Cái Mới Của Chúa

Con người cần có một ngày mới, một tuần mới,
một tháng mới, một năm mới….
Với một khoảng khắc thời gian mới,
con người như bừng tỉnh khả năng bắt đầu của mình, bừng tỉnh một quyền năng đặt tên cho muôn vật.
            Tuy nhiên, sâu xa hơn hết,
con người cần một tinh thần mới,
một sức sống mới từ bên trong.
Mùa xuân của vũ trụ gợi nhớ
và mời gọi cho một mùa xuân khác,
“Mùa xuân của tinh thần”, “Mùa Xuân Tâm Linh”.
                        Nguyễn Trọng Viễn, OP.


            Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa ngôi vị, Ngài không phải chỉ là một nguyên lý, không phải chỉ là qui tắc, không phải chỉ là một bản chất bất biến…Người ta có thể tìm thấy nơi Chúa những nguyên lý căn bản, nhưng qui tắc hành động, hoặc một bản tính Thiên Chúa bất biến, nhưng tất cả những điều đó không thể nào toát lược được hết hiện hữu của Thiên Chúa. Thiên Chúa là một “ngôi vị”, một cách nào đó, Ngài có “lý trí”, Ngài có “ý chí”, Ngài có “tự do”, mặc dù ta chỉ có thể nói về những phẩm tính ấy của Thiên Chúa một cách loại suy. Nói một cách khác, Thiên Chúa Ngôi vị tự thể hiện chính mình trong tự do,


 trong sự “sáng tạo” bản thân, trong hành động, trong tương quan với thụ tạo, với những ngôi vị khác… Điều ấy có thể nói một cách nôm na : Thiên Chúa là Đấng luôn luôn mới, và Ngài cũng làm cho vũ trụ, làm cho thế giới, và cho con người được đổi mới. Nói một cách văn chương hơn : Thiên Chúa là Chúa Xuân….
            Ta chẳng thể nói gì được về chính cái mới ở nơi Chúa, nhưng ta có thể nhìn vào hiệu quả nơi những công trình của Ngài để biết được một chút về cái mới của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa làm cho vũ trụ được đổi mới
            Thiên Chúa là Chúa của vũ trụ, và Ngài đã “đẩy nhẹ” trục địa cầu, để trái đất quay chung quanh mặt trời không theo góc vuông, nhưng theo góc lệch, và trục quay ấy tạo nên thời tiết tháng năm, và trái đất có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông,.… Một điều quá đơn giản nhưng thật kỳ diệu. Thời tiết đổi thay làm cho vũ trụ luôn được đổi mới; khiến có một ngày mới hiện ra với dáng vẻ tinh khôi; khiến cho bức thảm thực vật trên trái đất biến đổi phong phú vô ngần; khiến cho các động vật có được những mùa sinh sản riêng biệt; khiến cho một tuần, một tháng mới mang đầy những hứa hẹn mới khác với tuần/tháng cũ; khiến cho con người bước vào một năm mới với biết bao nhiêu là dự tính, biết bao nhiêu là ước vọng, biết bao nhiêu là sức sống mới….
            Mặc dầu, trước mắt, vũ trụ được đổi mới theo một quỹ đạo tuần hoàn, lặp đi lặp lại hằng năm, nhưng nếu nhìn ở mức độ vĩ mô, ta thấy vũ trụ không phải chỉ theo một quỹ đạo tuần hoàn, không lặp đi lặp lại, nhưng vẫn đang trương nở, đạt đến những tầm mức hoàn toàn khác. Mặc khải Kitô giáo cho thấy vũ trụ có một khởi đầu trong sự sáng tạo của Thiên Chúa và có một chung cuộc trong ơn cứu độ của Ngài. Thời gian của vũ trụ không phải là một vòng tròn lặp đi lặp lại của những đại-niên, như trong nhiều truyền thống tôn giáo triết học khác, nhưng đang hướng tới một sự hoàn tất chung cuộc. Yếu tố tín lý căn bản ấy đặt vũ trụ vào một dòng biến chuyển, không phải hoàn toàn như “cái cũ”, bằng cách lặp đi lặp lại, nhưng luôn nẩy sinh những “cái mới” và đạt đến ý nghĩa căn của nó trong ngày cùng tận. Đức tin cho chúng ta thấy vũ trụ cũng trông chờ được cứu độ, và ơn cứu độ nơi Đức Giêsu cũng đang thu hợp mọi biến chuyển của vũ trụ :
“Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy ; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy  là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. Thật vậy, chúng ta biết rằng : cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. (Rm 8, 19-22)
            Điều cần phải khẳng định là Kitô giáo không phải là một thứ “tôn giáo thiên nhiên”, một thứ tôn giáo diễn tả sự tuần hoàn của vũ trụ thiên nhiên bằng những nghi thức mang tính cách thần thánh hóa thiên nhiên. Mặc dù lịch phụng vụ Kitô giáo có một phần am hợp và được gợi hứng từ những biến chuyển tuần hoàn của vụ trụ thiên nhiên : ngày Đông-chí là ngày kính thần Mặt Trời, được dùng để mừng ngày Sinh Nhật của Đức Giêsu; ngày Phục Sinh được cử hành đồng thời với thời gian trái đất được tỏ lộ với dáng vẻ tươi đẹp của một mùa Xuân mới…Ngược lại, chu kỳ phụng vụ Kitô giáo là một cử hành nhằm giúp cho vũ trụ “ướm mình” vào sức sống thần thiêng, vào biến cố Đức Giêsu Kitô, một biến cố vừa có tính lịch sử trong không gian và thời gian, lại vừa siêu vượt không gian vũ trụ và thời gian lịch sử. Nói cách khác, không phải Kitô giáo diễn tả chu kỳ lập đi lập lại của vũ trụ, nhưng ngược lại, chính vũ trụ được nối kết vào biến cố Đức Kitô để vượt thoát ra khỏi vòng luân chuyển lập đi lặp lại, và được đưa vào vận hành của một sự đổi mới căn bản trong biến cố đức Giêsu Kitô. Bởi vì chính Ngôi Lời Thiên Chúa mới là căn nguyên và là cùng đích của vũ trụ :
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành  ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại”. (Ga 1, 3-4)
 2. Con người đảm nhận lịch sử của đời mình
            Truyền thống Kitô giáo đã đưa vào thế giới một chiều kích căn bản của sự đổi mới, chiều kích lịch sử. Vũ trụ và thế giới con người, ít nhiều, đều có một lịch sử đúng nghĩa, nghĩa là luôn làm xuất hiện những cái mới như là những biến cố có ý nghĩa duy nhất và trọn vẹn trong dòng lịch sử. Mỗi khoảng khắc thời gian, mỗi khoảng khắc cuộc đời người đều là những biến cố chỉ có một lần, những biến cố độc đáo, không thể tan biến thành hư vô, hoặc trở nên nhàm chán trong vòng luân chuyển lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, vũ trụ chỉ có được trọn vẹn ý nghĩa khi liên kết với con người. Vũ trụ được dưng nên như khung cảnh sống cho của người. Con người được quyền đặt tên cho muôn vật :
“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì : hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế”. (St 2, 19)
            Tuy vậy, nếu như đời sống con người thoát khỏi được quy luật nhàm chán của sự lặp đi lặp lại, thì đời sống ấy lại bị một thứ qui luật khác, qui luật của chính lịch sử, qui luật của sự “trước-sau” chi phối.
            Chiều kích lịch sử trở nên đúng nghĩa hơn hết khi mà chính con người có quyền, một phần nào đó, trong việc quyết định vận mạng của chính mình. Trong dòng lịch sử, con người không còn là chiếc lá bị cuốn trôi trong quy luật tuần hoàn cố định, nhưng có “khả năng bắt đầu”, khả năng khơi lên một tiến trình mới, khả năng theo đuổi một mục đích và hướng tới một cứu cánh. Trong dòng lịch sử, con người chỉ được sống một lần, phải hoàn thành cuộc đời mình, dám lãnh nhận trách nhiệm về mình, và lãnh trách nhiệm về những hệ lụy mình đã làm nên. Ở đây không còn là quy luật tất yếu của một vòng tròn lặp đi lặp lại, mà là quy luật liên lụy của cái trước với cái sau.
            Trong dòng lịch sử ấy, đời sống con người là một dòng sông trôi chảy, cuộn vào trong dòng nước mọi thứ hoa trái và rác rưởi của cuộc đời. Thân xác, và nhất là tâm hồn con người luôn phải mang lấy quá khứ, đảm nhận lịch sử, lãnh đủ những hệ lụy của lỗi lầm. Chuyện của ngày hôm qua đè nặng lên ngày hôm nay; chuyện của năm ngoái vẫn còn gây khó khăn rắc rối cho năm này, những chuyện mình làm cho mình, mình làm cho người khác, và những chuyện người khác làm cho mình… vẫn còn dằn vặt tâm tư, vẫn ràng buộc cuộc sống trong một mớ những “giây mơ rễ má” chằng chịt. Con người muốn từ bỏ tội lỗi, nhưng cứ “bứt giây” thì lại “động rừng”; con người muốn giải quyết mọi “tồn đọng” nhưng quá khứ vẫn cứ rối bời như mớ bòng bong. Con người muốn bước đi vào hành trình mới, nhưng những hệ lụy của vết xe cũ vẫn cứ muốn bẻ quặt hướng đi.
            Sống trong dòng đời, con người như đã bị “dính chàm”, và không còn có thể trở lại sự hồn nhiên, trong sáng và mạnh mẽ được nữa. Con người cần một hứng khởi trẻ thơ để sống cuộc đời như một cuộc chơi, để sáng tạo cuộc đời mình với tất cả sự thanh thản, với tất cả niềm hào hứng và hội hộp như người lần đầu tiên bước vào cuộc chơi. Đã ngụp lặn trong dòng đời, cuộc chơi của đời người không còn “khách quan”, không còn quân bình được nữa. Gánh nặng của quá khứ đè xuống hiện tại. 
            Quả thật, dù thoát khỏi quy luật tuần hoàn của vũ trụ, với “quy luật trước-sau” của lịch sử, con người cũng không dễ dàng gì để có thể đổi mới, để có thể sống thênh thang trong hiện tại. Thật sự con người không thể xóa sạch quá khứ, không thể chối bỏ lịch sử đời mình, không thể trốn thoát quá khứ của mình một cách hèn nhát và cũng không thể ngoảnh mặt đi một cách vô trách nhiệm với những gì mình đã làm.
            Một sự đổi mới đích thực của thân phận con người không phải là chối từ hoàn toàn quá khứ, mà là không để cho quá khứ áp đặt trên cuộc đời mình; không phải là giải quyết một lần cho xong mọi hệ lụy, mà là không để cho hệ lụy của quá khứ như tấm lưới chụp xuống trên đầu mình. Một sự đổi mới thực sự, đó là “cuộn quá khứ lại”, mang vác nó lên vai để bước đi theo lựa chọn mới của mình. Đổi mới là đảm nhận quá khứ một cách chủ động chứ không bị quá khứ xô đẩy; là chấp nhận những hệ lụy của quá khứ, nhưng không bị giam hãm; là lãnh trách nhiệm với quá khứ nhưng vẫn tràn đầy hy vọng và tự do bước tới tương lai.
3. Thiên Chúa là Chúa của lịch sử
            Ở đây, hình như con người lại cần lắm, cần thiết nương vào sự đổi mới của vũ trụ để có được một sự gợi hứng cho khả năng đổi mới chính bản thân mình. Con người cần có một ngày mới, một tuần mới, một tháng mới, một năm mới…. Với một khoảng khắc thời gian mới, con người như bừng tỉnh khả năng bắt đầu của mình, bừng tỉnh một quyền năng đặt tên cho muôn vật.
            Tuy nhiên, sâu xa hơn hết, con người cần một tinh thần mới, một sức sống mới từ bên trong. Mùa xuân của vũ trụ gợi nhớ và mời gọi cho một mùa xuân khác, “Mùa xuân của tinh thần”, “Mùa Xuân Tâm Linh”.
            Đức tin cho chúng ta biết rằng chính vì con người phạm tội, vì cắt đứt mói liên hệ thân tình với Thiên Chúa mà con người không còn làm chủ được vũ trụ nữa, có một sự đảo ngược trật tự thế giới, trong đó, đất đai trổ sinh gai góc như chống lại con người…
“Nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng”. (St 3,177-18)
            Cũng thế, chính vì chối từ cuộc sống thân tình với Thiên Chúa, những thành phần trong bản thân con người không còn thống nhất và vận hành đúng trật tự được nữa.
“Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu : vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm.(Rm 7,15)  
            Để đổi mới, con người cần tìm lại phẩm giá cao quý của mình trong đia vị làm con Thiên Chúa, và nhờ đó mà tìm lại được thế chủ động của mình đối với vũ trụ, tìm lại chức năng “đặt tên cho muôn vật”. Con người cần tìm lại mối tương quan tình nghĩa với Thiên Chúa, để tìm lại được khả năng gán nghĩa cho thế giới. Chỉ trong ơn cứu độ của Thiên Chúa, con người mới tìm lại được sự tự do nội tâm của mình. Tuy quá trình này không còn là một sự hồn nhiên như thuở ban đầu, mà là một quá trình vượt qua, một hành trình lịch sử nặng nề và gian khổ nhưng vẫn là một quá trình đổi mới thực sự. Con người không thể chối bỏ lịch sử của mình; con người thiết yếu phải sống trong thân phận là một hữu thể có sử tính. Điều đó, Thiên Chúa cũng tôn trọng, nhưng Ngài lại có thể làm cho đời sống con người được đổi mới trong một mùa xuân tâm linh phong phú dư dật. Với sức sống của Đấng cứu độ, với sự đồng lao cộng khổ của Ngài, với tình yêu dám liên lụy trong tội của Ngài, con người tìm được Đấng đồng hành để có thể đảm nhận quá khứ và bắt đầu một hành trình mới… Thiên Chúa cứu độ cũng là Thiên Chúa của Mùa Xuân tâm linh.
            Chính trong một kinh nghiệm thuần túy Kitô giáo như thế mà thánh Âutinh mới có thể khám phá ra sự tự do nội tâm, thứ tự do người Hy Lạp chưa biết đến. “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta.” (Gl 5,1)
            Thiên Chúa của Sách Thánh là Thiên Chúa của lịch sử. Thiên Chúa dẫn dắt lịch sử của Dân và làm cho lịch sử ấy biến thành lịch sử ơn cứu độ. Trong kinh nghiệm Kitô giáo, Thiên Chúa không chỉ hiện diện trong một nơi thánh, tách biệt với thế giới, nhưng Thiên Chúa còn hiện diện một cách cụ thể trong hành trình lịch sử của Dân, Thiên Chúa hiện diện trong lời hứa ban cho Abraham một vùng đất “chảy sữa và mật”, trong lời hứa ban cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời, như cát dưới biển; Thiên Chúa hiện diện nơi mà Gia cóp đã đặt tảng đá để ghi dấu; Thiên Chúa hiện diện trong cột lửa soi dẫn nẻo đường cho Dân, trong áng mây, trong mạch nước, trong nhà tạm như một đền thờ lưu động luôn đồng hành với hành trình 40 năm trong sa mạc… Sự hiện diện của Thiên Chúa trong dòng lịch sử giúp cho con người có vững bước trong hành trình cuộc đời trần gian của mình. Hành trình tâm linh Kitô giáo luôn luôn đặt căn bản trên hành trình lịch sử thật của đời sống, trong đó, người tín hữu được mời gọi sống một thứ “giác quan kỷ niệm” nhằm luôn ghi nhớ Thiên Chúa đã từng hiện diện và hành động trong quá khứ của mình, và nhờ đó mà vững bước trong hiện tại và can đảm bước vào tương lai.
            Hơn nữa, trong qui luật trước sau của lịch sử, Thiên Chúa cũng không muốn xoá sạch quá khứ của con người như một phần cơ thể đã bị hư hoại, không thể xử dụng được. Ngược lại quyền năng cứu độ của Thiên Chúa, một Thiên Chúa của lịch sử, biểu hiện trong khả năng biến cái cũ của con người nên “hình tượng” đặc thù của cái mới. Giống như một nghệ nhân, lợi dụng chính những “vết thương” đau xót của một cây kiểng, hoặc của một tảng đá để làm nên một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, Thiên Chúa cũng thường dùng chính quá khứ tội lỗi của con người để đưa con người tội lỗi biết sám hối ấy thành một vị thánh mang hình tượng đặc trưng của Kitô giáo.
            Cuối cùng, trong một sự tự do hoàn toàn, đảm nhận nhưng hoàn toàn thoát khỏi sự ràng buộc của qui luật trước-sau của lịch sử, con người có thể đi vào Mùa Xuân Vĩnh Cửu, nghĩa là sống với Chúa và sống với nhau như một cuộc chơi đích thực, một cuộc chơi luôn luôn mới mẻ,  cuộc chơi đầy sáng tạo và ngẫu hứng, cuộc chơi mà qui luật trước-sau không còn là ràng buộc trì trệ, nhưng là một “tình huống” riêng biệt, độc đáo để hai bên cùng sáng tạo cuộc đời mình như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.

            Là Kitô hữu, chúng ta tin vào Chúa, là Chúa Xuân, là Chúa của lịch sử và là Chúa của bản thân ta. Chính Chúa ban cho ta nguồn sức sống mới. Đức Tin giúp chúng ta nhận ra dấu vết sự hiện diện của Chúa trong quá khứ; đức Tin giúp chúng ta nhìn nhận quá khứ, không phải chỉ như một hệ lụy trả vay của cuộc đời, nhưng như lời mời gọi của Chúa, lời mời gọi sống với Chúa, lời mời gọi để cho Chúa đồng hành với mình. Đức Tin giúp chúng ta nhìn vào quá khứ không phải chỉ như một chuyện thành công hay thất bại của riêng mình, nhưng còn như một bước đường được bảo đảm có Chúa dẫn dắt; bởi vì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Đấng Emmanuel, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. 

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn