Quốc Văn, op.
DẪN NHẬP
Khởi đi từ những mệnh lệnh của Tin mừng: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không thể nào che dấu được” (Mt 5,13 - 14), thiết tưởng những Lời này phù hợp với người giáo dân hơn cả; họ là những con người sống giữa lòng trần thế, là muối, là ánh sáng cho đời, là “những nắm men” đang làm cho thế giới dậy men Tin mừng (Xc. Mt 13,13). Dưới ánh sáng Công đồng Vatican II, một Công đồng đầu tiên trong lịch sử Giáo hội, lưu tâm và đề cao vai trò của người giáo dân giữa lòng trần thế, chúng ta phác thảo một nền linh đạo giáo dân.
Trước tiên, chúng ta xác định người giáo dân là
ai; kế đến, tìm hiểu vị trí của người giáo dân trong Giáo hội; và
cuối cùng xác định linh đạo giáo dân qua vai trò và sứ mạng của người
giáo dân giữa lòng trần thế; đồng thời cũng vạch ra những thách đố và một
vài gợi hướng để suy tư.
I. NGƯỜI GIÁO
DÂN LÀ AI?
1.
Khởi đi từ một cách nhìn tiêu cực
Xưa nay, người giáo dân không được nhìn nhận và đánh
giá một cách đúng mức; họ thường được định nghĩa cách tiêu cực: giáo dân là
những tín hữu không làm linh mục, không khấn dòng. Hồng y Gasquet, trong quyển
“The Layman in the Pre-Reformation Parish” – “Giáo hội trong thời kỳ tiền
cải cách giáo xứ”, đã kể mẩu truyện dí dỏm:
Một Kitô
hữu dự tòng hỏi linh mục: “Vai trò của giáo dân trong Giáo hội như thế nào?”
Linh mục
trả lời: “Giáo dân có hai vai trò, thứ nhất: quỳ trước bàn thờ; thứ hai: ngồi
quay mặt về toà giảng”.
Sau đó
Đức hồng y còn hài hước thêm: người ta còn quên vài trò quan trọng nữa của
người giáo dân là đưa tay vào túi móc tiền ra bỏ vào rổ! [1]
Quả thực, suốt nhiều thế kỷ, người giáo dân như “một người ở trọ” ngay trong chính nhà của mình! Trong bối cảnh một xã hội “nặng óc gia
trưởng”, một Giáo hội thượng tôn hàng giáo sĩ, thì vai trò người giáo dân thật
là mờ nhạt. Trong đời sống đức tin, giáo dân đóng vai trò thụ động, mang tâm
trạng được ban phát. Vô tình, đức tin bị tách ra khỏi đời sống xã hội; chỉ có
Tin mừng ở nhà thờ, nơi toà giảng; chứ không thể có Tin mừng nơi công sở, nơi
phố chợ hay sạp cá! Và ngay cả việc nên thánh cũng là đặc quyền của hàng giáo
sĩ, giới tu hành; giáo dân hoàn toàn lo việc đời và thuộc về thế gian, muốn nên
thánh thì phải rập khuôn theo nếp sống của những bậc tu hành. Một não trạng như
thế khá phổ biến nơi phần đồng những tín hữu đơn thành, chân chất.
Thiết
tưởng, chúng ta cần vượt qua những quan niệm thiển cận như thế, người giáo dân
phải được trả lại vị trí đúng đắn của mình, vì họ có một nền linh đạo, hay một
đường hướng nên thánh đặc thù, chứ không phải là một thứ bản sao của hàng giáo
sĩ.
Chúng ta
tìm hiểu cách nhìn tích cực này về người giáo dân dưới ánh sáng của Công đồng
Vatican II.
2.
Cách nhìn tích cực về người giáo dân dưới ánh sáng Công đồng Vatican II
Công đồng Vatican II (Hiến chế về Hội thánh, số 31),
định nghĩa người giáo dân cách tích cực: giáo dân là tín hữu sống giữa đời,
đặc trưng của giáo dân là trần thế.
Tuy nhiên, không ít tác giả phản ứng lại định nghĩa
này, vì không chỉ có giáo dân mới sống giữa đời, mà ngay cả giáo sĩ, tu sĩ cũng
sống giữa đời (thế giới của họ đâu phải là sa mạc hay cung trăng đâu!). Hơn
nữa, phải hiểu thế nào là “giáo dân”, trẻ mới rửa tội đã là giáo dân, hay phải
là người tín hữu trưởng thành?…
Theo cha Hans Urs Von Balthasar, thì không có linh
đạo nào đặc trưng của giáo dân cả, họ chỉ là những tín hữu và gắng nên thánh
trong những điều kiện sinh sống cụ thể hằng ngày.[2]
Như vậy, người giáo dân là ai? Họ có sứ mạng gì
không? Để trả lời câu hỏi “người giáo dân là ai?”, Công đồng Vatican II đã loại
bỏ giải pháp dễ dãi của một định nghĩa tiêu cực, mà nhìn nhận vai trò người
giáo dân một cách tích cực hơn. Công đồng bày tỏ ý hướng nền tảng của mình qua
việc khẳng định rằng người giáo dân hoàn toàn thuộc về Giáo hội, cũng như thuộc
về mầu nhiệm của Giáo hội; và nét đặc trưng trong ơn gọi của họ có mục đích
riêng là “tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách quản trị các sự việc trần thế
và xếp đặt chúng theo thánh ý Thiên Chúa một cách đặc biệt”.[3]
Hiến chế Ánh sáng muôn dân quảng diễn như
sau:
Danh hiệu
giáo dân ở đây được hiểu là tất cả giáo hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu
trì [4]được
Giáo hội công nhận: nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào thân thể Chúa
Kitô nhờ phép Thanh tẩy, đã trở nên Dân Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn
sứ và vương giả của Đức Kitô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực
hiện sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Giáo hội và trên trần gian theo phận
vụ riêng của mình.[5]
Đức Piô XII, trong diễn từ đọc trước các tân Hồng y
(20.2.1946), đã khẳng định:
Các tín hữu, hay chính xác hơn,
người giáo dân, có mặt ở hàng ngũ tiên phong trong đời sống Giáo hội; nhờ họ,
Giáo hội trở thành nguyên lý sống động cho xã hội nhân loại. Chính vì thế, họ
là những người trước hết phải có một ý thức luôn luôn sáng suốt rằng không
những mình thuộc về Giáo hội, mà còn là chính Giáo hội, tức là cộng đoàn tín
hữu trên trần gian, dưới sự lãnh đạo của một vị thủ lãnh chung, là Đức giáo
hoàng, và các vị Giám mục hiệp thông với ngài. Người giáo dân là Giáo hội.[6]
Khẳng định trên của Đức thánh cha đã gây ý thức và
có ảnh hưởng lớn trong Giáo hội. Về sau, Thượng hội đồng Giám mục 1987, và Tông
huấn “Kitô hữu giáo dân” của Đức Gioan Phaolô II cũng đã nhắc lại ý
tưởng đó.[7]
Từ một góc nhìn mới mẻ về người giáo dân như thế,
chúng ta tìm hiểu về vị trí của họ trong Giáo hội.
II.
VỊ TRÍ CỦA NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG GIÁO HỘI
Trước khi tìm hiểu về vị trí của người giáo dân,
thiết tưởng chúng ta cần xác định lại quan điểm thế nào là Giáo hội; bởi vì đã
có không ít những quan điểm phiến diện, lệch lạc. Công đồng cho chúng ta lối
nhìn căn bản:
1.
Giáo hội là Dân Thiên Chúa
“Dân Thiên Chúa” là một ý niệm giữ vị trí then chốt trong toàn thể tư tưởng
của Hiến chế Ánh sáng muôn dân. Ý niệm này được xây dựng trên nền tảng
lịch sử và Kinh thánh: từ một dân tộc được Chúa chọn làm Dân riêng, đến một
Giáo hội lữ hành tiến về quê trời như Dân riêng tiến về đất hứa. Giáo hội chính
là một Dân mới có tính phổ quát và hoàn hảo hơn, đó cũng chính là Dân Chúa chọn
để làm nên một “dân tư tế, dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Pr
2,9).
Hạn từ “Dân Thiên Chúa” gợi lên cho chúng ta cách nhìn xuyên suốt, liên tục
trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Giáo hội là Israel mới, là dân cánh
chung; và mọi người luôn được mời gọi gia nhập dân này qua bí tích Thánh tẩy,
và được mang một danh xưng đặc biệt: người Kitô hữu.
“Dân Thiên Chúa” cũng là một hạn từ có khả năng diễn tả sống động hình
ảnh cụ thể của Giáo hội, hình ảnh một đoàn dân quy tụ.[8]
Cách nhìn này cho thấy sự bình đẳng của mọi người tín hữu, đánh đổ một lối nhìn
về Giáo hội theo lối hình chóp; hoăc lối nhìn chỉ thấy Giáo hội là hàng giáo
phẩm.
Ngoài hình ảnh sống động Giáo hội là dân Thiên Chúa, Giáo hội còn được
diễn tả là Nhiệm thể Chúa Kitô;[9]
trong nhiệm thể này, các chi thể đều bình đẳng và được tôn trọng như nhau. Từ
nền tảng hai ý niệm quan trọng này về Giáo hội, chúng ta tìm hiểu vị trí của
người giáo dân trong Giáo hội.
2.
Vị trí căn bản của người giáo dân trong Giáo hội
Sau Công đồng Vatican II, một Thượng hội đồng giám
mục đã nhóm họp vào tháng 10 năm 1987 để bàn về ơn gọi và sứ mạng người giáo
dân trong Giáo hội và thế giới; thành quả được đúc kết trong Tông huấn Christifideles
laici, do Đức Gioan Phaolô II ban hành ngày 31.12.1988. Trong văn kiện,
chân dung người tín hữu giáo dân được diễn tả qua vị trí của họ trong Giáo hội
nhìn từ ba chiều kích: mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ.[10]
- Chiều kích mầu nhiệm: Người
giáo dân được hưởng trọn vẹn phẩm giá của Kitô hữu, nghĩa là con cái của Thiên
Chúa, thân thể của Đức Kitô, đền thờ của Chúa Thánh Thần (số 11-13). Họ được
thông dự vào ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Đức Kitô (số 14)[11], vì là đền thờ của Chúa
Thánh Thần, nên người giáo dân được mời gọi nên thánh bằng cách phát triển
những hoa trái của Thánh Linh (số 16).[12]
- Chiều kích hiệp thông: người
giáo dân được lãnh những đặc sủng khác nhau, tất cả những đặc sủng này đều nhằm
mưu ích cho cộng đoàn, xây dựng, duy trì những mối dây liên kết với những phần
tử khác trong các cấp độ cộng đoàn khác nhau (giáo họ, giáo xứ, giáo phận, Giáo
hội hoàn vũ).[13]
- Chiều kích sứ vụ: người giáo dân tham gia vào sứ
mệnh của Giáo hội trong thế giới, đặc biệt nơi những môi trường mà Tin mừng
chưa thấm nhập: những môi trường ngoài Kitô giáo; những môi trường phản kháng,
chống đối Kitô giáo …[14]
Liên kết ba chiều kích trên, ta
thấy người giáo dân có một vị trí đặc biệt trong Giáo hội, người giáo dân là
chính Giáo hội,[15] là Dân Thiên Chúa, là
thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, họ bình đẳng với mọi thành phần khác về vị
trí và giá trị như bất cứ thành phần nào trong Thân Thể Huyền Nhiệm.[16]
III.
LINH ĐẠO GIÁO DÂN
Nếu người giáo dân có vị thế căn bản trong Giáo hội,
thì cũng có một linh đạo dành riêng cho họ. Linh đạo này được đặt nền trên bí
tích Thanh tẩy.
1. Nền tảng
căn bản: Bí tích Thánh
tẩy
Khi lãnh
nhận bí tích Thanh tẩy, người Kitô hữu được chia sẻ ba chức vụ tư tế, ngôn sứ
và vương giả của Đức Kitô. Tuy nhiên, người giáo dân, do tính cách trần thế, đã
hành xử ba chức vụ này khác với hàng giáo sĩ. Chúng tìm hiểu nét đặc thù của
từng vai trò đó.
a. Vai trò tư tế
Chúa Kitô là vị thượng tế duy nhất, duy mình Người
mới có thể dâng lên Chúa Cha hiến lễ đích thực có giá trị vĩnh viễn cứu độ con
người. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng trao quyền tế lễ cho các thừa tác viên của
Người khi thiết lập tác vụ linh mục. Để thi hành chức vụ này cách trọn vẹn, Đức
Giêsu mời gọi một dân là Giáo hội, dân được thánh hoá để trở thành dân thánh,
dân tư tế (Xc. 1Pr 2,9).
Người giáo dân được chia sẻ chức tư tế Chúa ban cho
Giáo hội, gọi là chức tư tế cộng đồng. Nhờ chức tư tế này, người giáo dân có
thể thực sự thánh hoá đời sống mình, thánh hoá mọi sinh hoạt trần thế, mọi chức
vụ, và ngay cả những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Tất cả được kết hợp
với hiến tế duy nhất của Đức Kitô, dâng lên Chúa Cha, để nên lời ca khen chúc
tụng cũng như mang lại ơn cứu độ cho chính mình và cho nhân loại.[17]
Mọi hoạt động,
kinh nguyện và công cuộc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công việc làm
hằng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh
Thần và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất
cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Kitô.[18]
b. Vai trò ngôn sứ
Ngôn sứ hay tiên tri là những người được Chúa tuyển
chọn, thay mặt Chúa để nói Lời và ý muốn của Người cho nhân loại. Đức Giêsu là
vị ngôn sứ vĩ đại, Người đến và nói “những điều đã nghe biết nơi Chúa Cha”. Đức
Giêsu là điểm thành toàn của tất cả các ngôn sứ; nói cách khác, tất cả các ngôn
sứ đều là chuẩn bị và loan báo Đức Giêsu sẽ đến.
Người giáo dân tham gia vào chức vụ ngôn sứ của Đức
Giêsu bằng cách góp phần vào sứ vụ loan báo ý định cứu độ của Thiên Chúa cho
nhân loại: họ bày tỏ đức tin và đức ái cho những người chung quanh, trong lãnh
vực nghề nghiệp, và nhất là trong đời sống gia đình.
Được thánh hoá do bí tích Hôn nhân,
hai vợ chồng cùng làm chứng cho nhau và con cái về lòng tin và tình yêu của
Chúa, để cho gia đình Kitô giáo vừa là nơi huấn luyện tuyệt diệu cho công cuộc
tông đồ, vừa bày tỏ sức mạnh của Tin mừng giữa lòng thế giới.[19]
Thiết tưởng vai trò ngôn sứ của người giáo dân trong
thời đại hôm nay, còn là đọc ra ý định của Thiên Chúa qua dấu chỉ và các biến
cố của thời đại, một thời đại đầy biến động, đổi thay chóng mặt. Thiên Chúa vẫn
ngỏ lời với con người, nhưng điều quan trọng là con người có nhận ra và đáp trả
hay không.
c. Vai trò vương
giả
Đức Giêsu đã vâng phục Chúa Cha cho đến chết. Khi
mọi sự hoàn tất, khi Người tiêu diệt hết mọi quản thần, quyền thần và dũng thần,
Người trao lại vương quyền cho Thiên Chúa là Cha, để Thiên Chúa nên tất cả
trong mọi sự và cho mọi người (Xc. 1 Cr 15, 20-28).
Khi lãnh nhận chức vụ vương giả của Đức Kitô, người
giáo dân được hưởng một sự tự do đích thực, tự do hào hùng của con cái Chúa,
không còn làm nô lệ cho ác thần, và được ban sức mạnh để chiến thắng ách thống
trị của tội lỗi nơi mình. Chức vụ vượng giả này cũng thúc đẩy người giáo dân có
trách nhiệm phải hăng say hoạt động để đưa tất cả mọi anh em của mình về với
Thiên Chúa.
Để thi hành vai trò này, Công đồng nhắc nhở người
giáo dân cần phải nhận biết bản tính sâu xa của các thụ tạo, cứu cánh của chúng
phải hướng về Thiên Chúa, chờ đợi ngày Thiên Chúa cứu độ trọn vẹn; cho nên người
giáo dân giữa môi trường trần thế, cần phải nỗ lực làm cho trần gian thấm nhuần
ơn cứu độ của Đức Kitô và đạt tới cùng đích cách hữu hiệu hơn trong công lý,
hoà bình và bác ái.[20]
2. Sứ mạng
thánh hóa trần thế
Có thể nói sứ mạng đặc trưng của người giáo dân là
thánh hoá trần thế, là nên men, nên muối cho đời.
a. Lời mời gọi
nên thánh của mọi Kitô hữu
Nên thánh không phải là đặc quyền của riêng thành
phần nào, tất cả mọi người đều được mời gọi trở nên hoàn thiện, và phải trở nên
hoàn thiện. Các phương tiện nên thánh của người giáo dân cũng là những phương
chung cho tất cả mọi tín hữu: đời sống nhân đức, được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa
và các bí tích, việc cầu nguyện, hy sinh, bác ái… và những sinh hoạt hằng ngày;
nhờ thế, toàn thể cuộc đời trở nên hiến tế tinh tuyền đẹp lòng Chúa và góp phần
thánh hoá nhân loại.[21]
Người giáo dân nên thánh trong những điều kiện cụ
thể của cuộc sống: nơi gia đình, nơi phố chợ, nơi công sở… Nhờ sống đạo giữa
lòng nhân loại như vậy, họ góp phần tích cực “Tin mừng hoá” thế giới; một thế
giới còn quá nhiều chọn lựa nghịch với giá trị của Tin mừng. Nét đặc trưng của
người giáo dân là nên thánh gữa đời, giữa những xô bồ náo nhiệt chứ không phải
nơi sa mạc hoang vu hay tu viện bốn bề yên tĩnh.
b. Tính cách trần
thế
trong sứ sứ
mạng
của
người
giáo dân
Đức Piô XII, trong bài phát biểu tại đại hội thế
giới năm 1957, đã đưa ra những nhận định khá rõ nét về tính cách đặc thù trong
sứ mạng của người giáo dân:
Mối tương quan giữa Giáo hội và thế
giới đòi phải có sự can thiệp của các tông đồ giao dân. Việc “thánh hiến trần
gian”, trong cốt yếu, chính là công việc của người giáo dân, là những người hoà
nhập một cách chặt chẽ vào đời sống kinh tế xã hội.
Nhìn lại lịch sử nhân loại, sau đệ nhị thế chiến,
trước một xã hội đổ vỡ tan nát nhưng cũng đang manh nha nhiều yếu tố mới mẻ,
Đức Gioan XXIII đề cập đến vai trò người giáo dân như là lời đáp trả tiếng kêu khẩn thiết của thế
giới:
Giáo hội hôm nay phải đương đầu với
một trách nhiệm lớn lao: đem sắc thái nhân bản và Kitô giáo vào trong nền văn
minh hiện đại, sắc thái mà nền văn minh này đòi hỏi và dường như khẩn khoản nài
xin, nhằm lợi ích phát triển và sự hiện hữu của nền văn minh ấy. Giáo hội chu
toàn cách trách nhiệm ấy, đặc biệt nhờ các giáo dân, là những người phải cảm
thấy mình dấn thân vào việc thực hiện những hoạt động nghề nghiệp như là việc
chu toàn một nghĩa vụ, như là một dịch vụ mà do họ thực hiện trong sự kết hợp
mật thiết với Thiên Chúa, trong Đức Kitô, để làm vinh danh Người.[22]
Như vậy, với vị thế đặc biệt của mình, người giáo
dân có thể thi hành những sứ mạng mà hàng giáo sĩ không thể nào chu toàn nổi.
Họ đang là men Tin mừng, là muối ướp trần gian. Người giáo dân đang nỗ lực xây
dựng Nước trời ngang qua những nẻo đường trần thế, họ là lời nhắc nhở một thời
cánh chung đã khởi đầu và đang tiến về sự viên mãn. Lời của Đức Gioan Phaolô II,
trong bài giảng bế mạc Thượng hội đồng giám mục 1987, càng cho ta xác tín hơn
sứ mạng đặc thù của người giáo dân:
Người tín hữu giáo dân được đặt vào
tận biên thuỳ của lịch sử: gia đình, văn hóa, xã hội, thế giới lao động, kinh
tế, chính trị, khoa học, kỹ thuật, truyền thông đại chúng, những vấn đề lớn của
sự sống, của liên đới, hoà bình, đạo đức nghiệp vụ, nhân quyền, giáo dục, tự do
tôn giáo.
3. Những
thách đố
Ở trên, chúng ta đã phác thảo
linh đạo của người giáo dân dựa trên nền tảng căn bản là bí tích Thánh tẩy;
thực ra, bí tích Thánh tẩy là nền tảng chung cho mọi Kitô hữu, chẳng kỳ họ là
giáo dân hay giáo sĩ. Thiết tưởng ngay trong cách phân chia này, dù có nhìn
tích cực đến đâu, người giáo dân vẫn bị xếp hạng. Phải nói rằng Công đồng
Vatican II đã có bước đột phá rất lớn trong việc xác định lại vai trò của người
giáo dân trong Giáo hội, đưa ra những suy tư định hướng cho một nền linh đạo
giáo dân; tuy nhiên, đây mới chỉ là lý thuyết, hay những biểu ngữ sáo rỗng; về
phương diện thực hành, Công đồng không đưa ra những chỉ dẫn cụ thể để người
giáo dân có thể tham gia một cách tích cực vào những tác vụ của Giáo hội; cho
nên sứ mạng chung của cả Giáo hội vẫn thường bị coi như là công việc riêng của
hàng giáo sĩ, đặc biệt là trong công tác quản trị.
Một chút nhìn lại lịch sử, trong thiên niên kỷ thứ
nhất, giáo dân và giáo sĩ phát triển song hành; bước sang thiên niên kỷ thứ
hai, hình ảnh người giáo dân mờ nhạt, hàng giáo sĩ thượng tôn. Nếu dự đoán một
chút về tương lai, phải chăng thiên niên kỷ thứ ba này phải là thiên niên kỷ
của người giáo dân? Phải chăng cần một lối nhìn thần học mới về người giáo dân,
tránh những địa vị, chức tước quá nhiều? Ở một số vùng sâu xa hẻo lánh, người
giáo dân được chia sẻ một số tác vụ mà từ trước đến nay chỉ dành riêng cho hàng
giáo sĩ, ví dụ như: quản trị cộng đoàn, trao Mình Thánh Chúa, thăm viếng và
trao Của Ăn Đàng cho kẻ liệt …; tuy nhiên, những tác vụ này chỉ được thực thi
một cách ngoại thường, như một biện pháp chữa cháy, chứ không phải là tác vụ
chính thức người giáo dân được trao phó.
Cũng có những trường hợp người
giáo dân lạm dụng chức quyền, chi phối cả những hoạt động của Giáo hội. Điều
này đã từng xảy ra trong lịch sử Giáo hội: Vào thế kỷ thứ mười, người giáo dân
có quyền bầu Giám mục; và rồi nhiều giáo
dân có vai vế, xen mình cả vào việc bầu Giáo hoàng. Do vậy, từ thế kỷ thứ mười
một, Giáo hội dần dần bị cơ cấu hóa và dẫn đến tình trạng giáo sĩ trị, quyền
bính của hàng giáo sĩ ngày càng được củng cố và đẩy lui vị trí của người giáo
dân. Tình trạng thái quá bất cập này còn được Công đồng Trentô củng cố vững
mạnh hơn nữa. Suốt cả mười thế kỷ, người giáo dân một cách vô tình chỉ được coi
là một Kitô hữu hạng hai; cho tới Vatican II, lối nhìn này mới được đặt lại.
Tuy nhiên, để có thể thay đổi não trạng, cả về phía giáo sĩ lẫn giáo dân, cần
phải có một “cuộc cách mạng” và phải cần thời gian nữa.
KẾT LUẬN
Thánh Âutinh nói: “Làm giám
mục cho anh em tôi rất sợ; làm tín hữu đối với anh em, tôi rất an tâm. Giám mục
là một chức vụ, tín hữu là một ân phúc. Giám mục là một danh hiệu nguy hiểm, tín
hữu là danh hiệu đem lại ơn cứu độ”.
Quả thực, ơn gọi căn bản và cao
quý nhất của mỗi người, đó là ơn gọi được làm Kitô hữu. Qua bí tích Thanh tẩy,
người tín hữu được tháp nhập vào thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, được quy tụ
thành dân Thiên Chúa, được chia sẻ ba chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của
Đức Kitô. Dù là giáo dân hay giáo sĩ, tất cả đều bình đẳng và được trân trọng
như những bộ phận khác nhau trong cùng một thân thể. Mỗi bộ phận có chức năng
riêng, nhưng tất cả đều nhằm phục vụ cho lợi ích chung. Có lẽ trong thiên niên
kỷ thứ ba này, cần phải triển khai ơn gọi là Kitô hữu, như ơn gọi nền tảng của
mọi thành phần dân Chúa, và đặc biệt phải giúp người giáo dân nhận ra phẩm giá
và vai trò đặc biệt của mình là một Kitô hữu sống ơn gọi giáo dân, cũng như
những Kitô hữu khác sống ơn gọi tu sĩ, linh mục.
Chính từ ý thức này, người giáo
dân dấn thân vào trần thế như một chức năng riêng biệt. Ứng với từng hoàn cảnh
cụ thể, tuỳ theo nghề nghiệp, tuổi tác, tình trạng bản thân, môi trường văn
hoá, kinh tế, chính trị… người giáo dân phải thích ứng và đem vào đó những giá
trị Tin mừng.
[1]
Xc. Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Hữu Tấn, Linh đạo giáo dân. Đại chủng viện
thánh Giuse, 1990 - 1991.tr. 2.
[2] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập
III, Rôma 2003, tr. 378.
[3] Xc. Hiến chế Ánh sáng muôn
dân, số 31,2.
[4] Nên có sự phân biệt ở đây, theo Giáo luật, những tu sĩ không có chức
thánh, cũng thuộc vào hàng giáo dân. Theo cấp độ phẩm trật, chỉ phân biệt hàng
giáo dân và giáo sĩ (đây là chú thích của người viết chứ không phải của bản
văn).
[5] Xc. Hiến chế Ánh sáng muôn
dân, số 31
[6] Trích theo Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Hữu Tấn, Linh
đạo giáo dân, tr. 251.
[7] Xc. Nguyễn Trọng
Viễn, Linh đạo giáo dân và linh đạo giáo dân Đaminh, tài liệu tham khảo
khóa học tập về giáo dân Đaminh, tr. 2.
[8] Giáo hội, theo tiếng Hylạp là Ekklesia, nghĩa là sự quy tụ.
[9] Xc. Cr 12, 12-30; LG 7.
[10] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập III, tr. 378.
[11] Chúng ta sẽ khai triển riêng ba chức vụ này khi bàn về vai trò của giáo
dân giữa lòng trần thế.
[12] Xc. Chương I của Tông huấn Christifideles laici, nói về chiều
kích mầu nhiệm trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi.
[13] Xc. Chương II của Tông huấn Christifideles
laici, nói về nội bộ của Giáo hội.
[14] Xc. Chương III của Tông huấn Christifideles laici.
[15] Cách diễn tả của Đức Piô XII.
[16] Xc 1 Cr 12,12.
[17] Hiến chế Ánh sáng muôn dân, số 32.
[18] Ibidem, số 32.
[19] Ibidem số 32.
[20] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Linh đạo giáo dân và
linh đạo giáo dân Đaminh, tr. 7.
[21] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập III, tr.
379.
[22] Thông điệp Mẹ và Thầy, ban hành ngày 15.5.1961, của Đức Gioan
XXIII.
Đăng nhận xét