Fr. Mạnh Tâm, op.
Dẫn
vào
Đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi ta sống sao để thành
chứng nhân”. ĐK : “Này Ngài sai ta đi đây đó. Sống chứng nhân Phúc âm. Lãnh sứ mạng Chúa trao hôm
nào vì là con Thiên Chúa. Này Ngài sai ta đi
đây đó đi loan báo Tin Mừng.
Loan tin mới tin vui của Ngài
rằng Thiên Chúa yêu thương loài người”.
Những lời trong bài thánh ca đó toát lên
cho chúng ta biết : tuy lễ nghi kết thúc theo nghi thức Phụng vụ nhưng
thánh lễ cuộc đời vẫn
còn tiếp diễn với sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi tín hữu.
Giáo lý Hội thánh trong Công đồng Vaticanô II đã dạy
chúng ta rằng : “Mọi hoạt động của Hội thánh đều hướng tới tột đỉnh là Phụng vụ ; đồng
thời, mọi năng lực của Hội thánh đều phát xuất từ Phụng vụ” (HCPV, số 10).1
Tuy nhiên, để có thể sống đúng điều đó, thì cần biết và hiểu
rõ những gì mình tham dự, vì “vô tri thì bất mộ”, không biết thì không yêu. Nói
cách khác, muốn sống đời Ki-tô hữu trưởng thành thì phải hiểu biết và
tham gia vào việc cử hành các Bí Tích ; đồng thời
cần phải sống những gì mình biết.
Hơn thế nữa, qua việc cử hành mầu nhiệm Kitô giáo - các yếu tố căn bản của Lex celebrandi,2 những
người dâng hiến cho Chúa sẽ càng nhận thức hơn việc đón nhận sức mạnh và kết nối
việc mình tham gia Phụng vụ với đời sống chứng
tá : “Ta về thôi vì thánh
lễ đã hết. Nhưng đời ta là
thánh lễ nối dài. Đem tình thương Chúa đến mọi nơi. Ta sống sao để thành chứng
nhân”.
Biết, yêu để sống Phụng vụ cũng là biết,
yêu để sống chứng tá trong ơn gọi dâng hiến.
1.- Sự kết nối giữa BIẾT và SỐNG
Phụng vụ
Biết ở đây là cấp độ sâu xa trong đời sống
tâm linh, vì biết có ba cấp độ. Thứ nhất là biết
như một thông tin bên ngoài. Tôi biết người đó tên gì, nhà ở đâu, thân thế gia đình và sự nghiệp thế nào, v.v… Thứ đến là biết về khía cạnh tâm lý. Thí dụ, tôi biết anh A hay chị B thích
cái gì, ghét cái gì, họ hiền hay
dữ dằn, khiêm tốn hay tự kiêu, v.v... Và cuối cùng là biết
1 Giáo lý Hội thánh
Công giáo (GLHTCG), số 1074.
2 Toát yếu Giáo lý Hội thánh Công giáo (TY.GLHTCG), Dẫn nhập.
theo nghĩa tâm linh. Đó là đi vào tương quan thân mật, thấu
hiểu và cảm nhận mang chiều kích siêu nhiên. Như bài thánh ca của nhạc sĩ Ân Đức mượn lời của thánh Augustinô : “Xin cho
con biết Chúa. Xin cho con biết con. Biết Chúa là Thiên Chúa, độc
nhất là Cha, là Chúa trời đất. Biết Chúa vua muôn loài. Biết Chúa thương con người.
Biết Chúa là tạo hoá là đấng sinh thành nên con. Biết con là tạo vật, một đời sống kiếp con người.
Biết con không là gì, chỉ là bụi
cát mà thôi. Biết con thân phàm hèn, mỏng dòn muôn vàn yếu đuối. Biết con bao tội tình, để lòng xao xuyến khôn nguôi”.
Quả thật, chính cái biết này mà Hội thánh khẳng định : “Lạy Cha... sự sống đời đời, chính là (họ) nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Kitô” (Ga 17,3) và
“Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta,... muốn cho mọi người được cứu và nhận biết chân lý” (1Tm 2,3-4)3.
Vậy thì, khi ta biết được nguồn gốc, ý nghĩa của Phụng
vụ thì sẽ thấy những gì mình tham dự là một hồng ân bao la, vì được chính Chúa
đưa ta vào trong mầu nhiệm linh thiêng của Người qua Chúa Con là Chúa Giêsu Kitô, như Hội thánh đã minh
định : “Phụng vụ là công trình của Đức Kitô, cũng là hành
động của Hội thánh.” Theo truyền thống Ki-tô giáo, danh từ này muốn nói : “Dân
Thiên Chúa tham dự vào công trình của Thiên Chúa” (x. Ga 17,4)4.
3 GLHTCG, Dẫn nhập.
4 Sđd., 1069.
2.- BIẾT và SỐNG Phụng vụ qua việc tìm hiểu ngôn ngữ
a.- Hạn từ Agapê
*Agapê :
Đây là hình thức yêu thương
điển hình nhất của
Kitô giáo, bởi nó mô tả tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa được
truyền lại cho các môn đệ ; từ đó trải rộng cho muôn dân (Ga 13,34-35).
* Agapê :
ám chỉ bữa tiệc yêu thương mà
Hội thánh sơ khai tổ chức (1Cr
11,20-22.33-34). Ban đầu được tổ chức chung với Phụng vụ Thánh Thể, sau dần
tách ra vì tiệc có những tiêu cực (lộn xộn, lạm dụng việc ăn uống,…). Rồi dẫn đến Công đồng Carthagô
(397) đã tuyên
bố bãi bỏ Agapê. Thế kỷ thứ 8 truyền thống này hoàn toàn
biến mất. Nhưng sau Công đồng Vat. II, Hội thánh khuyến
khích tổ chức lại bữa tiệc
Agapê trong giới hạn nào đó.
Vậy khi biết ý nghĩa từ Agapê, sẽ dẫn ta việc tham gia tích cực để chia sẻ trong tình huynh đệ ;
từ đó, kết quả việc hiểu biết và tham dự là sống
: chia sẻ tình bác ái huynh đệ khi phục
vụ và chia sẻ tấm bánh, chén cơm, manh áo. Agapê
đã được lan toả rộng không chỉ hiểu hạn từ mà còn hành động. Đó là sự kết nối
giữa hiểu và sống Phụng vụ.
b.- Tiếp theo là hạn từ Alpha
(A) và Ômêga (W)
Alpha là chữ
hoa đầu tiên trong mẫu tự Hy Lạp. Lúc bắt đầu nghi thức Phục sinh, trọng
tâm của năm Phụng vụ, vị linh mục
vẽ chữ Alpha lên
trên đầu ngọn nến cây thánh giá và chữ Ômêga
phía dưới cây thánh giá, vừa đọc : “Đức
Kitô hôm qua và hôm nay, nguyên thuỷ và cùng đích, Alpha và Ômêga, thời gian là
của Chúa và mọi thế hệ là của Chúa, vinh quang và vương quyền là của Chúa, qua mọi thế hệ cho đến muôn đời.
Amen” (Kh 1,8). Đây là câu minh chứng Thiên tính của Đức Kitô. Người là Đấng đầu hết và cuối hết, khởi đầu và tận cùng.
Từ việc hiểu ý nghĩa của hạn từ, dẫn đến ta sống và chọn
lựa chỉ cho Chúa mà thôi vì Người là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Người là
Chủ tể mọi kẻ sống cũng như kẻ chết cho đến muôn đời.
c.-
Amen, lời xin vâng tín thác
Amen là từ tiếng Do Thái, có nghĩa là “Vâng", xin đồng
ý, biểu lộ sự ưng thuận, chấp nhận một điều gì đó chắc chắn trong khi cầu nguyện.
Amen, được kết thúc 4 thánh vịnh quan
trọng sau đây : Tv 40, 14 : nói lên lời cầu khẩn khi gặp gian
truân. Tv 71, 19 : diễn tả vương quyền của Đấng Mêsia. Tv 88,
83 : ca ngợi lòng nhân hậu của Thiên
Chúa. Tv 106, 48 : chúc tụng lòng trung tín của Thiên Chúa đối với Israel. Vì thế, Amen áp dụng nhiều hoàn cảnh khác nhau của
cuộc đời5.
* Có lúc chỉ sự “ưng thuận,
đồng ý”, như ở cuối các lễ nghi
và các lời nguyện linh mục đọc. Đây vừa có tính cách hiệp nhất
cộng đoàn, vừa nói lên thừa nhận tư cách đại diện (thừa tác viên) thay mặt cộng
đoàn.
* Có lúc chỉ việc “tuyên xưng đức tin” như lời thưa Amen
khi Rước lễ (Linh mục hoặc Thừa tác viên Thánh Thể đọc : Mình Thánh Chúa
Kitô, người rước lễ thưa : Amen. Đây
cũng là lời tuyên xưng cá nhân có ý nói lên lòng tin Chúa Giêsu
quả thực ngự trong hình bánh. Lễ nghi Thánh Ambrôsiô vẫn giữ, và nay Giáo hội
Rôma lấy lại trong Phụng vụ canh tân.
* Có lúc chỉ “ước gì được thực hiện như vậy” : như trong
Bí tích Thêm Sức, khi vị chủ sự 4 lần xin Chúa Thánh Thần
5 Bản TY.GLHTCG, số 217.
xuống trên thụ nhân thưa : Amen, có nghĩa là : ước gì Chúa Thánh Thần ngự xuống thực sự.
* Amen còn diễn tả
niềm tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa sẽ thực hiện những lời nguyện xin của
con người. Thí dụ : các lời nguyện kết
trong các kinh Chiều, kinh Sáng, trong lời nguyện Nhập lễ, Hiệp lễ, lời nguyện
tín hữu ....
* Amen còn là lời tung hô chúc tụng, vì những
việc lạ lùng Chúa đã thực hiện hoặc cảm tạ Người
đã đổ hồng ân xuống trên nhân loại. Thí dụ :
trong Vinh tụng ca trong kinh Tạ ơn (khi chủ tế nâng chén và đĩa, đọc : “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô
và trong Đức Kitô mà mọi vinh
quang và danh dự đều quy về Chúa, là Cha toàn năng trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời.” Lúc bấy
giờ cả cộng đoàn sẽ đáp lại : Amen 6.
Và có rất nhiều ý nghĩa của từ ngữ trong
Phụng vụ để ta hiểu.
Chính việc hiểu biết và sống những gì mình tham dự cho
thấy, Phụng vụ luôn gắn liền với đời sống đức tin của kitô hữu
và kết nối với nhau thành một mạch sống sinh động và đầy hoa trái thiêng liêng.
“Huấn giáo dựa theo Phụng vụ nhằm đưa con
người vào mầu nhiệm Chúa Kitô (tức là giáo huấn khai tâm
Kitô giáo), dẫn từ hữu hình tới vô
hình, từ dấu chỉ tới thực tại, từ các bí tích tới các mầu nhiệm”.
3.- Kết nối giữa BIẾT và SỐNG là YÊU
Xen giữa sự kết nối giữa hiểu và sống Phụng
vụ là
Yêu mến.
6 GLHTCG, số 1075.
Làm sao có thể dẫn đến sống những gì mình biết nếu
không có lòng mến. Điều này đã được Hội thánh xác tín từ đầu
trang sách Giáo lý Công giáo : “Tất cả mục
đích của giáo lý và lời giảng dạy phải được đặt trong Tình Yêu vĩnh cửu. Dù có thể
trình bày thật khéo léo điều phải tin, cậy hay làm, những điều chính yếu là phải làm nổi bật lòng yêu mến Chúa, để mọi người hiểu rằng mọi hành vi tốt theo đúng
nghĩa Kitô giáo không có nguồn gốc nào khác ngoài
Tình Yêu và không có cùng đích nào
khác ngoài Tình Yêu”7.
Vô tri bất mộ- không biết thì không yêu.
Biết để yêu, từ yêu dẫn đến sống. Không ai yêu mến thánh lễ thật sự mà lại
không dẫn đến sống “hồn” của thánh lễ. “Đời ta là thánh lễ nối dài” Niềm vui của việc lãnh nhận
ơn cứu độ luôn thúc đẩy tín hữu ra đi. Chẳng hạn : chữ Lễ Misa.
Trong Sách Lễ Rôma, bản chính bằng tiếng la-tinh,
để kết thúc thánh
lễ, chủ tế đọc “Ite, missa est”. Missa (do động từ la-
tinh mittere : gửi đi) có nghĩa là sự trả về. Do đó "Ite,
missa est" có nghĩa
là "Hãy đi, đây là lúc giải
tán", cũng như khi ta nói : “Thôi về đi, mọi việc đã xong rồi !”
8 Bản dịch Tiếng Việt là
: “Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an”. Sau
này, Phụng vụ Hội
thánh tại Việt Nam đã chuyển câu này như hiện này là
: “Lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình an.” Chữ “ra đi” giờ đây không
còn nghĩa về nhà đơn thuần nơi mình sinh sống, mà ra đi để loan báo Tin Mừng mà
mình lãnh nhận trong Thánh lễ.
Ý nghĩa kết nối việc hiểu và sống chính
là tình yêu. Vì yêu mà
mình muốn ra đi để chia sẻ niềm vui cho mọi người.
Đó là sự nối kết thánh lễ trong Phụng
vụ với thánh lễ cuộc đời.
7 GLHTCG, số 25.
8 Từ thế kỷ thứ IV, chữ
missa
chỉ định toàn bộ thánh
lễ.
Tạm kết
Tóm lại, Tân ước sử dụng từ “Phụng vụ”
không những để chỉ nghi lễ phụng thờ Thiên
Chúa (x. Cv 13,2 ; Lc 1,23),
mà còn nói lên việc rao giảng Tin Mừng (x. Rm 15,16 ; Pl 2,14- 17.30) và
việc thực thi đức ái. Chính cái biết giúp ta có tới ba chiều kích liên kết với
nhau : tham dự, rao giảng và thực thi đức ái9.
Từ đó, khi tham dự Phụng vụ, mỗi kitô hữu được mời gọi hãy cố gắng hiểu biết những gì mình
đang dự phần với lòng yêu mến. Nhờ đó, sống những gì mình hiểu biết, và làm chứng những gì mình đang sống. Lúc đó, ta sẽ biến cuộc đời ta thành thánh
lễ nối dài, đem tình thương Chúa đến mọi nơi. Ta sống sao để thành chứng nhân.
9 GLHTCG, số 1070.
Đăng nhận xét