhân
đã viết trong Thư gửi tín hữu Philípphê :
“Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi,
mỗi lần nhớ
đến anh em” (Pl 1, 3).
Lối sống giản
dị được coi như một hình thức
chữa trị thói hà
tiện vì nó giúp chúng
ta biết hài
lòng với những
gì sẵn có cho dù rất tầm thường.
Vì thói hà tiện vốn gắn liền
với ước muốn sở hữu thật nhiều
của cải vật chất, điều đó khiến
người ta không ngớt thèm khát tiền bạc. Do vậy, khi sống giản dị chúng
ta dễ dàng hài lòng
với những gì mình có và không
cảm thấy thiếu thốn nên cũng
không cần phải
chạy theo tiền
của nữa để tập trung vào
những việc quan trọng của đời người
là chăm lo cho đời sống tâm linh. Hơn nữa, quen sống giản dị giúp
chúng ta nhận
ra không cần
phải sở hữu
thật nhiều tiền của mới được hạnh phúc,
đồng thời lối sống này còn giúp chúng ta biết quý chuộng
những ơn thiêng
và quà tặng mà mình đã lãnh nhận,
nhờ đó chúng
ta có thể dễ dàng
thoát khỏi lòng tham
và ước muốn thu tích của cải vốn là một biểu hiện
của thói hà tiện.
Trong Tân ước,
thánh Gioan Tẩy Giả được
mô tả như một người có đời sống rất thanh
đạm. Thánh nhân
mặc áo bằng lông lạc
đà, ăn châu chấu và mật ong rừng. Người
từ chối mọi tiện
nghi của cuộc
sống để theo đuổi sứ vụ dọn đường cho Chúa Kitô. Sau này, các
thánh tông đồ cũng theo
gương thánh Gioan Tẩy Giả
sẵn sàng từ bỏ cuộc
sống êm ấm trong gia đình
để theo Chúa
Ki-tô làm môn
đệ. Sau khi Chúa sống lại, các ngài
còn rời bỏ quê lên đường đi loan báo Tin mừng.
Trong Giáo hội, thánh Phanxicô
Assisi là một biểu tượng về lối sống thanh bần. Người sẵn sàng từ bỏ quyền
thừa kế khối tài sản lớn của gia
đình để phụng
sự Thiên Chúa và sống hài hoà với thiên
nhiên. Thánh nữ Têrêsa Avila
(1515–1582), một nhà thần bí và là nhà cải tổ đời sống
tu trì ở Tây Ban Nha,
cũng nổi danh nhờ lối
sống khó nghèo,
không màng tiền
tài hay danh vọng.
Thánh nữ từng
khuyên các chị em mình
sống giản dị và khiêm tốn
để chú tâm vào đời sống nội tâm thay
vì mải mê tìm kiếm tiền
tài vốn là của phù vân. Thánh
Vinh Sơn Phaolô (1581–1660) được
yêu mến vì đã chọn
lựa lối sống khó nghèo nhằm
trợ giúp những
người bất hạnh.
Mặc dù được rất nhiều người giàu
có và quyền thế kính
nể (thánh nhân từng là cha giải
tội của thái
hậu Anne nước Áo, vợ goá vua Louis XIII và là mẹ của vua
Louis XIV đầy quyền lực)
nhưng người không màng
danh lợi mà vẫn giữ nếp sống
thanh bần để dễ dàng tiếp xúc với người
những nghèo khổ.
Sống thân tình
với Thiên Chúa
được coi như một trong những cách thức hữu hiệu chống
lại thói hà tiện, vì nhờ những hoạt động này chúng
ta chú tâm vào đời sống tâm linh, do đó
sẽ không còn bám víu vào của
cải vật chất nữa. Cầu nguyện và chiêm niệm giúp chúng
ta nhận ra tầm quan
trọng của lòng biết ơn, sự quảng
đại, khiêm nhường
và giản dị vốn là những
nhân đức đối nghịch với thói hà tiện. Ngoài ra, những thực
hành này còn giúp chúng
ta thêm tin
tưởng và phó
thác vào Thiên Chúa,
nhờ đó lòng
trí chúng ta được giải
thoát khỏi mọi bận tâm về tiền tài và danh
vọng. Hơn nữa,
cầu nguyện và chiêm niệm có thể đem
lại cho con người bình
an nội tâm, điều này giúp
tâm trí chúng
ta được thanh
thoát và đào luyện tâm hồn biết hướng về Thiên
Chúa và tha nhân.
Chúa Giêsu là mẫu gương
tuyệt vời của
việc cầu nguyện và chiêm niệm. Chúa thường rút lui vào nơi thanh vắng trò chuyện cùng Chúa Cha và thường
nhắc nhở các môn đệ của
mình làm như vậy. Chúa
còn nổi tiếng
sống thanh bần. Mặc dù làm chủ
cả vũ trụ nhưng Chúa
Giêsu sống giữa
trần gian giản dị
chẳng khác nào một tôi
tớ đến độ, như Chúa
nói một cách đầy khiêm tốn,
mình không có lấy một hòn đá để gối
đầu. Ngoài ra, Chúa còn khích
lệ các môn đệ đừng quá bận tâm đến cơm áo gạo tiền, cũng
đừng lo lắng
thái quá cho tương lai, nhưng hãy chú tâm tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và duy trì
tương quan gần gũi với Người (xc.
Mt 6, 25-34). Sau này, thánh Phao-lô cũng
thường nhắc nhở
các tín hữu
“hãy hướng lòng trí về những
gì thuộc thượng
giới, chứ đừng
chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3, 2). Trong nhiều
thư tín, thánh nhân thường
nói đến việc cầu nguyện
và chúc tụng
Thiên Chúa như ưu tiên hàng đầu của người tín hữu.
Thói hà tiện
là một vấn nạn vừa
mang tính cá nhân lẫn xã
hội. Những thực
hành tâm linh như cầu nguyện, suy
niệm hay sự giản dị trong
đời sống có thể giúp
chúng ta sống từ bỏ những gì thuộc về thế tục để tìm
kiếm thánh ý Thiên Chúa
và tích trữ cho mình kho tàng ở trên trời.
Gương của các nhân vật Thánh kinh và các thánh, những người đã chiến thắng mọi
cám dỗ của tiền tài, là một lời khích
lệ cho chúng ta vì cũng
giống như các ngài, nhờ ơn Chúa
giúp và sự cố gắng của bản thân, chúng ta có thể vượt
qua mọi cạm
bẫy của thói
hà tiện.
Thế nhưng đừng
quên rằng, những
thực hành này chỉ
hữu hiệu khi chúng ta nhận ra tầm quan
trọng của rèn luyện
nhân đức và kiên quyết
theo đuổi cùng
với ước muốn thay đổi đời
sống. Việc từ bỏ của cải vật chất không
có nghĩa là đề cao sự
nghèo khổ hay túng thiếu
(điều này đáng
bị loại bỏ),
nhưng đúng hơn là tự do lựa chọn
một lối sống
giản dị để giải thoát mình khỏi ma lực của tiền
tài luôn tìm
cách dẫn đưa
con người đi theo
đường lối của
nó khiến chúng
ta chỉ biết
đắm chìm vào ảo ảnh phù vân vốn chỉ đem lại cho con người
hạnh phúc thoáng qua thay vì đặt niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng duy
nhất có thể tặng ban cho nhân
loại niềm hạnh
phúc chân thực và
trường tồn. Trong
cuộc chiến chống
lại thói hà tiện đòi
hỏi chúng ta phải
biết rộng mở tâm hồn và quảng
đại với tha nhân.
Chính điều này giúp chúng
ta thăng tiến
trong đời sống,
củng cố tương quan
sâu sắc và giàu ý nghĩa với
Thiên Chúa và với
tha nhân.
Thay lời kết : sức mạnh của lòng
quảng đại
Thói hà tiện
được miêu tả qua nhiều
nhân vật trong
văn chương mà chúng
ta vừa nhắc đến có thể được coi như bản
năng thứ hai của con
người. Tất cả những kẻ hà tiện
luôn bị đồng tiền ám ảnh và cuốn hút. Họ rất giàu có nhưng lại là
những kẻ bất hạnh và bị ghét
bỏ vì chỉ biết lao đầu vào việc
kiếm tiền nên
không biết tận hưởng niềm
vui do vật chất đem lại
cho cuộc sống,
cũng chẳng thèm để ý đến bản thân hay quan
tâm đến người
khác. Họ sống
mòn mỏi vì không bao
giờ thoả mãn với khối tài sản mà mình đã thu góp
được. Cho dù họ có tích trữ được tiền rừng bạc biển cũng đều trở
nên vô nghĩa khi thần
chết bất thần
ghé thăm, đúng
như lời Thánh vịnh đã từng nhắc
nhở : “Dù sống trong
danh vọng, con người
cũng không thể trường tồn ; thật
nó chẳng khác chi con vật
một ngày kia phải chết”
(Tv 49, 13).
Mặc dù tiền
của tự nó không mang
lại hạnh phúc
đích thực cho con người, nhưng
nếu biết sử dụng một cách khôn ngoan, nó sẽ giúp chúng ta “tích trữ
cho mình một kho tàng
ở trên trời” và “làm giàu
cho Thiên Chúa”.
Điều này chỉ
có thể diễn ra nếu chúng
ta tâm niệm
rằng, cuộc sống
con người là một
hành trình không
bao giờ ngưng
nghỉ hướng đến sự hoàn thiện như lời mời gọi của Chúa Giêsu
: “Anh em hãy nên hoàn
thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”
(Mt 5,48). Cho dù còn nhiều
bất toàn và yếu đuối,
nhưng với nỗ lực của bản
thân và nhờ ơn Chúa
giúp, chúng ta vẫn hy vọng sẽ vượt
qua được những cám dỗ của tiền
tài và của thói hà tiện luôn vẫy gọi người ta sống
cho riêng mình
để trở thành người quảng đại theo
gương Chúa Kitô,
Đấng đã trao
ban chính mình để con người được sống và sống
dồi dào.
Đăng nhận xét