Năm thánh
trong truyền thống Giáo hội Công Giáo Rôma
có nguồn gốc sâu xa từ thời Cựu ước.
Năm thánh, còn được gọi là năm Toàn xá, theo nguyên ngữ Latin: Annum Jubilaei, bắt nguồn từ tiếng Dothái: Jôbel,
- thổi tù và báo hiệu năm toàn xá.
Năm thánh, còn được gọi là năm Toàn xá, theo nguyên ngữ Latin: Annum Jubilaei, bắt nguồn từ tiếng Dothái: Jôbel,
- thổi tù và báo hiệu năm toàn xá.
Quốc Văn,
OP., tổng hợp
Dẫn nhập
Ngày 11 tháng 04 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành Tông sắc Misericordiae Vultus, công bố Năm thánh
về Lòng Thương Xót, từ ngày 8 tháng 12 năm 2015 đến ngày 20 tháng 11 năm 2016.
Năm thánh khai mạc vào
ngày lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, giúp chúng ta đi vào ý nghĩa tâm linh
sâu xa: như Đức Maria giữ vai trò khởi đầu lịch sử cứu độ, khởi đầu cho ơn tha
thứ của Thiên Chúa thế nào, thì việc mở Cửa Thánh giống như mở Cửa Lòng Thương
Xót, để ai đi vào thì sẽ được „an ủi, được tha thứ và hy vọng“ như vậy.
Ngày lễ này cũng ghi dấu
50 năm bế mạc Công đồng Vaticanô II. Giáo Hội muốn cho sự kiện này trở nên sống
động, hầu tri ân Thiên Chúa về những hoa trái của Công đồng đã dâng tặng cho
Hội thánh và cả thế giới, đồng thời nhắc nhở con cái mình hướng ánh mắt đức tin
về tình thương vô bờ bến của Thiên Chúa, thể hiện qua gương mặt xót thương của
Chúa Giêsu, hiện thân lòng thương xót của Chúa Cha. Đây là thời điểm cần thiết
để mọi người tin làm chứng mạnh mẽ và hữu hiệu hơn về Lòng Thương Xót của Chúa
Cha dành cho nhân loại. Chính trong lời khai mạc Công đồng Vaticanô II, thánh
Giáo hoàng Gioan XXIII cũng nhắc đến cụm từ „Lòng Thương Xót“, và ngài xem đó
như phương thuốc chữa trị căn bệnh của thế giới này. Đến lượt chân phước Giáo
hoàng Phaolô VI, dù không sử dụng cụm từ trên, nhưng ngài đã nói đến kết quả
của Công đồng là nguồn mạch yêu thương khả dĩ chữa trị nhân loại, một nhân loại
nhiều bệnh tật và đau khổ (n°4§2).
Năm Thánh sẽ được bế mạc
vào Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Lễ Trọng kính Chúa Kitô Vua, 20 tháng
11 năm 2016, với ý hướng phó thác đời sống của của toàn thể vũ trụ, cách riêng
đời sống Giáo hội, cho quyền Chủ Tể của Chúa Kitô, Đấng là Vua Vũ Trụ. Tất cả
đều được hưởng Lòng Thương Xót như dấu chỉ Vương Quốc Thiên Chúa đã hiện diện
giữa chúng ta (n°5§1).
Để đón nhận và sống biến
cố quan trọng này của Hội thánh, chúng ta cùng tìm hiểu về : 1. Ý nghĩa của Năm
thánh 2. Những Năm thánh trong lịch sử Hội thánh; và cách riêng, 3. Ý nghĩa của
Năm thánh Lòng Thương Xót Chúa.
1. Ý nghĩa của Năm thánh
1.1.
Thời
Cựu ước
Năm thánh trong truyền thống của
Giáo hội Công Giáo Rôma có nguồn gốc sâu xa từ thời Cựu ước. Năm thánh, còn được gọi là năm
Toàn xá, theo nguyên ngữ Latinh: Annum Jubilaei, bắt nguồn từ tiếng
Dothái Jôbel, - „thổi tù và báo hiệu
năm toàn xá“. Đây là khoảng thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
người Dothái.
Quả vậy, Năm thánh là khoảng thời
gian đầy vui tươi phấn khởi. Theo sách Lêvi, cứ 50 năm người ta phải giải phóng
các nô lệ, phải xóa nợ và trả lại ruộng vườn cũng như đất đai cho chủ cũ. Do vậy,
trong Năm thánh, những người lưu lạc được trở về với dòng họ của mình và nhận lại
phần sở hữu như ruộng đất, nhà cửa, tài sản... (Xc. Lv 25, 8-17; xt. Xh 23,10-11 ; Ðnl 15,1-6.) Trong niềm vui
ấy, dân Israel nhớ lại những hồng ân lớn lao Thiên Chúa đã ban cho tổ tiên của
họ, nhất là hồng ân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Khi cảm nhận được ơn giải thoát
này, cứ sau 49 năm thì toàn dân Israel phải mừng năm thứ 50 một cách trọng thể,
họ thổi tù và báo hiệu năm đại xá, Năm thánh của Chúa. Đối với toàn dân Israel,
đây là thời khắc đặc biệt, là năm hồng ân để dân cảm tạ Chúa và canh tân đời sống
của mình. Đây cũng là dịp dân Chúa được dạy cho biết phải tôn trọng mọi người,
ngay cả kẻ thù của mình nữa, cách riêng là những người nghèo khổ, cô thế cô
thân. Dân Chúa không được phép quên rằng, những người nghèo luôn là đối tượng
được Thiên Chúa yêu thương.
1.2. Thời Tân ước
Năm thánh trong thời Tân ước tiếp nối
ý nghĩa của Năm Toàn xá thời Cựu ước, tuy nhiên Giáo hội đón mừng Năm thánh với
một chiều kích trọn vẹn hơn, bởi vì Thiên Chúa đã thi ân giáng phúc cho nhân loại
trong Ðức Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể. Niềm vui mừng phấn khởi của Hội thánh mang
một ý nghĩa cụ thể do chính Ðức Giêsu mang lại; việc Người đến trong thế gian
đã thực sự đem lại thời hồng phúc, thời cứu rỗi cho khắp cả trần hoàn (Lc
4,16-30).
Nếu việc canh tân đời sống là việc
làm quan trọng của dân Israel trong Năm thánh; thì đối với Giáo hội cũng thế,
Năm thánh là thời gian hồng ân mà các tội nhân được mời gọi canh tân, hoán cải
đời sống và giao hòa với Thiên Chúa, với tha nhân, với chính mình và với thiên
nhiên vạn vật, hầu đón nhận ơn tha thứ, đón nhận lòng thương xót của Chúa. Đây
là dịp Hồng Ân không chỉ dành cho các Kitô hữu mà còn cho cả nhân loại nữa.[1]
Chúng ta cũng nên biết rằng, trong
Giáo hội, Năm thánh có 2 loại: Năm thánh
thông thường và Năm thánh ngoại thường.
Năm thánh thông thường được ĐTC Bonifacio VIII (1294-1303) cử hành lần đầu tiên
vào năm 1300 và sau đó ngài ấn định cứ 100 năm cử hành Năm thánh một lần. Tuy
nhiên, qua các triều đại Giáo hoàng, thời gian cử hành Năm thánh lần lượt được
rút dần xuống còn 50 năm, 33 năm và sau cùng là 25 năm như hiện nay.
Ngoài những Năm thánh thông thường,
vào những dịp đặc biệt, Đức Thánh Cha có thể thiết lập Năm thánh ngoại thường.
Cho đến nay mới chỉ có 3 Năm thánh ngoại thường được ấn định: năm 1933, ĐTC Piô
XI công bố Năm thánh mừng kỷ niệm 1900 năm Ơn Cứu Ðộ được ban cho nhân loại nhờ
cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu; năm 1983, Ðức Gioan Phaolô II công bố Năm thánh mừng
kỷ niệm 1950 năm Ðức Kitô tử nạn và phục sinh hầu đem ơn cứu rỗi cho nhân loại;
và ngày 11 tháng 04 năm 2015, ĐTC Phanxicô ban Tông sắc Misericordiae Vultus công bố Năm thánh Lòng Thương Xót Chúa.
2. Những
Năm thánh trong lịch sử Hội thánh[2]
Tính cho đến năm nay – 2015 - không
kể 3 năm thánh ngoại thường, Hội thánh đã cử hành tất cả 26 Năm thánh thông thường.
Vì tình hình chính trị rối ren nên đã không có Năm thánh nào được cử hành vào năm 1800 và 1850. Chúng ta cùng
tìm hiểu sơ lược về danh sách các Năm thánh đã được ghi lại trong lịch sử :
1. Năm 1300 :
Đây là Năm Thánh đầu tiên trong lịch sử Hội Thánh được Ðức
Thánh Cha Bonifacio VIII (1294-1303) thiết lập. Ngài cũng ấn định cứ 100 năm cử
hành Năm thánh một lần.
2. Năm 1350 :
Hoàn cảnh Hội thánh lúc này đang gặp khó khăn do việc vắng mặt Giáo hoàng quá lâu,
Ðức Thánh Cha Clêmentê VI (1342-1352) đang cư ngụ tại Avignon đã đồng ý mở Năm
thánh, cho dù ngài chưa thể trở về Rôma. Thời điểm mở Năm thánh lúc này rút
xuống còn 50 năm.
3. Năm 1390 :
Ðức
Bonifacio IX (1389-1404) đã cử hành Năm thánh 1390, thể theo ý
định của vị tiền nhiệm là Ðức Urbanô VI (1378-1389), thời gian cử hành Năm
thánh không còn phải là 50 năm, nhưng là cứ mỗi 33 năm một lần.
4. Năm 1400 :
Mặc dù chưa tới thời điểm ấn định mở Năm thánh, nhưng tình hình Giáo Hội lúc này rất rối
ren, khi cùng một lúc có các Giáo hoàng khác nhau cư ngụ ở Rôma và Avignon. Ðức
Bonifacio IX (1389-1404) đã quyết định cho mở Năm thánh.
5. Năm 1425 :
Ðức
Martinô V (1417-1431) đã khai mạc Năm thánh 1425 và bắt đầu truyền thống mở Cửa
Thánh ở Ðền thờ thánh Gioan Latêranô, Nhà thờ Chánh toà của Giáo phận Rôma, mà
sau này được Ðức Alexanđrô VI (1492-1503) đổi thành truyền thống khai mạc Năm
thánh bằng việc mở Cửa Thánh ở Ðền thờ thánh Phêrô.
6. Năm 1450 :
Ðức
Nicôla V (1447-1455) ấn định Năm thánh này. Thánh Antôn thành Florence mô tả
Năm thánh 450 như là „năm hoàng kim“, ý chỉ sự hiệp nhất mới được tái lập sau
cuộc phân ly trong Giáo hội Lamã (1378-1417).
7. Năm 1475 :
Năm
thánh này do Ðức Sixtô IV (1471-1484) khai mạc. Và kể từ đây, theo qui định của
Ðức Thánh Cha Phaolô II (1461-1471) trong một Tông sắc ban hành vào năm 1470,
từ nay về sau, Năm thánh sẽ được tổ chức cứ mỗi 25 năm và qui định này vẫn duy
trì cho đến ngày nay.
8. Năm 1500 :
Ðức
Alexanđrô VI (1492-1503) đã long trọng khai mạc Năm thánh bằng nghi thức mở Cửa
Thánh ở Ðền thờ Thánh Phêrô. Việc mở Cửa Thánh nói lên chính Ðức Kitô là Cửa
thật và duy nhất qua đó con người mới có sự sống sung mãn. Kể từ đây, việc đi
qua Cửa thánh của bốn Đại Vương cung thánh đường ở Rôma trở thành một trong
những biến cố quan trọng nhất của Năm thánh.
9. Năm 1525 :
Ðược
cử hành dưới triều Ðức Clêmentê VII (1523-1534) trong hoàn cảnh Giáo hội đang
xung đột với Martin Luther về vấn đề ân xá.
10. Năm 1550 :
Ðức
Julius III (1550-1555) khai mạc vào ngày 08.02.1550, khi được đắc cử Giáo
hoàng. Thật ra vị tiền nhiệm là Ðức Phaolô III (1534-1549) đã chuẩn bị Năm
thánh 1550 nhưng lại qua đời vào ngày 10.11.1549.
11. Năm 1575 :
Ðược cử
hành dưới triều Ðức Grêgôry XIII (1572-1585). Ðây là Năm thánh đầu tiên được tổ
chức sau Công đồng Trentô (1543-1563) nhằm thực hiện các cải cách trong Giáo
hội.
12. Năm 1600 :
Dưới
triều Đức Thánh Cha Clêmentê VIII (1592-1605), hơn 300.000 khách hành hương từ
khắp Châu Âu qui tụ về Rôma trong dịp Năm thánh này.
13. Năm 1625 :
Ðược tổ
chức dưới triều Ðức Thánh Cha Urbanô VIII (1623-1644) trong tình trạng Châu Âu
biến chuyển do cuộc chiến 30 năm giữa
Công Giáo và Tin Lành.
14. Năm 1650 :
Dưới
triều Đức Thánh Cha Innôcentê X (1644-1655), sau khi Cuộc Chiến 30 năm tàn phá
Châu Âu đã kết thúc.
15. Năm 1675 :
Dưới
triều Đức Thánh Cha Clêmentê X (1670-1676) với việc tín hữu hành hương lần đầu
tiên được vào trong Công trường Thánh Phêrô.
16. Năm 1700 :
Ðược khai
mạc dưới triều Đức Thánh Cha Innôcentê XII (1691-1700) nhưng vì ngài qua đời
nên được Ðức Clêmentê XI (1700-1721) kế vị bế mạc.
17. Năm 1725 :
Năm thánh này được cử hành dưới triều Giáo hoàng Bênêđictô XIII
(1724-1758).
18. Năm 1750
: Năm Thánh
1750 được Ðức Bênêđictô XIV (1740-1758) khai mạc, ngài nhấn mạnh đến ý nghĩa ăn
năn thống hối và đền tội.
19. Năm 1775 :
Ðược
Ðức Clêmentê XIV (1769-1774) chuẩn bị với Tông sắc L’Autore della nostra vita, và khi ngài qua đời, Đức Thánh Cha Piô
VI (1775-1779) khai mạc.
20. Năm 1825 :
Ðúng ra Năm
Thánh thứ 20 phải được tổ chức vào năm 1800. Tuy nhiên, do tình hình Châu Âu
lúc bấy giờ rối ren sau cuộc Cách mạng Pháp 1789 nên không tổ chức được. Nhất
là vào năm 1797, quân đội Pháp chiếm đóng Rôma và Ðức Giáo hoàng Piô VI
(1775-1799) phải chết trong cảnh lưu đày ở Pháp, rồi Ðức Piô VII (1800-1823)
cũng bị Hoàng đế Napoléon bắt cầm tù ở Pháp từ 1809-1814. Do vậy, mãi tới năm
1825, Năm thánh mới được tổ chức do Ðức Thánh Cha Lêô XII (1823-1829).
21. Năm 1875 :
Thực ra, Năm thánh đã được cử hành vào năm 1850 dưới triều Ðức Piô IX
(1846-1878) nhưng vì những biến cố chính trị tại Ý, Ðức Thánh Cha bị tuyên bố
cầm tù trong Ðiện Vatican. Do đó, cho tới năm 1875, Cửa Thánh Ðền thờ thánh
Phêrô vẫn chưa được mở. Năm thánh 1875 chỉ giới hạn cho các giáo sĩ ở Rôma mà
thôi.
22. Năm 1900 :
Ðức Lêô
XIII (1878-1903) khai mạc Năm thánh này,
sau 75 năm Cửa Thánh bị đóng.
23. Năm 1925 :
Năm thánh dưới thời Ðức Thánh Cha Piô XI (1922-1939) có thể gọi
là „Năm Thánh Hoà Bình“ để nói đến bầu khí an lành giữa Giáo Hội và Quốc gia Ý.
Têrêsa Hài đồng Giêsu, Gioan M. Vianney, và Gioan Ơđê được ghi danh vào sổ hiển
thánh trong Năm thánh này.
24. Năm 1933 :
Ðây
là Năm Thánh ngoại lệ, Năm Thánh Cứu Ðộ, do Ðức Piô XI công bố nhằm kỷ niệm
Chúa Giêsu chịu chết cho nhân loại hầu đem ơn cứu rỗi cách 1900 năm về trước.
25. Năm 1950 :
Do
Ðức Thánh Cha Piô XII (1939-1958) khai mở sau Thế chiến II (1939-1945). Hoà
bình là sứ điệp của Năm thánh này. Đây cũng là năm Ðức Thánh Cha công bố tín
điều Ðức Mẹ Hồn Xác Về Trời.
26. Năm 1975 :
Ðược
mở ra dưới triều Ðức Phaolô VI (1963-1978), Năm Thánh này mang ý nghĩa Canh tân và Hoà giải, như được trình bày
trong tông huấn Gaudete in Domino của ngài.
27. Năm 1983 :
Ðây
là Năm thánh ngoại lệ được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố, đánh dấu biến
cố Ðức Giêsu đã chết cho nhân loại cách 1.950 năm trước đó.
28. Năm 2000 :
Ðức
Gioan Phaolô II khai mạc Năm thánh này với chủ đề: Thiên Chúa Ba Ngôi, Bí Tích Thánh Thể, nhằm chào đón thiên niên kỷ
thứ ba và đánh dấu 2.000 năm biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Đây là
Năm thánh đầu tiên chính Đức Giáo hoàng mở Cửa Thánh cả bốn Ðền thờ lớn tại
Rôma.
3. Ý nghĩa năm thánh Lòng Thương Xót Chúa
Tông sắc Misericordiae Vultus - Khuôn
mặt xót thương, đã được Đức Thánh Cha Phanxicô ban hành để khai mở Năm
thánh Lòng Thương Xót Chúa. Tông sắc này gồm 25 số, có thể tạm chia nhỏ làm 3
phần. Phần 1. Ý niệm về lòng thương xót (số
1-12); phần 2. Sống Năm thánh Lòng thương xót (số 13-18) và phần 3. Viễn tượng của Năm thánh Lòng thương xót (số
19-25).
3.1. Ý niệm
về lòng thương xót
Trước hết, cần phải xác định, lòng
thương xót không phải là một ý niệm trừu tượng mà là một khuôn mặt sống động để
chúng ta nhận biết, chiêm ngưỡng và tôn thờ. Đức Thánh Cha Phanxicô mô tả điểm
độc sáng của lòng thương xót, hiển tỏ nơi dung nhan của Chúa Kitô. Thật vậy, mở
đầu Tông sắc, Đức Thánh Cha khẳng định rằng Chúa Giêsu Kitô là khuôn mặt lòng
thương xót của Chúa Cha.
Ngay từ buổi đầu của công cuộc tạo
dựng, lòng thương xót đã là từ then
chốt nói lên tác động của Thiên Chúa đối với nhân loại. Kinh thánh hẻ mở cho
chúng ta thấy không gì có thể so sánh với tình yêu của Thiên Chúa dành cho
chúng ta. Tình yêu đó đã trở nên hữu hình, để chúng ta có thể cảm nghiệm và đụng
chạm tới. Khởi đi từ Chúa Cha là nguồn mạch xót thương, lòng thương xót của
Chúa tuôn trào xuống nhân loại, mặc cho nhân loại thờ ơ, bất trung và vô ơn với
Thiên Chúa. Cảm nhân tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng
ta cũng phải biết xót thương nhau, như Thiên Chúa đã xót thương chúng ta. Chính
vì thế, khẩu hiệu của năm thánh lòng xót thương là : Hãy có lòng thương xót như Thiên Chúa Cha.
Trên chính nên tảng xót thương này,
tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội phải được thực hiện trong sự dịu dàng;
phải diễn tả trong từng lời giảng, từng chứng tá lòng thương xót của Chúa. Con
người thời nay sống với nhau thường theo lẽ công bằng, ít nghĩ đến xót thương;
chính vì thế đã đến lúc Giáo hội phải công bố về sự tha thứ là „sức mạnh phục
sinh trong đời sống mới“, gánh lấy yếu đuối và khó khăn của anh chị em mình
(n°10§1). Sự khả tín của Giáo Hội phải được nhìn thấy trong cách thức Giáo hội
thể hiện tình yêu thương và lòng trắc ẩn.
Đức Thánh Cha Phanxicô không ngần
ngại nhận định rằng xã hội ngày nay, trong mội trường văn hóa đương đại này,
con người ngày càng quên dần Lòng Thương Xót của Chúa. Thực ra, điều này thánh
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong Thông điệp Dives in Misericordia (Giàu
Lòng Thương Xót) với những lời lẽ mạnh mẽ:
Có lẽ là hơn bao giờ hết, não trạng
của con người ngày nay xem ra muốn chống lại một Thiên Chúa của lòng thương
xót, và trong thực tế có xu hướng muốn loại ra khỏi cuộc sống và triệt hạ khỏi
trái tim con người những ý tưởng của lòng xót thương. Từ ngữ và khái niệm ‚thương
xót’ dường như gây xao xuyến trong con người, mà nhờ vào sự phát triển to lớn
chưa từng có trong lịch sử của khoa học và kỹ thuật đã trở thành chủ nhân của
trái đất, đã chinh phục và thống trị nó (x. St 01:28). Sự thống trị trái đất
này, đôi khi được hiểu một cách phiến diện và hời hợt, dường như không còn chỗ
cho lòng thương xót.[3]
Trước thực trạng đau lòng này, cũng
trong Thông điệp Dives in Misericordia,
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thúc đẩy việc loan báo khẩn cấp hơn và đưa
ra những chứng tá lòng thương xót cho thế giới:
Xuất phát từ tình yêu dành cho con
người, cho tất cả những gì là nhân bản và những gì, theo trực giác của nhiều
người đương thời với chúng ta, là đang bị đe dọa bởi một mối nguy hiểm lớn lao.
Mầu nhiệm của Chúa Kitô... buộc tôi phải rao giảng lòng thương xót như tình yêu
từ bi của Thiên Chúa, đã được mạc khải trong cùng một mầu nhiệm của Chúa Kitô.
Mầu nhiệm ấy cũng buộc tôi phải trông cậy và khẩn cầu lòng xót thương trong
giai đoạn khó khăn, và quan trọng này trong lịch sử Giáo Hội và thế giới.[4]
Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét rằng
giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II về lòng xót thương thật thích hợp
hơn hơn bao giờ hết và đáng được đề cao một lần nữa trong Năm Thánh này.
Dựa vào những mặc khải của Thánh kinh, khởi
đi từ những trang Cựu ước, Đức Thánh Cha Phanxicô cho thấy Lòng Thương Xót đã
được diễn tả bằng những hành vi cụ thể (x. Tv 145, 7-9) qua những sắc thái đa dạng
của ngôn từ: kiên nhẫn, yêu mến, khoan hồng, tha thứ v.v. (n°6§2).
Điệp khúc „Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“ được cất lên xuyên suốt
Thánh vịnh 135 như một cảm nhận đức tin, một lời tuyên tín sống động về tình
yêu Thiên Chúa.
Sang thời Tân ước, khuôn mặt Lòng
Xót Thương của Chúa Giêsu chính là tình yêu của cả Ba Ngôi, là tình yêu viên
mãn, hữu hình và chạm tới được bởi vì chính Ngôi Lời đã làm người và đã diễn tả
tình yêu tuyệt vời qua cái chết và sự phục sinh để cứu độ chúng ta. Vì thế, „trong
Người, tất cả đều diễn tả Lòng Thương Xót“ (n°8§1).
Quả vậy, trong Tin mừng, lòng
thương xót thể hiện cụ thể qua việc Chúa Giêsu chữa bệnh, trừ quỷ, cho ăn, phục
sinh kẻ chết, chọn các Tông đồ... Lòng thương xót đó ra như ta có thể sờ chạm
được qua các dụ ngôn tuyệt vời của thánh Luca (x. Lc 15), Lòng Thương Xót như
người đàn bà tìm đồng bạc mất, như mục tử tìm con chiên lạc, như người cha ngày
đêm ngong ngóng đứa con đi hoang trở về... Để tóm kết, xin trích một tâm tình
sâu sắc trong Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật XXVI Thường Niên: “Lạy Chúa, khi
Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường
hơn cả.” Quả như thánh Phaolô cảm nhận: “Quyền
năng Chúa biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9).
3.2.
Sống Năm thánh Lòng thương xót
Chúng ta được mời gọi sống Năm
thánh Lòng Thương Xót trong ánh sáng lời Chúa: Hãy có lòng xót thương như Chúa Cha. Giáo huấn của Chúa Giêsu thật
sống động: “Hãy thương xót như Cha các ngươi có lòng thương xót” (Lc 6:36). Nơi
lòng thương xót, chúng ta tìm thấy bằng chứng về cách thức Thiên Chúa yêu
thương chúng ta. Ngay cả Con Một, Ngài cũng chẳng tiếc, Ngài trao ban tất cả
cho chúng ta.
Trong Năm thánh này, hành hương là
một trong những việc làm ý nghĩa. Khi hành hương qua Cửa Thánh, chúng ta được mời
gọi sám hối để Lòng Thương Xót Chúa bao bọc và để có lòng thương đối với người
khác như Chúa Cha đối xử với chúng ta (n°14§1).
Bên cạnh việc hành hương, chúng ta
còn phải thể hiện lòng thương xót một
cách cụ thể. Ước muốn cháy bỏng của Đức Thánh Cha là trong Năm thánh
này, chúng ta hãy thể hiện lòng thương xót một cách cụ thể: cho kẻ đói ăn, cho
kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho khách đỗ nhà, viếng kẻ liệt cùng kẻ
tù rạc, và chôn xác kẻ chết; về mặt thiêng liêng: hãy lấy lời lành mà khuyên
người, mở dậy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ dể ta, nhịn
kẻ mất lòng ta, cũng như cầu cho kẻ sống và kẻ chết.
Nếu như thánh Luca ghi lại lời công
bố của Chúa Giêsu vào ngày Sabát ở Hội đường Nagiarét, đoạn Sách Tiên Tri
Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi
đi báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh
ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng
ân của Ðức Chúa” (Is 61: 1-2); thì quả thật, Năm thánh Lòng Thương Xót, chính
là “năm hồng ân của Ðức Chúa” dành cho chúng ta vậy. Lời rao giảng của Chúa
Giêsu nay trở nên hữu hình trong lời đáp trả đức tin của các Kitô hữu ngang qua
những chứng tá về đức ái.
Bên cạnh những chứng từ đức ái, mùa
Chay năm nay sẽ là một thời điểm quý báu, để chúng ta giao hòa với Chúa và với
anh chị em mình qua bí tích Hòa Giải. Quả thật, tái khám phá vẻ đẹp của bí tích
Hòa Giải, cũng là tái khám phá dung mạo lòng xót thương của Chúa. Chúng ta hãy
đặt bí tích Hoà Giải ở trung tâm sáng kiến “24 giờ cho Chúa,” một lần nữa sao
cho bí tích này giúp mọi người chạm vào sự hùng vĩ của lòng thương xót Chúa với
những đôi tay của riêng họ. Với mỗi hối nhân, bí tích này sẽ là nguồn mạch của
bình an nội tâm thật sự.
Cũng trong dịp mùa Chay của Năm
thánh này, Đức Thánh Cha sẽ gửi các Thừa Sai của Lòng Thương Xót đến với mọi
thành phần dân Chúa, với năng quyền tha thứ cả những tội dành quyền giải cho
Tòa Thánh, để hòa giải mọi tội nhân với Chúa, hầu dân Chúa có thể bước vào sự
phong phú sâu xa của mầu nhiệm xót thương. Đây là dịp thuận tiện các tín hữu được
mời gọi quay lại “gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và
tìm thấy ân sủng” (Dt 4:16). Không chỉ là các Thừa sai của Lòng Thương Xót, Đức
Thánh Cha còn muốn khắp nơi và ở mọi hoàn cảnh, các linh mục luôn là dấu chỉ
trước tiên của Lòng Thương Xót (n°17§4).
3.3. Viễn
tượng Năm thánh Lòng thương xót
Đức Thánh Cha Phanxicô cầu mong
thông điệp của lòng thương xót này đến được với tất cả mọi người, và không một
ai có thể thờ ơ với lời mời gọi trải nghiệm lòng thương xót của Chúa. Cách
riêng, Đức Thánh Cha hướng lời mời hoán cải đến những ai có những hành vi đang
làm họ xa cách với ân sủng của Thiên Chúa. Đặc biệt, ngài nghĩ đến những người
nam nữ thuộc về các tổ chức tội phạm. Vì thiện ích của họ, ngài mong muốn họ
thay đổi cuộc sống mình. Lời mời gọi này
cũng được gởi đến những ai trực tiếp hay gián tiếp dính líu vào tham nhũng. Vết
thương mưng mủ vi phạm đến đức công bình này là một tội nghiêm trọng đang kêu
thấu đến trời cao, đang đe dọa chính nền tảng của cuộc sống cá nhân và xã hội.
Chúng ta không thể hướng đến tương lai với niềm hy vọng; và những người nghèo,
những kẻ yếu thế tiếp tục bị chà đạp khi tệ nam tham những này tiếp tục diễn
ra.
Trong Năm thánh Lòng thương xót
này, Đức Thánh Cha mở rộng việc ban các ân xá; bởi lẽ sự tha thứ của Thiên Chúa
không có giới hạn, Người không bao giờ mệt mỏi tha thứ trong những cách thế
luôn luôn mới mẻ và làm cho chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước sự tha thứ đó.
Trong chiều hướng đối thoại, Đức
Thánh Cha khẳng định cả Do Thái Giáo và Hồi Giáo đều xem lòng thương xót là một
trong những thuộc tính quan trọng nhất của Thiên Chúa. Chính vì vậy, Đức Thánh
Cha bày tỏ niềm tin vững chắc rằng Năm Thánh cử hành lòng thương xót này sẽ mở
ra những cuộc gặp gỡ giữa các tôn giáo và những truyền thống tôn giáo cao quý
khác. Ước mong khi những cuộc đối thoại chân thành được mở ra, các tôn giáo sẽ
hiểu biết nhau hơn, sẽ loại bỏ tất cả các hình thức khép kín và thiếu tôn trọng,
sẽ xua tan mọi hình thức bạo lực và phân biệt đối xử.
Kết luận
Ước chi trong Năm Thánh này, giữa
lòng Giáo hội, lời của Chúa được vang lên mạnh mẽ như một thông điệp và như dấu
chỉ của sự tha thứ, sức mạnh, sự trợ giúp, và tình yêu. Xin cho Giáo hội không
bao giờ mệt mỏi mở rộng lòng thương xót, và luôn kiên nhẫn trao ban lòng thương
xót và sự ủi an của Chúa. Chúng ta hãy cùng với cả Giáo hội liên lỷ thưa lên rằng:
“Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân
sâu. Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời.” (Tv 25: 6).
[2] Về lịch sử các năm thánh xc. http://www.cuuthe.com/bao/s162l snthanh. html (truy cập ngày 22.10.2015)
[3] ĐTC Gioan Phaolô II, Thông điệp Dives in Misericordia,
n°2§2.
[4] ĐTC Gioan Phaolô II, Thông điệp
Dives in
Misericordia, n°2§2.
Đăng nhận xét