là khuôn mặt của lòng thương xót của Chúa Cha.
Lòng Thương Xót đã trở nên sống động và hữu hình
nơi Đức Giêsu thành Nagiarét …
Chúa Cha, “giàu lòng thương xót” (Eph 2: 4),
… vào “thời viên mãn” (Gal 4: 4),
một khi tất cả mọi thứ đã được sắp xếp
theo đúng kế hoạch cứu rỗi của Ngài,
Ngài đã sai Con Một Ngài xuống thế gian,
sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria,
để biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta một cách quyết liệt. Bất cứ ai nhìn thấy Chúa Giêsu cũng là thấy Chúa Cha (x. Ga 14: 9)
Chúa Giêsu thành Nagiarét, qua lời nói, hành động,
và toàn bộ con người của Ngài
đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa.” (MV 1).
Lòng Thương Xót đã trở nên sống động và hữu hình
nơi Đức Giêsu thành Nagiarét …
Chúa Cha, “giàu lòng thương xót” (Eph 2: 4),
… vào “thời viên mãn” (Gal 4: 4),
một khi tất cả mọi thứ đã được sắp xếp
theo đúng kế hoạch cứu rỗi của Ngài,
Ngài đã sai Con Một Ngài xuống thế gian,
sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria,
để biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta một cách quyết liệt. Bất cứ ai nhìn thấy Chúa Giêsu cũng là thấy Chúa Cha (x. Ga 14: 9)
Chúa Giêsu thành Nagiarét, qua lời nói, hành động,
và toàn bộ con người của Ngài
đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa.” (MV 1).
Ts. Giuse Nguyễn Văn Giới, OP.
Khởi đầu sắc chiếu “Misericordiae
vultus - Dung Nhan Lòng Thương Xót”, Đức Giáo hoàng Phanxicô long trọng
giới thiệu “Chúa Giêsu Kitô là dung nhan lòng thương xót của Chúa Cha”[1].
Lòng thương xót ấy của Thiên Chúa không phải là khái niệm trừu tượng và mơ hồ,
cao siêu hoặc quá xa vời khiến con người chẳng sao vươn tới được, nhưng lòng
thương xót của Thiên Chúa đã trở nên sống động và hữu hình nơi Đức Giêsu thành
Nagiarét qua Mầu nhiệm Nhập Thể. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong thông
điệp Dives
in Misericordia – Thiên Chúa giầu lòng thương xót – cũng tuyên bố Đức Giêsu
Kitô là Đấng đã mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa giầu lòng thương xót[2]
và Ngài chính là lòng thương xót Nhập Thể của Thiên Chúa Cha.[3]
Trong bài
chia sẻ này, người viết giới hạn phạm vi tìm hiểu ở bốn mục: 1. Tìm hiểu ý
nghĩa các hạn từ: lòng thương xót của Thiên Chúa và sự nhập thể? 2. Lý do lòng
thương xót của Thiên Chúa nhập thể? 3. Đức Giêsu Kitô, lòng thương xót nhập thể
của Chúa Cha. 4. Chúng ta thể hiện lòng thương xót nhập thể của Thiên Chúa như
thế nào?
1.
Tìm
hiểu các hạn từ
Hạn từ “thương xót” được dịch từ danh từ misericordia trong tiếng Latin, miséricorde trong tiếng Pháp, và Mercy trong tiếng Anh. Tuy nhiên, danh từ misericordia trong tiếng Latin được giải thích theo tầm nguyên của
thánh Augustinô ghép bởi hai hạn từ miserum: thương cảm, đau thương và cor: con tim hay tấm lòng. Thánh Tôma
Aquinô dịch misericordia là sự cảm
thông trước nỗi khổ đau của tha nhân -
compassio super miseria aliena.[5]
Danh từ Misericordia được dịch sang tiếng Việt
bằng nhiều hạn từ khác nhau như: tình
thương trong lời mở đầu thánh vịnh 89: “Tình thương chúa đời đời con ca
tụng”, từ ái như trong Thánh vịnh
130,7: “Bởi Chúa luôn từ ái một niềm”, nhân
hậu như lời cầu nguyện mở đầu Thánh vịnh 51: “Lạy Chúa xin lấy lòng nhân
hậu xót thương con”; hay trắc ẩn như
Phụng vụ ca tụng lòng trắc ẩn của Thiên Chúa qua bài Thánh ca Tin Mừng “Chúc
Tụng Đức Chúa” (Benedictus): “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn” và thương xót như trong Thánh ca Tin Mừng
“Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Đức Chúa” (Magnificat) “Đời nọ đời kia, Chúa hằng
thương xót những ai kính sợ Người”…
Trong
Tiếng Việt, lòng thương xót cũng lột tả được ý nghĩa lòng thương xót của Thiên Chúa. Theo tác giả Lê Gia,
thương nghĩa là đau đớn xót xa (cái thương đã bao hàm cái xót; xót có nghĩa là
mài cọ, gây ra đau đớn: xót xa, xót ruột).[6] Như vậy,
lòng thương xót của Thiên Chúa nghĩa là vì Thiên Chúa thương con người, nên
lòng Chúa mới đau xót. Ngài không chỉ đau nhất thời, nhưng còn xót xa triền
miên. Càng xót xa triền miên thì Lòng Chúa lại càng thương chúng ta.
Trong sắc
chiếu “Dung Nhan Lòng Thương Xót”, Đức Phanxicô đưa ra 4 ý nghĩa của thuật ngữ
“lòng thương xót”:
Lòng Thương Xót chính là hành vi cuối cùng và chung cuộc mà với nó, Thiên
Chúa sẽ gặp gỡ chúng ta. Lòng Thương Xót chính là quy luật nền tảng mà nó được
bảo quản trong con tim của bất cứ một con người nào, và xác định cái nhìn khi
một người nhìn ngắm một cách chân thành đối với người anh em và chị em của
mình, tức những người mà họ gặp gỡ trên hành trình cuộc sống. Lòng Thương Xót
chính là con đường mà nó gắn kết Thiên Chúa và con người lại với nhau, vì Lòng
Thương Xót mở con tim ra cho niềm hy vọng trước việc chúng ta sẽ vẫn được yêu
thương mãi mãi, bất chấp sự giới hạn vì tội lỗi của chúng ta [MV 2].
b. Nhập Thể
Hạn từ “Nhập Thể”, trong tiếng
Việt, được dịch từ incarnatio trong
tiếng Latin: sự mặc lấy xác thịt, sự nhập thể. Trong tiếng Pháp, và tiếng Anh,
danh từ incarnation cũng mang nghĩa
là sự nhập thể, sự hiện thân của thần thánh. Theo thánh Gioan, danh từ incarnatio diễn tả Mầu Nhiệm Con Thiên
Chúa xuống thế làm người “Lời đã trở thành người phàm”.[7]
Nhập Thể, theo Giáo lý Hội thánh Công giáo, là sự kiện Con Thiên Chúa mang lấy
một bản tính nhân loại để thực hiện trong bản tính ấy việc cứu độ chúng ta. [8]
Tuy nhiên, nếu cứ xét trên mặt từ
ngữ, thì ta còn gặp phải khó khăn. Theo nghĩa thông thường, “nhập” là tình
trạng một vị thần nào đó nhập vào một người hay một thực tại, mang tính tạm
thời, và có khoảng cách về hữu thể vì “khắc nhập” thì phải “khắc xuất”. Nó
không thể diễn tả đúng Mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người vì trong mầu nhiệm
này, giữa Giêsu Nazareth và Con Thiên Chúa không còn một
khoảng cách hữu thể nào nữa: Con Thiên Chúa đã trở nên Giêsu Nazareth và Giêsu Nazareth
là Con Thiên Chúa. Nói
theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, Đức Giêsu, Đấng vừa là con của Dân Người, sinh
từ dòng giống Đavit theo xác phàm, vừa là Con
Thiên Chúa, nhờ Thánh Thần.[9]
Công đồng Chalcédon (451) tuyên tín Đức Giêsu có nhân tính nguyên vẹn và
trọn vẹn thần tính.
2. Lý
do lòng thương xót của
Thiên Chúa nhập thể?
Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta
biết “Misericodia” là một đặc tính
của Thiên Chúa[10], biểu
lộ bản tính của Thiên Chúa và là ưu phẩm tuyệt vời nhất của Ngài.[11]
Nói khác đi, Cựu Ước đã tuyên xưng “lòng
thương xót của Thiên Chúa bao trùm mặt đất” (Misericodia Domini plena est terra : Tv 33,5; 119,64). Và đến “thời viên mãn”,[12]
lòng thương xót của Thiên Chúa cụ thể hóa qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài
xuống thế gian, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài cho
chúng ta một cách quyết liệt. Như thế, lòng thương xót của Thiên Chúa Nhập Thể là vì yêu
thương con người. Loài người chúng ta sa
đoạ và phải chết vì tội lỗi, vì đã đánh mất sự tương giao nghĩa thiết với Thiên
Chúa. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc loài người, và Ngài đã biểu lộ tình
thương đối với chúng ta bằng cách “sai
Con Một đến thế gian để nhờ
Con Một của Người mà chúng ta được sống.”[13]
Thánh
sử Gioan đã xác nhận “Thiên Chúa là Tình Yêu”.[14]
Tình Yêu này trở nên sống động và hữu
hình nơi Đức Giêsu, qua lời nói, việc làm và bản thân Ngài. Nơi Mầu
nhiệm Nhập Thể, chiêm ngắm dung nhan của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá được
rằng, lòng thương xót của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng “vì
loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”; “Lời đã trở thành người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta”[15]
để“những ai đã đón nhận Người,
Người ban cho họ quyền trở thành con Thiên Chúa”[16].
Nói theo ngôn ngữ của Đức HồngY Jorge Mario Bergoglio trong ngày đầu mật nghị
bầu Giáo hoàng tại nhà nguyện Sixtine, Lòng
thương xót“Đây là tên gọi của Thiên Chúa chúng ta. Nếu không có lòng thương
xót, chúng ta sẽ hư mất!”.[17]
3.
Đức Giêsu
Kitô, dung mạo lòng thương xót nhập thể của Chúa Cha
Đọc lại những trang Kinh Thánh Cựu Ước cũng Tân
Ước, chúng ta thấy được lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ và tất cả những nhu cầu của con người suốt chiều dài
lịch sử. Đến thời “viên mãn”, lòng
thương xót của Thiên Chúa mang một khuôn mặt cụ thể, được biểu lộ nơi bản thân
của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập thể. Khởi đi từ nền tảng Kinh Thánh
này, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định ở đầu sắc chiếu Misericordiae vultus rằng Đức Giêsu chính là dung mạo lòng
thương xót nhập thể của Chúa Cha. Nơi Người, lòng thương xót trở nên hữu hình
và sống động vì ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha.[18]
Chúa Giêsu Kitô là khuôn mặt của lòng thương xót
Chúa Cha. Lòng Thương Xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Đức Giêsu thành
Nagiarét, và đạt đến đỉnh cao nơi Ngài. Chúa Cha, “giàu lòng thương xót” (Eph
2: 4), sau khi đã mạc khải danh Ngài với Môisê như là “một Thiên Chúa nhân từ
và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34: 6), đã
không ngừng thể hiện, bằng nhiều cách khác nhau trong suốt lịch sử, bản tính
Thiên Chúa của Ngài. Vào “thời viên mãn” (Gal 4: 4), một khi tất cả mọi thứ đã
được sắp xếp theo đúng kế hoạch cứu rỗi của Ngài, Ngài đã sai Con Một Ngài
xuống thế gian, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài
cho chúng ta một cách quyết liệt. Bất cứ ai nhìn thấy Chúa Giêsu cũng là thấy Chúa
Cha (x. Ga 14: 9) Chúa Giêsu thành Nagiarét, qua lời nói, hành động, và toàn bộ
con người của Ngài đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa [MV 1].
Nói
đến lòng thương xót Nhập Thể của Thiên Chúa, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II,
trong tông huấn Dives In Misericordia minh
định và bình giải rằng Đức Giêsu là Đấng mạc khải Thiên Chúa là Cha, là Tình
Yêu như ngôn ngữ của thánh Gioan diễn tả và là Đấng mặc khải Thiên Chúa là Đấng
giầu lòng thương xót, như ngôn ngữ của Thánh Phaolô.
Đức Kitô mạc khải Thiên Chúa là Cha, là “tình thương”, như Thánh Gioan đã
nói trong thư thứ nhất của ngài ; Người mạc khải Thiên Chúa “giàu lòng thương
xót”, như chúng ta đọc thấy trong Thánh Phaolô. Còn hơn một đề tài giảng dạy,
chân lý này là một thực tại đã được Đức Kitô làm cho hiện diện nơi chúng ta.
Biểu lộ Chúa Cha như tình thương và lòng thương xót đó là, trong ý thức của
chính Đức kitô, diễn đạt chân lý nền tảng của sứ mệnh cứu thế của Người
[DM 3]
Các
sách Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng thương xót của Chúa
Cha, nơi bản thân người cũng như trong lời nói và việc làm; nhất là Tin Mừng
theo Thánh Luca, được mang tên là “Tin Mừng của lòng thương xót”, tất cả những
gì Chúa Giêsu nói, những việc Ngài làm đều là những lời nói và việc làm của
lòng thương xót nơi Chúa Cha. Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu không phải là con
đường dành riêng cho những người ưu tuyển, nhưng là con đường ưu ái dành cho
những người nghèo, những kẻ ốm đau tật nguyền...Khi xuất hiện tại hội đường
Nazaret, Chúa Giêsu đã tuyên bố sứ mệnh của mình là “Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng
mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của
Chúa”.[19] Và “ tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để
kêu gọi người tội lỗi.”[20]
Lòng
thương xót của Chúa Giêsu được thể hiện qua việc Ngài thương dân chúng lầm than
vất vưởng, không người chăn dắt.[21] Không
chỉ thương cảm về tinh thần, mà Người còn chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền
thể xác của dân chúng “Đức Giêsu chữa
nhiều người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người
mù được thấy”. [22] Ngài
còn chạnh lòng thương đám đông vì muôn ngàn lý do và thể hiện lòng thương ấy
qua phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng: Đức Giêsu gọi các môn đệ lại
mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám
đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không
muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường.”[23] Nơi Tin Mừng Luca, lòng thương xót của Thiên Chúa qua
dung mạo Chúa Giêsu được cụ thể hóa cách sống động qua “Ba dụ ngôn về lòng
thương xót của Thiên Chúa”: “Dụ ngôn con chiên bị
mất”[24], “Dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất”[25] và “Dụ ngôn người cha nhân hậu”.[26] Qua ba dụ ngôn này, Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa bày tỏ lòng xót thương
bằng việc Ngài không bao giờ bỏ cuộc và đích thân đi tìm những người lầm lạc
trong đường tội lỗi và vui mừng khi họ ăn năn sám hối trở về. Chúa Giêsu muốn
chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa bằng cuộc đời của Ngài khi đi tìm những
người tội lỗi và giúp họ trở về.
Trong
những dụ ngôn nói về Lòng Thương Xót, Chúa Giêsu đã mạc khải bản tính Thiên Chúa như là bản tính
của một người Cha, mà người Cha này sẽ không bao giờ bỏ cuộc nếu như trước đó
đã không tha thứ hết mọi tội lỗi và vượt lên trên sự khước từ với sự cảm thông
và Lòng Thương Xót. Chúng ta biết về những hình ảnh này từ ba dụ ngôn hoàn toàn
đặc biệt: Dụ ngôn về con chiệc lạc, dụ ngôn về đồng bạc được tái tìm thấy, và
dụ ngôn về người cha với hai đứa con trai của ông (xc. Lc 15,1-32). Trong những
dụ ngôn ấy, niềm vui của người cha trong phút giây tha thứ được nhấn mạnh một
cách đặc biệt. Trong những dụ ngôn này, chúng ta thấy được điều cốt lõi của Tin
Mừng và của Đức Tin chúng ta, vì Lòng Thương Xót được giới thiệu như là sức
mạnh vượt thắng tất cả, sức mạnh ấy lấp đầy con tim với niềm vui và sự ủi an
thông qua sự tha thứ [MV 9].
Trong
các thư của thánh Phaolô, Đức Giêsu Kitô mạc khải
Thiên Chúa “giàu lòng thương xót”:“Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta,5 nên dầu
chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức
Ki-tô.”[27] và “Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên
Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an”[28]
Thánh nhân đề cập đến lòng thương xót của
Thiên Chúa trong bối cảnh loài người còn ở trong tình trạng tội lỗi, thì Thiên
Chúa thi ân giáng phúc, ban ơn giao hòa nhờ Đức Giêsu. Đặc biệt là qua thập giá
và sự phục sinh của Người, nhân loại được phục hồi sự sống và trở nên nghĩa tử
của Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô là sự sung mãn của mạc khải về Thiên Chúa. Chính nhờ
mạc khải trong Đức Giêsu Kitô mà chúng ta mới có thể biết được mầu nhiệm thâm sâu ở
nơi Thiên Chúa đến nỗi như thánh Gioan diễn tả “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
[29]
4.
Chúng ta
thể hiện lòng thương xót nhập thể của Thiên Chúa như thế nào?
Đức
Phanxicô, trong sắc chiếu Misericordiae vultus, số 9, khẳng định: “Nếu như Thiên Chúa là Đấng Thương Xót thì chúng ta cũng được kêu gọi để
xót thương nhau.” Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông
điệp Giàu Lòng Thương Xót, số 14,
cũng quả quyết: “Đức Giêsu Kitô đã dạy
chúng ta rằng con người không những lãnh nhận và cảm nghiệm lòng thương xót của
Thiên Chúa, mà còn được kêu gọi “có hành động thương xót” đối với kẻ khác.”
Như
vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng
đồng thời cũng phải thể hiện lòng thương xót ấy đối với tha nhân. Trong Tin
Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em
là Đấng nhân từ.”[30]
Thương xót kẻ khác là mối phúc trung tâm của Bản Hiến Chương Nước Trời “Phúc
thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”[31]. Cuối cùng, lòng thương xót là
tiêu chuẩn để phán xét vào ngày cánh chung.[32]
Trong buổi Kinh Truyền Tin,
17.3.2013, tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Phanxicô quảng diễn:
Từ lâu Giáo hội đã
nói nhiều đến “việc làm của lòng thương xót”. Chữ nghĩa có thể mòn, nhưng lòng
thương xót nói lên một cái gì rất cụ thể: cho người đói ăn, cho người khát
uống, cho người trần truồng có áo mặc, đón nhận người khách lạ, người hành
hương, người đang thiếu thốn, đi thăm người bệnh, loan báo Tin Mừng cho người
bị tù tội, chôn kẻ chết…
Quả thực, Truyền thống Kitô giáo từ
thời Trung cổ quen tóm các hành động cụ thể giúp đỡ tha nhân vào “14 mối thương
người” mà ngày nay Giáo hội vẫn giữ để dạy các tín hữu thể hiện lòng thương xót
với tha nhân. Trong “14 Mối Thương Người” này có 7 mối thương xác, nghĩa là xét
về thân thể, con người cần được giúp đỡ về các nhu cầu luôn cần thiết: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách
rưới ăn mặc, viếng kẻ tù đầy, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ
chết; và 7 mối thương hồn: lấy lời
lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha
kẻ để ta nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Thánh Tôma Aquinô
khẳng định rằng “14 Mối Thương Người” đã bao trùm tất cả mọi nhu cầu tinh thần
và thể chất của con người rồi.[33]
Sống và làm chứng cho lòng thương
xót của Thiên Chúa nhập thể là sứ mạng của Giáo hội, cũng chính là ơn gọi và sứ
mạng của mỗi người tín hữu chúng ta trong một thế giới tục hóa[34]
mà nói theo ngôn ngữ của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II:
Tâm lý của con người thời nay có vẻ như đang muốn chống lại một Thiên
Chúa giầu lòng Thương Xót hơn là trong quá khứ, và có khuynh hướng muốn gạt bỏ
ý tưởng về Lòng Thương Xót ra khỏi cuộc sống và ra khỏi con tim.” [MV 11].
Bàn về
lòng thương xót, Hồng y Kasper nhấn mạnh:
Ngày nay các chữ trắc ẩn và thương xót gần như lỗi thời, thực tế và
thái độ ứng xử của người bây giờ không còn nói lên tinh thần này. Bây giờ người
ta gọi trắc ẩn là có thiện cảm, đây là danh từ dùng trong tâm lý học, trong
ngành tâm lý trị liệu hiện đại, trong giáo dục, trong xã hội học và trong mục
vụ theo kiểu biến hóa quan trọng này.
Như vậy, khi chúng ta sống theo
gương Chúa Giêsu là Đấng giầu lòng thương xót trong thế giới mà chúng ta đang
sống, là lúc chúng ta đem đến cho thế giới này sự bình an, hạnh phúc đích thật và trở nên công
chính hơn, nói như Đức Giáo hoàng Phanxicô: “một
chút lòng thương xót sẽ làm cho thế giới ít lạnh lùng hơn và công chính hơn.”[35]
Tạm kết
Lòng
thương xót của Thiên Chúa là “mầu nhiệm Thiên Chúa tình thương”. Mầu nhiệm này không phải là con đường huyền
bí mà ta không thể khám phá, không thể đụng tới, nhưng chính là con đường để
Thiên Chúa sẽ gặp gỡ con người, là con đường gắn kết Thiên Chúa và con người lại với nhau, ngang qua chủ thể sống động
và hữu hình là Đức Giêsu thành Nagiarét. Nói cách khác, lòng thương xót đầy
nhân hậu của Thiên Chúa Cha được biểu lộ nơi Đức Giêsu thành Nagiarét, qua lời
nói, qua hành động, và qua toàn bộ con người của Ngài. Như trong Tin Mừng thuật
lại, tất cả các lời nói, cử chỉ và hành động của Chúa Giêsu đối với các
tội nhân, người nghèo, kẻ cô thế cô thân, những người bị đẩy ra bên lề, các
bệnh nhân và những người đau khổ đều được thúc đẩy bởi lòng thương xót của
Thiên Chúa.
Quả
vậy, Con Thiên Chúa đã làm người sống giữa nhân loại. Nhờ mầu
nhiệm Nhập thể, loài người được giao hoà với Thiên Chúa, và mọi người trong thế
giới được giao hoà với nhau. “Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự trở thành
Đấng mà chúng ta kêu gọi. Nơi Ngài, Thiên Chúa mãi mãi đi vào trong cuộc sống
của chúng ta.” [36]Qua Đức Giêsu, Chúa đang ở đây, ở
giữa chúng ta và trở nên gần gũi với con người “Ai thấy Thầy là thấy Cha”[37]
Qua Đức Giêsu và nhờ Người, chúng ta có thể thân thưa với Chúa Cha như người
con thảo tâm sự với cha hiền “Abba! Cha ơi!”.
[1] Xc. ĐGH Phanxicô, Sắc chiếu Dung Nhan Lòng Thương Xót, số 1.
[4] X. Phan Tấn Thành, “LÒNG THƯƠNG XÓT: Kinh
Thánh và Thần học”, Thời sự thần học, số 71 (Tháng 02/2016),
trang 11-44.
[5] ST II-II, q.30, a.1.
[6] Lê Gia, Tiếng nói nôm na, Nxb:Tp. HCM, 1999.
[7] Ga 1,14.
[8] X. GLHTCG, số 461.
[9] Rm 1,3-4.
[10] Trong bản Kinh Thánh LXX , danh từ “éleos”
và những từ có liên hệ được áp dụng 236 lần cho Thiên Chúa.
[11] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp “Dives in Mesirecordia”, Thiên
Chúa giầu lòng thương xót, 30-11-1980, số 13.
[13] 1Ga
4,9; Ga 3,16.
[18] Ga
14,9.
[21]Mt 9, 36
[27] Ep 2,4.
[28] 2cr 1,3.
[29] Ga 14,9.
[30] X. Lc 6,36.
[31] X. Mt 5,7
[32] X. Mt 25,31-46.
[33] Xc. ST II-II, q.32, a.2.
[34] Pl 3,18-19
[35] Giáo hoàng Phanxicô, Lòng thương xót là gì? Nguyễn Tùng Lâm chuyển ngữ, Kinh Kinh Truyền
Tin, Thứ Bảy, ngày 17 tháng 3 năm 2013.
[36]Xc. Hồng Y Ratzinger, Đức Tin Kitô giáo, hôm qua, và hôm nay, tr.136.
[37] Ga 14,9
Đăng nhận xét