Cùng nhau xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống

Mỗi chúng ta, dù ở vai trò, địa vị nào,
cũng được mời gọi trở thành một ngọn nến nhỏ,
góp phần thắp sáng cuộc đời tăm tối này.
Nhiều ngọn nến nhỏ sẽ làm thành vầng sáng lớn;
nhiều cánh én sẽ làm nên mùa xuân; nhiều người thiện chí
sẽ làm cho cuộc đời bớt đi ảm đạm của tội lỗi.
Pet. Võ Tá Đương, OP
Kinh cầu nhẹ gõ cửa hồn,
Trần gian dục vọng bồn chồn tâm linh,
Bao nhiêu thệ ước ân tình,
Chúa thương xin để an bình tin yêu.[1]
Chúng ta đang sống trong một thời đại được mệnh danh thời đại văn minh khoa học kỹ thuật. Phải chân nhận rằng, nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, đặc biệt công nghệ thông tin, cuộc sống con người ngày càng được nâng cao, và làm cho thế giới rộng lớn bao la này trở thành một ngôi làng. Nhưng đáng tiếc thay, xã hội càng văn minh, khoa học kỷ thật càng tiến bộ, thì con người càng bị lôi cuốn bởi những trào lưu tục hóa của xã hội.[2] Theo đó, những giá trị đạo đức truyền thống bị xói mòn và luân lý đang bị đảo ngược bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo là cả một hệ lụy thật là khủng khiếp. Sự sống và phẩm giá con người đang bị đe dọa nghiêm trọng.[3]
Đứng trước thực trạng suy thoái về đạo đức của xã hội như thế, chúng ta không được quyền đứng đó mà nguyền rủa bóng đêm, nhưng được mời gọi cùng nhau thắp nên một ngọn nến, xua tan bóng đêm của nền “văn minh sự chết”, góp phần xây dựng nền “văn minh tình thương và sự sống,”[4] bằng công cuộc Phúc - Âm - hóa xã hội, sống và tỏa sáng “Niềm vui Tin mừng” trong môi trường sống của mình; thực thi lòng thương xót Chúa trong cuộc sống thường ngày.[5]
Phúc - Âm - hóa đời sống xã hội
Phúc-Âm-hóa đời sống xã hội không chỉ là chủ đề mục vụ của năm 2016 mà mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội Công giáo Việt Nam đang nỗ lực thực thi trong suốt năm nay, theo lời mời gọi và hướng dẫn của Hội đồng Giám mục Việt Nam; nhưng đó cũng là sứ vụ theo suốt hành trình đức tin của người Kitô hữu chúng ta nói chung, cách riêng là các tu sĩ sống đời thánh hiến tu trì, như lời Thầy Giêsu nhắc nhở: “Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.”[6]
Phúc-Âm-hóa đời sống xã hội là đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập các lãnh vực của đời sống xã hội. Đó chính là sống, chia sẻ, loan báo và làm chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa, ngay trong đời sống xã hội hôm nay. Trước những dấu hiệu đáng ngại trong xã hội ngày nay: gian dối, vô cảm, bất công, ma tuý, bạo lực, tự do luyến ái, ly dị, phá thai, tự tử,... mỗi người Công giáo chúng ta được kêu gọi trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống.[7] Chính trong bối cảnh xã hội như thế, người môn đệ Chúa Kitô được mời gọi đề cao các giá trị Tin mừng, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập vào các tương quan trong xã hội, trong môi trường chúng ta hiện diện, sinh sống, học tập và làm việc. Đó cũng là điều mà Công đồng Vaticanô II nhắn gửi và nhắc nhở mỗi Kitô hữu chúng ta khi viết: “Trong bất cứ lãnh vực trần thế nào, họ luôn phải để cho lương tâm Kitô hữu hướng dẫn, vì không một hoạt động nào của con người, dù thuộc phạm vi trần thế, có thể tách khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa”[8]
Quả thế, Phúc - Âm - hóa đời sống xã hội chính là một đòi hỏi tất yếu của người Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ, người Kitô hữu không sống đức tin trong cõi trừu tượng nào đó, nhưng ở giữa lòng xã hội, với những tương quan đa chiều của đời sống thường ngày. Chính nơi đó, người môn đệ Chúa Kitô được mời gọi đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập vào những tương quan của cuộc sống, nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm bổn phận thường ngày. Công đồng Vaticanô II dạy rằng: 
Các Kitô hữu, công dân của cả hai đô thị (Trần thế và Thiên quốc), hãy nỗ lực chu toàn cách trung thành những bổn phận trần thế của họ và chu toàn dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm. Theo gương Chúa Giêsu đã sống như một người thợ, các Kitô hữu hãy vui mừng vì có thể thi hành mọi hoạt động trần thế mà đồng thời có thể liên kết trong một tổng hợp sống động duy nhất, các cố gắng nhân loại, gia đình, nghề nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn giáo.[9]
Nhờ việc chu toàn trách vụ của mình trong đời sống thường ngày, Kitô hữu chúng ta góp phần tích cực trong công cuộc Phúc - Âm - hóa đời sống xã hội, góp phần làm cho xã hội trần thế này ngày càng văn minh thịnh vượng hơn. Nhờ đó, “Niềm vui Tin mừng” ngày càng được tỏa lan tới mọi người, khắp mọi nơi.
Tỏa sáng “Niềm vui Tin mừng” trong môi trường sống
Chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa với những đổi thay và biến động lớn, đa dạng và phức tạp. Con người ngày nay đang có nguy cơ đánh mất niềm tin, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời, chạy theo những trào lưu tục hóa của xã hội… Từ đó, họ chới với trong những đam mê trần tục, có nguy cơ đánh mấy ý nghĩa cuộc đời, kéo theo là những chuỗi ngày trống rỗng, buồn chán.
Quả thế,
Nguy cơ lớn nhất trong thế giới ngày nay, với những cung cấp tràn ngập và đa dạng của chủ nghĩa tiêu thụ, là một nỗi buồn cá nhân đến từ tâm hồn tự mãn và tham lam, phát xuất từ lối sống chạy theo những khoái lạc chóng qua, khiến tâm hồn không còn mở ra trước tiếng gọi của Thiên Chúa và cảm nhận niềm vui sâu lắng của tình yêu Chúa.[10]
Trước bối cảnh xã hội như thế, người Kitô hữu nói chung, cách riêng là các tu sĩ chúng ta được mời gọi sống niềm tin Kitô giáo, tỏa sáng “niềm vui Tin mừng” cho thế giới, khơi lên niềm hy vọng cho mọi người, bằng đời sống thánh thiện, bác ái, yêu thương, thực thi công bình và vượt thắng những cám dỗ ngọt ngào của những trào lưu xã hội thời đại. “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”[11] Thánh Tông đồ Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống.”[12]
Người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không phải là người tìm nếp sống an phận trong việc cử hành Phụng vụ và trong việc thực hành luân lý thường ngày, nhưng là những người can đảm và hăng hái “lên đường”, đi ra khỏi chính mình, đến với “vùng ngoại biên”[13] với với lòng nhiệt thành tông đồ của những con người đong đầy “Niềm vui Tin mừng”, để sống Niềm vui Tin mừng giữa lòng đời, thắp sáng niềm tin cho thế giới bằng đời sống bác ái yêu thương, hy sinh phục vụ tha nhân, can đảm làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô giữa một thế giới thiếu vắng tình người, đỡ nâng, sẻ chia và đồng hành với những người sống nơi vùng ngoại biên. Vùng ngoại biên đó “được” hay “bị” phân ranh bởi những hàng rào thép gai lạnh lùng, vô cảm, gian tham, ích kỷ, bạo lực, bất công tàn nhẫn của xã hội bài trừ tôn giáo, của những người vô thần, cố tình loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống này, để họ “lộng hành”, “thay trời hành đạo”.
Trong bối cảnh như thế, “đến với những vùng ngoại biên” là một thách đố lớn cho Giáo hội, cho mỗi chúng ta. Thế nhưng,
Chính thách đố này lại trở thành cơ hội thuận lợi thúc đẩy Giáo hội canh tân, ‘tự vấn lương tâm trong tư cách cộng đồng cũng như trong tư cách cá nhân, xem chúng ta có thể sống đức tin thế nào cho tốt hơn và thi hành hiệu quả hơn sứ mệnh chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu.’ Chính vì thế, trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này.[14]
Sống đức tin và chiếu tỏa Niềm vui Tin mừng không chỉ là thực hành các nghi lễ với các hình thức bề ngoài, nhưng là thể hiện niềm tin của mình ra bên ngoài bằng cung cách sống, xuất phát từ một sự hiểu biết đạo lý, xác tín, dẫn đến hành động. Bởi lẽ, người có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì chằng có ích lợi gì. Đức tin như thế là chỉ là đức tin chết.[15]
Trước nhu cầu khẩn thiết và cấp bách của thời đại, trước lời mời gọi của Chúa và Giáo hội, nhiều tu sĩ và giáo dân chúng ta đã được Tình yêu Chúa Kitô thúc bách,[16] can đảm và hăng hái “lên đường” dấn bước theo Chúa Kitô, đến vùng ngoại biên, thực thi sứ vụ chiếu tỏa Niềm vui Tin mừng trong công tác bác ái xã hội, tham gia vào các lãnh vực y tế, giáo dục, sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, Niềm vui Tin mừng của người Kitô hữu và tu sĩ được tỏa sáng qua những hoạt động phục vụ người nghèo khổ, đau thương, người cơ nhỡ, người già neo đơn, người khuyết tật, người bị bỏ rơi khắp nơi nơi. Dấu chân và bóng dáng các tu sĩ,  cùng vơi nhiều giáo dân đã in đậm trong các cô nhi viện, viện dưỡng lão, nhà chăm sóc bệnh cùi, bệnh nhân nhiễm HIV giai đoạn cuối… Họ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng, xoa dịu nỗi đau thể xác và tinh thần nơi những “hình ảnh sống động của Chúa Kitô”,[17] trở thành những cánh tay nối dài của Chúa Kitô trong môi trường xã hội hôm nay, góp phần xây đắp nền văn minh tình thương và sự sống cho xã hội, bằng chứng từ của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Thực thi lòng Chúa thương xót
         trong cuộc sống thường ngày
Chúng ta đang sống trong một thời khắc đặc biệt của Giáo hội, thời khắc trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót của Giáo hội hoàn vũ, và Năm Phúc-Âm-hóa đời sống xã hội của Giáo hội Việt Nam. Đây là một sự trùng hợp rất ý nghĩa. Sự trùng hợp này giúp chúng ta hiểu và sống cách cụ thể định hướng mục vụ của Giáo hội Việt Nam, để góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống, qua việc thực thi lòng thương xót trong cuộc sống thường ngày, qua công cuộc Phúc - Âm - hóa môi trường sống xã hội hôm nay.
Trong “năm hồng ân” này, chúng ta được mời gọi “chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, được tỏ hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô; nhờ đó, chúng ta cảm nghiệm được lòng Chúa xót thương và trở nên dấu chỉ cụ thể của lòng thương xót trong cuộc sống.”[18] Đây cũng là cơ hội thuận lợi để mỗi Kitô hữu, cách riêng là mỗi tu sĩ chúng ta thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng, theo linh đạo và đặc sủng của mỗi Hội dòng; thực thi công cuộc Phúc - Âm - hóa xã hội, bằng việc rao giảng Lòng Chúa Thương Xót và trở thành chứng nhân của Lòng Thương Xót Chúa cho con người thời đại.
Vì thế, sống trong bối cảnh tục hóa với những tệ nạn xã hội hôm nay, thay vì phàn nàn, phê phán, chỉ trích, chúng ta được mời gọi đem tinh thần Tin mừng thấm nhập mọi môi trường cuộc sống[19], để hoán cải, để biến đổi xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, góp phần bại trừ “văn hóa sự chết”, chung tay “xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống”. Bởi chưng, trong một mức độ nào đó, người Kitô hữu chúng ta cũng phải chịu một phần trách nhiệm với hiện trạng của một xã hội đang bị xuống cấp về đạo đức đến mức báo động hôm nay. Vì lẽ, chúng ta chưa sống tốt ơn gọi của mình, chưa dấn thân đủ với vai trò là “men”, là “muối”, là “ánh sáng” và là chứng nhân Tin mừng trong xã hội này. Thế nên, chúng ta phải thực sự hoán cải và canh tân đời sống mình, bằng việc trở về với đời sống đức tin sâu xa của mình[20], để dấn thân mạnh mẽ hơn, tích cực hơn trong sứ vụ của mình, nhằm cải biến xã hội hiện tại này. Trong khi con người thời đại cần “lương tháng” hơn “lương tâm”; và người ta cho “chân lý với chân dò bằng một giá”, thì vai trò Phúc Âm hóa của chúng ta phải khẩn thiết và cấp bách hơn.
Mỗi chúng ta, dù ở vai trò, địa vị nào, cũng được mời gọi trở thành một ngọn nến nhỏ, góp phần thắp sáng cuộc đời tăm tối này. Nhiều ngọn nến nhỏ sẽ làm thành vầng sáng lớn, nhiều cánh én sẽ làm nên mùa xuân, nhiều người thiện chí sẽ làm cho cuộc đời bớt đi ảm đạm của tội lỗi. Và như thế, tình yêu thương sẽ thắp sáng cuộc đời. Khi nỗ lực thực thi những điều vừa kể, là chúng ta thực thi sứ mạng truyền giáo của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta trở thành những chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót.[21] Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng, nếu không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống.[22]
Giữa một thế giới tràn ngập bóng đêm của “văn hóa sự chết” như thế, để trở thành những chứng nhân lòng thương xót của Chúa, hầu góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống, người Công giáo chúng ta có tấm bảng chỉ đường cụ thể là Giáo huấn xã hội của Giáo hội. Đây là tài liệu đúc kết và hệ thống hóa những chỉ dẫn của Giáo hội, nhằm đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập các lãnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta không thể Phúc - Âm - hóa xã hội mà lại không biết gì về Giáo huấn xã hội của Giáo hội.[23] Giáo huấn này sẽ soi sáng cho ta biết cách yêu mến quê hương, yêu thương mọi người không trừ một ai, quan tâm phát triển nhân bản và văn hóa, xây dựng công bằng, tình liên đới, sự bình đẳng và tự do tôn giáo qua nẻo đường hiền lành và khiêm nhường, bao dung và tha thứ.[24]
Theo giáo huấn của Giáo hội, những tiêu chuẩn phải gợi hứng cho người Kitô hữu chúng ta trong công cuộc xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống, là theo đuổi công ích trong tinh thần phục vụ, phát triển công lý với sự quan tâm đặc biệt đến những tình trạng đói nghèo và đau khổ, tôn trọng phẩm giá con người, tôn trọng quyền tự trị của các thực tại trần thế, nguyên tắc bổ trợ, cổ vũ đối thoại và hòa bình trong tình liên đới.[25]
Ngoài ra, để loan báo và làm chứng cho lòng thương xót Chúa, để Phúc -Âm - hóa xã hội, để chung tay xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống, chúng ta được mời gọi chăm sóc trái đất này là ngôi nhà chung mà Thiên Chúa là Cha và là Đấng Tạo Hóa đã ban cho nhân loại.[26] Bởi lẽ, thế giới ngày nay đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng về môi sinh: trái đất nóng lên, ô nhiễm gia tăng, nguồn nước sạch bị đe dọa, thảm họa thiên nhiên ngày càng nhiều, ô nhiễm môi trường biển… Việt Nam cũng là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của tình trạng biến đổi khí hậu: ô nhiễm bụi ở mức độ trầm trọng, nhất là tại các thành phố lớn.[27]
Trước vấn nạn đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô kêu gọi chúng ta và toàn thể thế giới phải hoán cải, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống trong tương quan với môi trường thiên nhiên. Chính Thiên Chúa đã trao cho con người trách nhiệm trông coi trái đất,[28] do đó không được tàn phá hoặc sử dụng để trục lợi, nhưng phải chăm sóc và gìn giữ, cho thế hệ hiện nay và cả tương lai.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi mỗi chúng ta giữ gìn và bảo vệ môi sinh, thúc đẩy chúng ta thay đổi cách sống, biết tôn trọng thiên nhiên, chăm sóc môi trường sống, bắt đầu từ những việc nhỏ bé trong cuộc sống hằng ngày như tiết kiệm nước và năng lượng, giữ vệ sinh chung trong khu xóm…[29] Song song với bảo vệ môi sinh, chúng ta cũng được mời gọi quan tâm và đồng hành với anh chị em di dân trong cuộc sống, trong hành trình đức tin, qua việc  yêu thương, nâng đỡ, tiếp đón và tăng cường sự hợp tác giữa các Giáo phận gốc của họ cùng các Giáo phận họ đến, và cung cấp cho họ những lời khuyên về mặt đạo đức và các chỉ dẫn thực hành. Thực hiện được những công việc trên chính là chung tay xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống trong bối cảnh hôm nay.
Thay lời kết
Để kết thúc, người viết xin được trích lại lời giáo huấn của Giáo hội về việc dấn thân trong sứ vụ bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống trong bối cảnh hiện nay:
Khi thi hành sứ vụ, nhất thiết phải công bố Danh Chúa Giêsu Toàn diện, vì sứ vụ bao gồm nhiều hoạt động: công bố Tin mừng lần đầu tiên (kerygma), huấn giáo nhằm xây dựng sự trưởng thành đức tin, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hóa. Do đó có mối liên hệ mật thiết giữa sứ vụ loan báo Tin mừng và việc phục vụ sự sống cùng sự phát triển con người toàn diện.Chính Chúa Giêsu dạy Giáo hội hướng đi này. Cho dù mối quan tâm hàng đầu của Người là rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến công bằng xã hội và nhu cầu vật chất của dân chúng. Như thế, Tin mừng của Người liên kết mật thiết với sự phát triển những giá trị nhân linh, và không hề tách rời đức tin khỏi cuộc sống. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, Giáo hội tại Việt Nam xác tín rằng Dân Chúa cần tích cực cộng tác với mọi người thiện chí, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Đó là phương thế cụ thể để thi hành sứ vụ duy nhất và toàn diện của Đức Kitô trên đất nước này.[30]
Ước mong sao, mỗi Kitô hữu, mỗi tu sĩ chúng ta, nhiệt tâm đáp lại lời mời gọi của Chúa qua Giáo hội, hăng say thực thi sứ vụ loan báo Tin mừng, Phúc - Âm - hóa đời sống xã hội, bằng những việc làm cụ thể trong đời sống, trong ơn gọi, theo linh đạo và đặc sủng của Hội dòng mình, để cùng với mọi thành phần trong Giáo hội Việt Nam chung tay xây dựng quê hương, bồi đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống trên quê hương đất Việt chúng ta.



[1] Các giờ kinh Phụng Vụ, “Thánh Thi Kinh Sách”, thứ Năm, tuần I.
[2] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010, gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, số 09.
[3] Xc. ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Huấn Gia đình, số 01.
[4] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010, gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam. 
[5] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Mục vụ năm 2015, số 03.
[6] Mt 5, 13 -44.
[7] Xc. ĐTC Phanxicô, Tông Sắc Misericordiae vultus, số 10.
[8] Vat. II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 36.
[9] Ibid., số 43.
[10] ĐTC Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium , số 02.
[11] Mt 5, 16.
[12] Pl, 2, 15-16.
[13] Xc. ĐTC, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 46 & 49..
[14] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010, gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, số 09.
[15] Xc. Gc 2, 15- 17.
[16] Xc. 2 Cr 5, 14.
[17] Xc. Mt 25, 35 -40.
[18] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Mục vụ năm 2015, số 02.
[19] Xc. Thánh Phanxicô Assisi, Kinh Hòa Bình.
[20] Xc. ĐTC Phanxicô, Tự sắc Porta Fidei, số 09.
[21] Xc. Đức Cha Giuse Vũ Văn Thiên, Bài giảng lễ Truyền giáo năm 2015, tại nhà thờ Chính tòa Giáo Phận Hải Phòng, ngày 18/10/2015.
[22] Xc. ĐTC Phanxicô, Trọng sắc mở Năm Thánh Lòng Thương xót, số 10.
[23] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Mục vụ năm 2015, số 04.
[24] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010, gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, số 33.
[25] Xc. Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 564.
[26] Xc. ĐTC Phanxicô, Thông điệp Laudato si, số 03.
[27] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Mục vụ năm 2015, số 05.
[28] Xc. St 1,28.
[29] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Mục vụ năm 2015, số 07.
[30] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa 2010, gửi toàn thể cộng đồng Dân Chúa Việt Nam, số 32.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn