Tại tòa
án phong thánh,
những công việc mà Têrêxa đã làm
cũng chỉ vỏn vẹn trong một trang giấy,
và chỉ là những việc rất tầm thường:
coi phòng khách, phòng ăn, nhà giặt và giữ cửa.
Việc đáng kể nhất của ngài cũng chỉ là
phụ tá trông coi ba hay bốn Tập sinh.
“Thánh Têrêxa đã đến, đã sống, đã đau yếu và đã chết,”
như một chị trong đan viện Lisieux nhận xét,
ngoài ra, ngài có làm gì khác thường đâu!
những công việc mà Têrêxa đã làm
cũng chỉ vỏn vẹn trong một trang giấy,
và chỉ là những việc rất tầm thường:
coi phòng khách, phòng ăn, nhà giặt và giữ cửa.
Việc đáng kể nhất của ngài cũng chỉ là
phụ tá trông coi ba hay bốn Tập sinh.
“Thánh Têrêxa đã đến, đã sống, đã đau yếu và đã chết,”
như một chị trong đan viện Lisieux nhận xét,
ngoài ra, ngài có làm gì khác thường đâu!
Hữu Phúc, OP.
“Xuân Xuân ơi ! Xuân đã về,
Có nỗi vui nào vui hơn ngày Xuân đến.” [1]
Nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện đã thốt lên những lời đầy
hứng khởi như vậy khi mùa Xuân về. Quả thật, Xuân về mang lại cho muôn loài,
muôn vật một sắc màu mới, một không khí mới thật tưng bừng và rộn rã: cây cối
đâm chồi nảy lộc, chim chóc hót ca, nắng xuân ấm áp, gió xuân nhẹ nhàng. Con
người cũng vậy. Ai cũng rực rỡ hơn, xinh tươi hơn trong ngày Xuân. Có thể nói,
mùa Xuân đã mang
lại một sức sống mới cho mọi vật, mọi loài, mọi người, mọi thực tại trong cuộc
đời.
Giáo Hội là một thực tại và Giáo hội cũng có những
mùa Xuân của riêng mình. Những mùa Xuân này đã mang lại cho Giáo hội những vận
hội mới và diện mạo mới đầy sức sống. Đó là mùa Xuân năm 33 khi Chúa Giêsu sai
các Tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng - là ngày khai sinh của Giáo hội; là mùa
Muân năm 323 khi hoàng đế Constantine cho phép Đạo Chúa được tự do hoạt động,
mở ra một thời kỳ mới - thời kỳ công khai và phát triển; là mùa Xuân của những
năm 1209 và 1216 khi hai thánh Phanxicô Átxidi và Đaminh lập hai Dòng tu lớn
đưa Giáo hội ra khỏi tình trạng xa hoa, suy đồi để trở về với tinh thần nghèo
khó và dấn thân Tin mừng; và gần đây là mùa Xuân năm 1898 khi cuốn Truyện Một
Tâm Hồn của thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu được xuất bản lần đầu tiên, đã đưa con
người ra khỏi những ảnh hưởng sai lạc
của phái Jansen coi Thiên Chúa là một vị quan tòa công thẳng và nghiêm khắc để
trở về với một vị Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương, đồng thời cũng khơi
lên một lòng mộ mến đời sống thánh hiến lớn lao và ước ao sống một cuộc đời
thánh thiện nơi các tín hữu[2], đến
nỗi Đức giáo hoàng Piô XI đã gọi thánh nhân là
người mang mùa xuân đến cho Giáo hội, là ngôi sao
lớn nhất trong
triều đại giáo hoàng của ngài,[3] còn
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã âu yếm gọi Ngài là vị thánh lớn nhất của thế
kỷ 20.
Trong bài viết này,
chúng ta cùng tìm hiểu về mùa Xuân này – mùa Xuân Têrêxa Hài đồng Giêsu - qua
Con đường thơ ấu thiêng liêng của Ngài.
I. MỘT CON ĐƯỜNG TU ĐỨC MỚI LẠ
Từ xưa tới nay, người
ta thường quan niệm rằng thánh nhân phải là một con người phi thường, một con
người thực hiện được những gì vĩ đại và lớn lao: thánh Phaolô đi khắp đế quốc
Rôma để loan báo Tin mừng, thánh Thomas Aquino viết những tác phẩm đồ sộ để ca
tụng tình yêu Thiên Chúa, thánh Maria Goretti thà chết còn hơn là làm mất lòng
Chúa,… Có thể nói, các thánh đều là những con người vĩ đại và làm được những
công việc phi thường.
Thánh Têrêxa Hài đồng
Giêsu thì không như vậy. Ngài chỉ là một chị nữ tu dòng Kín suốt ngày giam mình
trong bốn bức tường đan viện và chỉ làm những công việc rất tầm thường trong
cộng đoàn như thêu thùa, may vá, bếp núc.... Thế nhưng, nhờ thực hành Con đường
thơ ấu thiêng liêng mà ngài đã đạt đến đỉnh trọn lành, đã nên thánh và ngày
nay, hàng triệu người vẫn tiếp bước theo ngài trên Con đường bé nhỏ để sống
thánh và nên thánh. Vậy đâu là những nét nổi bật trên Con đường thơ ấu thiêng
liêng của thánh Têrêxa và cũng là nét mới lạ trong “mùa Xuân” này?
1. Không có những việc hãm mình khác thường
Nhiều người vẫn có ý
nghĩ sai lầm rằng muốn đạt tới đỉnh cao thánh thiện thì cần phải có những việc
hãm mình và hành xác phi thường. Theo họ, đấng thánh là người không ăn, không
uống, không ngủ; là người làm kiệt quệ sức khỏe bằng những đêm thức trắng, và
đủ mọi thứ hành xác khác, là người “bắt thân xác làm nô lệ để phục vụ cho sự
sống của linh hồn”. [4]
Thánh Têrêxa khi vào
Dòng Cát minh cũng mong ước thực hiện những việc hãm mình này. Không thỏa lòng
với những công việc khổ hạnh theo luật định mà lắm khi vì thực hiện mà ngài đã
đổ cả máu ra, ngài còn luôn mang trên ngực một thánh giá có mũi kim nhọn. Thế
nhưng vì không chịu nổi, ngài ngã bệnh sớm. Khi đó, ngài nhận ra rằng những
việc hành xác quá mạnh không dành cho mình. Thế rồi, trong kinh nghiệm và trong
chính sự bất lực của mình, thánh nữ đã khôn ngoan nhìn thấy Thiên ý quan phòng
muốn dẫn đưa mình đến sự thánh thiện theo một con đường khác. Ngài nói với chị
mình:
“Ma quỷ thường hay đánh
lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái
quá, vừa làm hại sức khỏe, vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận được, đồng
thời lại lấy đó làm tự mãn.”[5]
Vì thế, ngài đã bỏ
không thực hành những kiểu hãm mình khắc nghiệt đó.
Tuy nhiên, ta chớ nghĩ
rằng việc hy sinh, hãm mình không cần thiết đối với những ai muốn nên thánh
bằng Con đường thơ ấu. Trái lại, việc từ bỏ mình hoàn toàn ngay cả trong những
việc nhỏ nhặt là điều tuyệt đối cần thiết cho mọi người bước theo đường thơ ấu
thiêng liêng. Những việc hãm mình thông thường này sẽ thay thế cho những việc
hãm mình hành xác phi thường kia. Thánh Têrêxa đã diễn tả điều đó như sau:
“Ai
không có gan đóng đinh mình vào thập giá Chúa Kitô bằng những chiếc đinh lớn
thì phải chịu một cuộc tử đạo bằng những chiếc ghim nhỏ, nếu không sẽ không thể
kết hiệp với Chúa Giêsu cách trọn vẹn được.”[6]
Hơn nữa, ngài vẫn xác
tín điều Chúa Giêsu đã nói: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở” (Ga 14,2) nghĩa là có chỗ cho
những linh hồn quả cảm, có chỗ cho các vị tu hành, có chỗ cho các vị tử đạo thì
chắc hẳn cũng có chỗ cho những linh hồn bé mọn như ngài. Thế nên, thánh nhân đã
kiên trì thực hiện sự từ bỏ chính mình trong suốt cuộc đời một cách anh hùng.
Ngài viết:
“Tôi là người hiệp sĩ
mang khí giới. Tôi xông vào cuộc chiến chống lại bản thân mình trong phạm vi
thiêng liêng bằng sự từ bỏ và những việc hi sinh kín đáo. Và tôi đã tìm thấy
bình an và đức khiêm nhường trong cuộc chiến đấu không tên tuổi ấy.”[7]
Giáo hội đã phong thánh
cho ngài, nghĩa là Giáo hội đã chính thức thừa nhận tính đúng đắn trong giáo
thuyết và đường lối của ngài. Hơn nữa, qua việc tuyên phong ngài là Tiến sĩ Hội
thánh, Giáo hội đã mặc nhiên bảo đảm lối sống khổ hạnh mới mẻ gồm những việc hi
sinh nhỏ mọn này cũng là con đường nên thánh đích thực, không kém những con
đương khổ hạnh phi thường khác.
2. Không có những đặc sủng siêu nhiên
Một điều khác cũng rất
mới lạ trong con đường thơ ấu thiêng liêng là không có những đặc sủng siêu
nhiên. Trong hạnh các thánh, ta thấy các thánh được mô tả có rất nhiều đặc ân:
xuất thần, thị kiến, mạc khải, in dấu thánh, chữa bệnh, trừ quỷ… Thế nhưng nơi
thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu hầu như không có những đặc sủng này (trừ một số ơn
lạ mà ngài được lãnh nhận như được Đức Mẹ hiện ra chữa bệnh, được thấy trước
cơn bệnh của người cha già,…).
Trong cuộc đời ngài, ta
thấy dường như thánh nhân cũng không hề đề cập đến việc khao khát xin Chúa ban
cho những đặc ân này. Đời sống của thánh nữ rất đơn sơ, bình thường như bao
người, đến độ các chị em trong tu viện cũng không nhận ra sự thánh thiện của
ngài. Vì sao vậy? Chẳng phải thánh Terêxa Avilla, đấng sáng lập dòng Cát Minh,
cũng đã từng được rất nhiều những đặc ân này như được ơn xuất thần ở mọi nơi:
lúc hát kinh, tại phòng khách, trong nhà hội với chị em,… Thánh Têrêxa Hài đồng
Giêsu thì không như vậy vì Thiên Chúa, Đấng tiền định cho ngài nên gương mẫu
cho thế gian về sự đơn sơ nhỏ bé, đã muốn đưa thánh nữ về với Ngài bằng một con
đường hoàn toàn thông thường và phù hợp với mọi người. Quả thật, Chúa Thánh
Thần hoàn toàn tự do khi ban những đặc sủng siêu nhiên của Ngài cho những ai
theo đuổi con đường trọn lành, nhưng các ơn ấy không bắt buộc phải có để sống
đầy đủ và đạt tới đỉnh cao thánh thiện bằng Con đường thơ ấu thiêng liêng mà
thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu là một mẫu gương điển hình. Cuộc đời của thánh nữ
diễn ra rất đơn sơ và bình thường. Ngài chỉ nổi danh sau khi qua đời và khi tác
phẩm Truyện Một Tâm Hồn của ngài được xuất bản.
3. Không có phương pháp cầu nguyện
Một đặc điểm mới lạ
khác trong Con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu là
không có một phương pháp cầu nguyện rõ ràng gồm có bao nhiêu bước, bao nhiêu
giai đoạn, và trong mỗi giai đọan phải làm những gì như của thánh Têrêxa Avilla
hay thánh Inhaxio Loyola. Đối với tinh thần thơ ấu, việc hệ thống hóa đời sống
tâm linh hoặc đòi buộc một phương pháp khắt khe về bất cứ phương diện nào là
điều hoàn toàn không phù hợp, nhất là việc cầu nguyện phải được thực hiện một
cách tự nhiên như sự hô hấp của tình yêu, của lòng mến, như một công việc tự
phát đơn sơ và chân thành.[8]
Ngay từ thời thơ ấu khi
đi dạo với ba trong vườn, thánh Têrêxa đã biết tìm những nơi thanh vắng để
hướng lòng về Chúa. Ngài viết: “Bấy giờ tư tưởng con trở nên thâm trầm, mặc
dù chưa biết nguyện ngắm là gì, linh hồn con cũng đã chìm đắm trong sự cầu
nguyện thực sự.”[9] Ngài
còn nói thêm: “Tôi làm như một đứa bé không biết đọc. Tôi nói với Chúa cách
đơn sơ điều tôi muốn nói với Người và Người nghe tôi.” Đó cũng chính là
cách tiếp xúc tự nhiên và thân mật của đứa con nhỏ nói với người cha yêu dấu
của mình.
Thế nhưng, chúng ta hãy
cẩn thận những hình thức đơn giản thái quá vì chúng dễ làm ta trở nên dễ dãi và
hời hợt. Thánh nữ nhấn mạnh việc cầu nguyện phải phát xuất từ lòng mến thiết
tha với Thiên Chúa:
“Cầu nguyện là một cơn
lòng sốt sắng, một cái nhìn thẳng lên trời, một tiếng thờ than của lòng tri ân
và trìu mến giữa cơn thử thách gian nan cũng như lúc tràn ngập niềm vui sướng;
là một việc cao cả, siêu nhiên, mở rộng tâm hồn để được kết hiệp với Chúa cách chí
thiết.”
Hơn nữa, Phúc âm chính
là linh hồn của đời sống cầu nguyện như ngài đã viết: “Tôi rất thích nguyện
ngắm theo Phúc âm. Nơi đó, linh hồn này kín múc được mọi ơn lành cần thiết.”[10]
4.
Không có những công
việc nổi tiếng
Một
đặc điểm lớn khác để xác định Con đường thơ ấu thiêng liêng là việc không có
những công việc hiển hách, không có những công trình vĩ đại. Ta thấy các thánh
thời xưa thường có những công trình thật vĩ đại: thánh Phanxicô Xaviê đã đi đến
tận miền châu Á xa xôi để loan báo Tin mừng, thánh Augustino đã viết hàng trăm
tác phẩm các loại,… Có thể nói, cuộc đời các thánh luôn gắn liền với những công
việc lớn lao, vĩ đại.
Trái lại, thánh Têrêxa
Hài đồng Giêsu thì không có những điều này. Tại tòa án phong thánh, những công
việc mà ngài đã làm cũng chỉ vỏn vẹn trong một trang giấy, và chỉ là những việc
rất tầm thường: coi phòng khách, phòng ăn, nhà giặt và giữ cửa. Việc đáng kể
nhất của ngài cũng chỉ là phụ tá trông coi ba hay bốn Tập sinh. “Thánh
Têrêxa đã đến, đã sống, đã đau yếu và đã chết” [11]
như một chị trong đan viện Lisieux nhận xét, ngoài ra, ngài có làm gì khác
thường đâu!
Thế nhưng qua ngài,
“Thiên Chúa muốn nhắc
cho thế giới đầy hám danh hám lợi ngày nay rằng: Sự cao thượng đích thực không
cốt hệ tại vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng cốt tại lòng trung tín và sốt mến khi
thực hiện công việc, kể cả những việc thậm
chí rất nhỏ bé và tầm thường”.[12]
Thánh
nữ viết cho chị Marie của mình như sau: các công trình vĩ đại đều đã bị cấm đối
với em (vì là một nữ tu dòng Kín): em không thể rao giảng Tin mừng, không thể
đổ máu đào… Nhưng có hề gì, các anh chị vĩ đại - các thánh - đã làm thay cho em
những điều đó. Còn em chỉ là con nít, chỉ là đứa bé đứng sát bên ngai Thiên
Chúa để yêu mến thay cho các ngài đang giao tranh ngoài chiến trận[13].
Thế nhưng, là một linh hồn bé nhỏ, là một đứa bé thì em có thể làm gì để tỏ
lòng yêu mến của mình? Em chỉ có thể biểu lộ tình yêu qua việc dâng lên Chúa
những đóa hoa nhỏ bé của mình, đó là: không bỏ qua một việc hi sinh nào dù nhỏ
nhất, không một cái nhìn, một lời nói xúc phạm, nhưng lợi dụng tất cả để yêu
mến và làm tất cả vì tình yêu.
Có thể nói, cả cuộc đời
thánh nhân chẳng có một công trình nổi tiếng đáng nhớ nào. Cuộc sống ngài quá
bình thường và âm thầm, đến nỗi ngay cả khi cha Thomas Nimmo Taylor đến tu viện
vào năm 1903 gặp Mẹ bề trên Marie de Gonzague để xin phong thánh cho ngài thì
mẹ rất do dự và cho rằng nếu phong thánh cho Têrêxa thì còn có bao nhiêu nữ tu
nữa cũng sẽ phải được phong thánh.[14] “Cơn bão táp vinh quang”chỉ
thực sự bùng lên khi các tác phẩm của ngài được xuất bản và các phép lạ được
công bố ngày càng nhiều sau này.
Như vậy, qua phần trình bày trên, ta thấy con đường thơ ấu thiêng liêng
dường như đã bỏ qua hết những điều thường có trong việc nên thánh: không có
những việc phạt xác lạ thường, không có những đặc ân kỳ lạ, không có phương
pháp cầu nguyện rõ ràng và cũng không có những công trình hiển hách. Đây quả là
cách thức nên thánh mới mẻ và lạ lùng. Vậy đâu là những nét nổi bật của con
đường này?
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT
Con đường thơ ấu thiêng
liêng là con đường nên thánh, là cách thức thánh hóa bản thân của thánh Têrêxa
Hài đồng Giêsu. Ngài nhìn mình như một trẻ thơ bé bỏng, yếu đuối và bất lực;
đồng thời hướng lên Thiên Chúa như người cha nhân hậu từ bi và giàu lòng xót
thương. Từ cái nhìn này, ngài đã sống triệt để tinh thần đơn sơ, tin tưởng, phó
thác và yêu mến hết lòng trong tình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa là
Cha.
1.
Đơn sơ và giản dị
Đơn sơ là một đức tính
quý báu trong bước đường thơ ấu thiêng liêng của thánh Têrêxa. Ngài giải thích sự
đơn sơ như sau: “Có sao sống vậy và hướng thẳng về Chúa, đừng gắng sức quá
độ và đừng tỏ vẻ kiểu cách. Đối với những tâm hồn đơn sơ không cần có những
phương thế phức tạp.” [15] Một linh mục nọ cố
gắng thuyết phục Đức Piô X rằng trong đời sống của thánh nhân không có gì khác
thường cả. Đức Thánh Cha đã nhanh nhẹn trả lời: Cái khác thường của tâm hồn ấy,
chắc chắn là tính đơn sơ tột bậc.[16] Với
tâm hồn đơn sơ tột bậc đó, ngài bày tỏ: “Trên đường thơ bé của tôi chỉ có
những việc rất tầm thường. Tôi làm các công việc mà các tâm hồn thơ bé có thể
làm.” [17]
Thánh nữ không thích
những gì cầu kỳ, phức tạp và kiểu cách. Nếp sống của ngài luôn ánh lên sự trong
sáng, thành thực và tự nhiên. Quả thật, ngài ăn nói và tiếp xúc với mọi người
rất đơn sơ và giản dị. Cha M. Philipon. OP, một thần học gia nổi tiếng, khi
nghiên cứu cuộc đời của thánh nhân đã phải thốt lên: “Trong cuộc đời của
ngài, tính đơn sơ là cả một khoản luật.”[18]
Một ngày kia, ngài bị bệnh nằm ở Nhà liệt. Người ta xin ngài giải thích đôi
điều về tình trạng của mình cho bác sĩ, ngài trả lời: “Ôi thưa Mẹ, con không
làm cách đó. Con chỉ thích đơn sơ. Nếu làm ngược lại, con kinh sợ lắm.”[19] Vì vậy, đa số chị
em trong Dòng không hề biết đến sự anh hùng của ngài trên đường nhân đức. Sau
này, mẹ Agnes đã thú nhận như sau: “Không bao giờ tôi có thể đoán được rằng
một ngày kia có vấn đề phong thánh cho một chị dòng sống quá bình thường như
vậy.” [20]
Cuộc đời thánh Têrêxa
là như vậy đó: đơn sơ đến độ tầm thường không ai nhận ra. Đó là một vị đại
thánh mà chỉ sau khi chết, người ta mới thấy được chí khí anh hùng của ngài qua
bao phép lạ cả thể khiến cả thế giới phải ngạc nhiên và thán phục.
2. Nhỏ bé, khiêm nhường nhận mình là hư vô trước mặt Chúa
Khiêm nhường là nền
tảng của sự thánh thiện. Tất cả các thánh đều đề cao đức khiêm nhường vì nhân
đức này giúp các ngài nhận thức rõ tương quan với Thiên Chúa, đó là: Người là
Đấng hằng hữu, còn ta là hư không. Nhờ vậy, các ngài có một lối sống và một cái
nhìn đúng đắn, đó là tin tưởng và phó thác mọi sự trong cánh tay quan phòng của
Thiên Chúa, để rồi từ đó cầu xin ơn Chúa nâng đỡ mình vì: Không có Chúa thì các
ngài chẳng làm gì được (Ga 15,15).
Thánh Têrêxa cũng vậy.
Ngài cũng rất đề cao đức khiêm nhường. Thế nhưng trong Con đường thơ ấu, khiêm
nhường còn có nghĩa là một cái nhìn đầy khiêm nhu và yêu mến của một đứa con
nhỏ yếu đuối hướng lên người cha yêu dấu của nó và chờ đợi mọi sự nơi người.
Ngài viết khiêm nhường là: “nhìn nhận sự hư vô của mình và chờ đợi tất cả từ
Thiên Chúa, như một đứa trẻ chờ đợi tất cả từ tay cha nó, không lo lắng gì,
cũng không thu tích gì hết.”[21]
Chính thánh nhân đã gải
thích rằng:
“Trong các gia đình
nghèo, người ta cũng phải lo cho đứa nhỏ những gì nó cần thiết. Nhưng khi nó
vừa lớn lên, cha nó không muốn nuôi nữa nên bảo nó: ‘Bây giờ con phải làm việc
vì con lớn đủ để tự mưu sống.’ Chính để khỏi phải nghe câu nói đó mà tôi đã
không muốn mình lớn lên, vì tôi thấy tôi không thể tự mình sinh sống, nghĩa là
không thể tự mình đạt được Nước trời. Vì thế, tôi luôn ở nhỏ bé.”[22]
Quả là một sự khiêm
nhường lớn lao vì một người đạo đức và thánh thiện như thế vẫn ý thức rõ rằng
mọi sự tốt đẹp kia đều nhờ bởi Thiên Chúa mà có chứ không phải do công sức của
mình: “Tất cả những gì tốt lành nơi con đều do lòng nhân từ của Chúa.” [23]
Vì vậy suốt cả cuộc đời
mình, ngài luôn sống trong tâm tình của một đứa con thơ bé bỏng trong vòng tay
yêu thương của người Cha. Để củng cố thêm cho niềm xác tín của mình, hằng ngày
ngài vẫn suy niệm Kinh Lạy Cha và cất tiếng gọi “Ápba” - Cha ơi! một cách thật
hồn nhiên và âu yếm. Trong mọi sự, ngài luôn hướng về Cha. Ngài viết: “Khi
rước lễ, tôi cứ tưởng tượng linh hồn tôi như một đứa trẻ ba bốn tuổi.”[24] Thậm chí, ngay khi
sắp về trời sau một cuộc đời đầy những hi sinh cố gắng, ngài cũng chỉ nói rằng:
“Trong chiều tàn của đời này, con sẽ đến
trước mặt Chúa với hai bàn tay trắng vì con chẳng có công nghiệp gì.”[25]
Quả thật, khiêm nhường
tận cùng trong mối tương quan với Thiên Chúa luôn là nét nổi bật trong tâm hồn
và lối sống của thánh nữ. Hơn nữa, theo thánh nữ, khiêm nhường còn có nghĩa là
không thất vọng khi sa ngã và lỗi phạm, nhưng vẫn trông cậy vào lòng thương xót
của Chúa vì nếu thất vọng tức là ta quên đi thân phận yếu đuối mỏng giòn của
mình, đồng thời cũng phủ nhận tình yêu bao la của người Cha nhân hậu. Vì vậy,
ngài viết về tâm hồn thơ bé của mình như sau: “Sống khiêm nhường bé nhỏ là
nhận biết mình hư vô nên không ngã lòng trước tội lỗi của mình, vì trẻ nhỏ thì
thường ngã.”[26] Hơn nữa, qua những
lỗi lầm yếu đuối này, ngài càng thêm lòng phó thác và tin tưởng hơn vào tình
yêu thương lớn lao của Thiên Chúa dành cho mình, để rồi nhờ đó, ngài đạt được
tình yêu tròn đầy và lớn lao hơn. [27]
3.
Tin tưởng Chúa nên sống
trọn vẹn ngày hôm nay, và phó dâng mọi sự cho Chúa
Một đặc tính nổi bật
nơi trẻ con là chúng không quá lo lắng về tương lai vì có cha mẹ chúng lo rồi,
và cũng không quá buồn sầu về quá khứ vì quá khứ đã qua rồi, chúng chỉ sống
trọn vẹn giây phút hiện tại cách hồn nhiên và hết mình. Đây cũng là điều mà
Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai
lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Đặc tính này rất cần thiết
cho những người theo Chúa và càng cần thiết hơn cho những người theo Chúa trên
con đường thơ ấu thiêng liêng, con đường của sự đơn sơ bé nhỏ và thánh Têrêxa
chính là mẫu gương cho điều này.
Trong suốt thời gian
sống tại dòng Kín, ngài đã thực hiện trọn vẹn phương châm “Không gì hơn ngày
hôm nay”. Với châm ngôn này, ngài đã sống từng ngày, từng giờ một cách trọn
vẹn trước nhan Chúa bằng cách chu toàn bổn phận hàng ngày trong thái độ hoàn
toàn phó thác và tin tưởng. Ngài viết: “Tôi chắc chắn rằng chỉ lúc này Ý
Chúa mới được chu toàn.”[28] Vì vậy, ngài vui vẻ
đón nhận và sống mọi giây phút hiện tại cách trọn vẹn.
Hơn nữa đối với thánh
nữ, giây phút hiện tại là rất quan trọng, nó làm nên lịch sử đời ngài và chính
nó cũng định đoạt số phận mai này của ngài. Với những giây phút hiện tại, tên
trộm lành trên đồi Canvê đã biến cả một cuộc đời đen tối thành một tương lai
huy hoàng. Cũng vậy, với những giây phút hiện tại, thánh Phêrô đã trút bỏ được
những lỗi lầm bội phản để trở thành người Tông đồ thân thiết của Chúa. Thế nên,
thánh nữ đã sống cách trọn vẹn giây phút hiện tại trong tâm tình yêu mến, phó
thác và vui tươi vì ngài tin rằng đó là Ý Chúa. Ngài viết: “Tôi chỉ thấy lúc
hiện tại. Tôi quên quá khứ và giữ mình khỏi nghĩ đến tương lai.”[29] Thậm chí ngay cả
trong những lúc đau đớn nhất trên giường bệnh, ngài vẫn giữ vững thái độ này.
Ngài nói: “Tôi chỉ đau khổ từng lúc, từng lúc. Chính vì người ta nghĩ đến
quá khứ và tương lai mà người ta nhát đảm và thất vọng.”[30]
Và nhờ vậy, ngài luôn giữ được tâm tình vui tươi và đơn sơ của trẻ thơ: “Con
ho sù sụ! Nghe như chiếc đầu máy của đoàn xe lửa khi tới nhà ga. Con cũng đang
đến một nhà ga: nhà ga trên trời, và cơn ho báo hiệu ga đó đã gần rồi !”[31] (nói với mẹ Agnes
de Jesus ngày 7 tháng 7 năm 1897 khi thánh nữ nằm trên giường bệnh).
Và cuối cùng, đỉnh cao
của lòng phó thác nơi thánh Têrêxa chính là sự quên mình để rồi phó thác tất cả
cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Trong Truyện Một Tâm Hồn, ta có thể tìm được rất nhiều câu thánh nữ viết
về điều này: Chỉ có một điều tôi ao ước đó là ý Chúa; Tôi sẽ được hạnh phúc
tràn đầy nếu điều ấy đẹp lòng Chúa; Tôi
chỉ hài lòng là làm theo Ý Chúa.[32]
Quả thực, ngài đã bỏ
mình đi để xin vâng theo Thánh ý trong mọi sự kể cả khi cận kề cái chết trong
cơn hấp hối hãi hùng kinh sợ. Ta có thể thấy được điều này qua những lời mẹ
Agnes de Jesus ghi lại:
Sáng ngày 30-9, em quá
mệt mỏi và đau đớn, kiệt sức, thở hổn hển. Em nói khó nhọc: “Ôi, mẹ biết con
nghẹt thở chừng nào… Mẹ mà biết thế nào là nghẹt thở !... Thưa mẹ, con dám quả
quyết là chén đắng đã đầy tới miệng !... Nhưng Chúa nhân lành sẽ không bỏ con,
đó là điều chắc chắn… Không bao giờ Ngài bỏ con.” Lúc 7 giờ chiều, ngày cuối
cùng, khi cơn hấp hối dữ dội bao quanh, em vẫn tin tưởng và phó thác hoàn toàn
trong tay Chúa nhân lành. Mệt mỏi, em nói với tôi:
- Thưa mẹ, chưa phải là
giờ hấp hối sao?... Con không sắp chết sao?
- Phải, chính là giờ hấp
hối đó con, nhưng có lẽ Chúa còn muốn kéo dài nó thêm mấy giờ nữa. – Ngài can
đảm nói tiếp:
- Nếu vậy… ta cố lên nào
!... Cố lên nào. Ồ, con không muốn được chịu đau khổ chóng hơn.[33]
Thánh nhân còn nói thêm rằng: Con không thích vào Thiên đàng trước
một phút nào theo ý riêng con. [34]
Như vậy, ta có thể thấy
rằng nơi thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu, đức Cậy - lòng tín thác đã trở nên viên
mãn và thành động lực cho đời sống tâm linh của ngài. Đức Cậy thúc đẩy linh hồn
ngài tiến bước và thêm lòng tin tưởng vào sự toàn năng và nhân hậu của Thiên
Chúa. Chính lòng tin tưởng mạnh mẽ này chứ không phải gì khác đã đưa thánh nữ
đến tột đỉnh của mọi nhân đức – đức Ái.[35]
4. Và trên hết là tình yêu
Nét nổi bật nhất nơi
thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu chính là tình yêu, một tình yêu nồng cháy, tha
thiết nhưng cũng rất đơn sơ, chân thành và vô vị lợi. Chỉ sống trên trần gian
vỏn vẹn 24 năm nhưng thánh nữ đã dành mọi giây phút cuộc đời cho tình yêu. Một
chị Nhà tập kể lại rằng: “Trong mọi
trường hợp, thánh Têrêxa luôn làm như thế. Chị biết thánh hóa mọi hoạt động,
ngay cả những việc nhỏ bé nhất thành những hành vi của tình yêu.”[36]
Từng giây, từng phút,
ngài đã sống yêu thương. Yêu là nếp sống của ngài. Với tình yêu, thánh nữ đã
thăng hoa cuộc đời của mình thành một “bài ca tình yêu bất tận”[37]. Và “với tình
yêu, không những em tiến mà còn bay” [38]
– bay tới đỉnh trọn lành.
a.Yêu Chúa
o
Yêu Chúa trong mọi giây phút cuộc đời
Khi còn nhỏ, thánh nữ
đã rất say mê học Giáo lý và xuất sắc đến nỗi cha giáo đã tặng ngài danh hiệu
Tiến sĩ tí hon. Ngài luôn hướng trọn tâm trí về Chúa, dù trên đồng cỏ hay trong
nhà nguyện, khi bệnh tật cũng như lúc an vui, ngài luôn nghĩ về Chúa. Ngài đã
sung sướng diễn tả: “Con tưởng không bao giờ ba phút trôi qua mà con không
nghĩ tới Chúa nhân lành.” [39]
Càng lớn lên, tình yêu
Chúa càng bộc lộ rõ rệt nơi ngài. Nhiều lần theo cha đi câu nhưng ngài lại bỏ
câu, tìm kiếm một vệ cỏ rồi ngồi trầm tư suy nghĩ về Nước trời. Ngài viết cho
chị mình như sau:
“Em
thích ngồi trên đám cỏ nở hoa. Bấy giờ tư tưởng em thật sâu sắc nhưng em không
biết đó là nguyện gẫm. Tâm hồn em chìm đắm trong một cơn cầu nguyện đích thực.
Em nghe những tiếng động từ xa vọng lại, tiếng gió thổi rì rào, tiếng bản nhạc
đứt quãng mơ hồ đâu đây vọng tới làm cho lòng em buồn… Trần gian này giống như
một nơi lưu đày và em mơ về cõi trời,…” và “lúc ấy trần
gian trở nên càng buồn thảm hơn đối với em và em hiểu
rằng chỉ trên trời mới có niềm vui không gợn mây.”[40]
Khi
theo cha sang Ý chầu Đức Giáo hoàng để xin chuẩn được vào dòng Kín năm 15 tuổi,
ngài đã gặp những cảnh lạ lùng nhưng ngài chẳng màng. Ngài viết:
Những cảnh đẹp của trần gian xa dần trước mắt mà em không hế luyến
tiếc. Lòng em khát khao những điều kỳ diệu khác. Mắt em đã xem đủ những cảnh lạ
của trái đất, còn bây giờ, lòng em ước ao những cảnh đẹp trên trời.[41]
Ngay
cả việc vào dòng Kín của ngài cũng là vì chính Chúa chứ không vì ai khác. Ngài
viết: “Em muốn vào dòng Kín không phải vì chị Pauline, nhưng vì một mình
Chúa Giêsu thôi.” [42]
Và khi đã vào dòng, ngài càng kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Ngài mang sách
Phúc âm đêm ngày trên ngực để luôn suy niệm về Chúa. Ngài viết: “Nếu con là
linh mục, thế nào con cũng học tiếng Do Thái, Hi Lạp để có thể đọc Lời Chúa
cách trung thành.” [43]
Thánh
Têrêxa sớm khám phá ra tình Chúa yêu thương. Khi suy nghĩ đến cái chết vì yêu
của Chúa Giêsu trên thập giá, tâm hồn ngài càng sôi sục ngọn lửa tình yêu đáp
trả. Ngài đã không ngừng liên tiếp bày tỏ nỗi lòng yêu mến của mình trong cuốn Truyện Một Tâm Hồn: Sứ mệnh của tôi chính là tình yêu; Tôi ao ước được yêu Chúa Giêsu như
chưa từng có ai yêu đến thế; Tôi chẳng muốn chi hơn là được yêu Chúa Giêsu đến
điên dại.[44]
Đối
với ngài, tình yêu Chúa chính là khuôn vàng thước ngọc trong cuộc sống và là lẽ
sống của ngài, như ngài đã từng nói với Chúa Giêsu trong ngày được rước lễ lần đầu tiên: “Con yêu
Chúa. Con mãi mãi hiến mình con cho Chúa.”[45]
o
Hiến tế bản thân làm hy tế tình yêu dành riêng cho Chúa
Nhìn lại cuộc đời của
thánh nhân, chúng ta có thể quả quyết rằng ngài đã say mê Chúa Giêsu và tình
yêu Chúa đã chiếm trọn quả tim của ngài. Trong ngày lễ khấn dòng, ngài đã đeo
trên mình lời kinh này: “Lạy Chúa Giêsu, ước gì từ đây, con chỉ tìm Chúa và
chỉ thấy một mình Chúa. Ước gì mọi thụ tạo là không đối với con và con cũng là
hư vô đối với chúng.”[46] Vì muốn thuộc trọn
về Chúa và với tình yêu Chúa dâng cao mỗi ngày như sóng triều, ngài đã cảm
nghiệm Chúa như vị Hôn phu thân thiết của mình. Ngài viết đầy thơ mộng như sau:
“Chúa Giêsu không nói
gì hết. Con cũng chẳng nói nửa lời, nếu không phải là con nói con yêu thương
Ngài hơn bản thân con. Và tự đáy lòng, con cảm thấy thật như vậy, vì con thuộc
về Ngài nhiều hơn thuộc về con.”[47]
Và với mối tình thiêng
liêng nồng cháy đó, ngài đã sống rất thân thiết với Chúa Giêsu trong mọi lúc kể
cả khi dường như Thiên Chúa vắng mặt và bị bỏ rơi:
“Con chẳng muốn lòng
dính bén chút mảy may tình đời. Con muốn hiến dâng tất cả cho Chúa Giêsu, vì
chính Ngài đã cho con hiểu, chỉ có Ngài mới là hạnh phúc toàn hảo, dù xem ra
Ngài vắng mặt…”
Trong tình yêu nồng nàn
say đắm đó, thánh nữ đã không ngần ngại thốt lên:
“Nhất
định trên trần gian này không một phụ nữ nào chiều chồng bằng con chiều Giêsu…
Từ nay, con sẽ cố gắng làm đẹp lòng Bạn Chí Thánh của con trong mọi việc, vì
Ngài đã muốn nâng con lên hàng Hôn Thê của Ngài.” và:
“Vâng, Chúa Giêsu chính là người bạn độc nhất của con. Con chỉ nói chuyện với
mình Ngài mà thôi.”[48]
b.Yêu người
o
Yêu người với cả con tim và khối óc
Yêu Chúa nồng nàn nên
thánh nhân cũng yêu người tha thiết. Tha nhân là hình ảnh của Thiên Chúa, là
chi thể trong cùng một thân thể huyền nhiệm là Giáo hội của Chúa Kitô. Vì vậy,
với tình yêu Chúa dồi dào, ngài cũng yêu tha nhân thật quảng đại, tế nhị, hiền
dịu và vô vị lợi. Thánh nữ viết:
“Nếu
con muốn gia tăng tình yêu tha nhân trong con mà ma quỷ lại phơi bày trước mắt
con những khuyết điểm của các chị, thì con vội tìm các nhân đức và ước vọng
ngay lành của các chị. Con tự nhủ: nếu con thấy chị em lỗi phạm một lần, biết
đâu chị em đã chiến thắng nhiều lần mà vì khiêm tốn mà chị em đã che giấu…”[49]
“A, bây giờ con mới
hiểu bác ái chân thực là chịu đựng khuyết điểm của tha nhân, không lấy làm lạ
khi kẻ khác lầm lỗi và thán phục khi thấy người khác làm được những việc lành
dù là nhỏ mọn.”[50]
Trong Dòng, một nữ tu
kia “có biệt tài” làm phật lòng ngài trong mọi sự, khiến ngài có ác cảm tự
nhiên trong lòng. Nhưng với tinh thần trìu mến, với vẻ hiền hòa âu yếm, ngài đã
đối xử với chị ấy hết sức tốt đẹp làm cho chị tưởng mình là bạn tâm giao của
ngài.[51]
Ngoài ra, với lòng bác
ái cao cả, ngài đã xin làm phụ tá cho một nữ tu khó tính mà ngài biết khi ở gần
thì mình sẽ gặp nhiều khổ tâm. Hơn nữa, ngài còn tình nguyện nhận giúp đỡ cho
một nữ tu già tê bại. Với một tình yêu rất tế nhị, ngài viết: “đối với con,
cho những gì người ta xin con, như thế là chưa đủ. Con còn phải đoán trước ý
của chị em muốn để giúp đỡ.”[52]
Với một tình yêu ân cần
chăm sóc, thánh nữ viết: “Con chăm chú nhiều nhất đến hành động nhỏ mọn và
âm thầm. Vâng, con thích gấp những chiếc áo mưa mà chị em bỏ quên và tìm muôn
ngàn cơ hội để giúp đỡ chị em.”[53]
Và với
một tình yêu dịu dàng, ngài đã khuyên các tập sinh của mình rằng để khỏi sa
ngã, ta hãy làm cho tâm hồn mình dịu hiền trước. Người ta quả quyết rằng thánh
nữ không bao giờ tỏ vẻ buồn bực, khó chịu đối với những chị em đến làm phiền
mình.
Sau hết, với một tình
yêu vô vị lợi, ngài đã luôn tự quên mình để chỉ nghĩ đến lợi ích của kẻ khác.
Mọi người đều công nhận rằng Têrêxa không bao giờ nghĩ đến mình trước khi nghĩ
đến chị em. Ngài luôn dành quyền lợi ưu tiên cho các chị em trong tinh thần
nhường nhịn chân thành. Do đó, ngài đã căn dặn các Tập sinh của mình hãy thực
hành bác ái bằng cách mua vui cho chị em khác hơn là cho chính bản thân mình.[54]
Thậm chí, tình yêu thương lớn lao dành cho chị em đã thúc đẩy ngài thốt lên
rằng: “Khi các chị bị cám dỗ chống lại ai, dù có tức giận đi nữa, phương thế
tốt nhất để lấy lại bình an là cầu nguyện cho người ấy.” [55]
o
Khao khát cứu rỗi các linh hồn
Yêu Chúa Giêsu tha
thiết và muốn làm tất cả những gì Người muốn nên thánh nữ đã sớm khám phá ra
khát vọng lớn lao nhất của Người, đó là muốn mọi linh hồn được cứu độ. Thế nên,
ngài cũng đã có một khát vọng tương tự: khát vọng đưa các linh hồn trở về với
Chúa.
Một
buổi sáng Chúa nhật khi nhìn tượng chịu nạn, thánh nữ rất xúc động khi thấy máu
từ tay Chúa chảy xuống mà không có ai hứng. Vì thế, ngài quyết định đứng dưới
chân thập giá để hứng lấy “những giọt sương thần linh” từ tay Chúa chảy xuống
và ban phát cho các linh hồn [56].
Lời Chúa phán trước khi tắt thở trên thập giá “Ta khát” (Ga 19,28) như nói với
chính ngài: “Ta khát các linh hồn” có một âm vang lớn lao tâm hồn ngài. Ngài
cảm thấy bị xâu xé bởi khát vọng cứu các linh hồn cho Chúa. Ngài viết: “Chúa
Giêsu đã làm em trở nên một người ‘câu’ các linh hồn. Em cảm thấy mãnh liệt cần
phải làm việc để cứu các linh hồn.”[57]
Khát vọng cứu rỗi các
linh hồn luôn cháy bỏng trong ngài. Dù làm gì, ngài cũng hướng về các linh hồn.
Ngài viết: “Nhặt một cái kim ở dưới đất vì lòng mến cũng có thể hoán cải một
linh hồn.”[58] Vì vậy, dù làm gì
ngài cũng làm với tất cả lòng yêu mến thiết tha để xin Chúa cứu các linh hồn.
Khâu một mũi kim, ngài cũng dâng cho Chúa: “Lạy Chúa, con xin dâng mũi kim
khâu này cho Chúa vì Tình yêu Chúa, để làm vinh danh Chúa và xin Chúa cho con
một linh hồn.”[59] Với cách thức này,
theo đánh giá của những người có thế giá và uy tín, thánh nữ đã cứu được nhiều
linh hồn ngang bằng với số linh hồn mà thánh Phanxicô Xaviê, người đã đi khắp Á
châu rao giảng Tin mừng, cứu được.
Lời kết
Đường thơ ấu thiêng
liêng có nền tảng là sự ý thức được cái bé nhỏ hư vô của con người trước mặt
Thiên Chúa để rồi tin tưởng hoàn toàn và phó thác tuyệt đối mọi sự trong cánh
tay quan phòng của Người. Nhờ đó, con người sẽ có tâm tình đơn sơ và tín thác
trong mọi giây phút cuộc đời. Trên hết, Đường thơ ấu thiêng liêng mời gọi con
người sống một tình yêu chân thành và tinh tuyền với Thiên Chúa như tình yêu
của một đứa con thơ bé nhỏ đối với người cha yêu dấu của mình. Đây cũng chính
là sứ điệp mà thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu đã để lại cho chúng ta. Sứ điệp này
đã mang đến một tinh thần mới, một diện mạo mới, một mùa Xuân mới cho Giáo hội
cũng như gợi lên một mẫu gương sống mới cho mọi người Kitô hữu trong việc thánh
hóa chính mình, như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đã từng nhận xét là: đã khơi
lên một niềm hứng khởi phi thường mãi cho tới tận ngày hôm nay và được biết đến
ở khắp mọi nơi trên thế giới, cả trong Công giáo cũng như ngoài Công giáo.[60]
Đăng nhận xét