Giả như tôi nói được
các thứ tiếng của loài người
và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến,
thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,
chũm chọe xoang xoảng...
Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.”
(1Cr 13,1-7).
Dẫn
nhập
Thánh Thần hằng đốt lên ngọn lửa yêu mến trong lòng
mỗi chúng ta; yêu mến chính là đích điểm của hành trình thiêng liêng của mỗi
người. Hạnh phúc đích thực của con người là cảm nhận được Thiên Chúa yêu
thương, đáp lại tình yêu của Người, ở lại trong Người. Các nhà tu đức coi đây
là bước Hiệp Đạo, là đỉnh cao của sự trọn lành. Rabindranath Tagore đã cảm nhận
rất tinh tế điều này:
Người đã tặng cho tôi
tình Người kỳ tuyệt
Người đong đầy thế gian
với bao là quà tặng yêu thương…
Người sẽ nhận lại nơi tôi
một cánh hoa tình yêu nhỏ bé
khi tim tôi tỉnh giấc lúc
bình minh.
Chúng
ta chưa cảm nhận được tình yêu siêu việt như thi hào Tagore, nhưng nhu cầu yêu
thương trong ta là điều rất thật. L. Tolstoi đã viết quyển tiểu thuyết với tựa
đề “Người ta sống bằng gì?” và đây là câu trả lời rốt ráo của ông: “Người ta
sống bằng tình yêu.”
Không
chỉ trong đời sống tâm lý, tình cảm, nhưng trong đời sống thiêng liêng, tình
yêu vẫn là điều cốt yếu làm nên giá trị và ý nghĩa của mọi hành vi nhân linh
đến độ nếu thiếu tình yêu tất cả đều trở nên vô ích. Chúng ta cùng đi vào lối
ngỏ tình yêu ấy. Tình yêu hay đức mến, là sợi chỉ hồng xuyên suốt nẻo đường đức
tin của ta, là nẻo đường nên thánh ngắn nhất, và cũng chính là mối tương quan
ngôi vị giữa ta và Thiên Chúa.
I. Tình yêu: sợi chỉ hồng xuyên
suốt nẻo đường đức tin
1. Tình yêu,
danh xưng của Thiên Chúa
Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu.”[1]
Ngay trong Cựu ước, mặc khải này đã được hiển tỏ. Thiên Chúa đã mặc khải cho
ông Môsê biết tình yêu của Người dành cho dân riêng,[2]
chính vì yêu thương, mà Chúa đã chọn dân,[3]
Chúa đối xử với dân như người chồng đối với vợ,[4]như
người cha chạnh lòng thương con cái[5]
và nếu như chúng ta có cảm thấy đau khổ, thì không phải như thế mà nói rằng
Người chẳng xót thương, vì Người vốn từ bi cao cả.[6]
Một
vài trích dẫn như thế, phần nào có thể cho chúng ta thấy danh xưng và tấm lòng
của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu chúng ta đó là điều hiển nhiên rồi. Thánh Gioan
nói rất rõ: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên
Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm
của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga
4,10).
Vì
Thiên Chúa là tình yêu, nên mọi tình yêu đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, được
Thiên Chúa thôi thúc. Đức Giêsu nói:“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và
những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”.[7]
Người đã đem vào trần gian một thứ lửa đó là lòng mến, là tình yêu. Người đã
dùng chính cuộc đời và mạng sống của mình để cho tình yêu đó được lan toả: “Không
có tình yêu nào cao quý cho bằng hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”[8]
Quả thực, Đức Giêsu đã hy sinh cho đến chết vì một chữ tình đó. Người ta nhìn
cái chết của Chúa Giêsu là đau khổ nhưng chúng ta lại thấy chan hòa niềm vui vì
đó là cái chết do yêu, khổ do yêu. Một khi ta cảm nhận được tình yêu, dám sống
tình yêu như thế, thì chúng ta dù có đau khổ, cũng sẽ cảm được một niềm vui
tuyệt diệu, một vẻ đẹp tinh tuyền nguyên khôi:
Người đã thực hiện trăm muôn điều
kỳ tuyệt
Người
tôi yêu ơi, tuyệt vời thay
Người đã
gởi cho tôi ngọn lửa khổ đau này.
Bởi
hương trầm tôi sẽ chẳng ngát thơm
nếu không đốt cháy
và ngọn
đèn tôi tối mù nếu không được thắp lên.
Khi trí
lòng tôi ngây dại,
cơn u mê
này
phải được xua tan bởi ánh chớp tình Người
và tăm
tối phủ đời tôi
bỗng bùng lên như ngọn đuốc sáng
2. Tình yêu,
linh hồn của mọi công việc
Tôi
chứng kiến cảnh bác đạp xích lô mồ hôi nhễ nhãi giữa buổi trưa hè; tôi biết bác
mệt lắm nhưng vẫn vui vì trong từng giọt mồ hôi ấy là tình yêu bác dành cho gia
đình, cho vợ, cho con. Tình yêu như muối làm cho thức ăn đậm đà hương vị, như
men làm cho hũ bột được dậy men. Cuộc sống thiếu tình yêu, như thức ăn thiếu
muối, nhạt nhẽo, vô vị. Lao đầu vào công việc mà thiếu tình yêu, thì người ta
biến thành người máy. Vợ chồng thiếu tình yêu, thì gia đình trở thành hỏa ngục.
Đời tu thiếu tình yêu, thì tu viện sẽ trở thành ngục thất, chữ “tù” liền với
chữ “tu” một vần! Khi ấy, đời sống chung sẽ ngột ngạt; những giờ kinh nguyện
trở thành gánh nặng; công việc chung trở thành việc “cực chẳng đã”... Tình yêu
là linh hồn của mọi công việc là vậy.
Thánh Phaolô rất xác tín về vai trò của đức ái trong thư 1Cr 13, chúng ta
không cần quảng diễn gì thêm. Chỉ mong rằng những xác tín đó cũng phải là xác
tín riêng của mỗi người chúng ta:
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính,
không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự
gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng
tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (1Cr 13, 4-7).
3. Tình yêu,
dấu chỉ khả thị hình ảnh của
người môn đệ
Những
lời trăn trối cuối cùng của Thầy Giêsu cho các môn đệ, không gì khác hơn là: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu
thương nhau” (Ga 14,35).
Yêu thương là dấu chỉ khả thị hình ảnh của người môn đệ. Trong thời đại ngày
nay, người môn đệ của Đức Giêsu, ngoài việc được mời gọi làm chứng bằng đức
tin, bằng niềm hy vọng, còn phải có khả năng nên chứng tá bằng đức mến. Tình
yêu tự nó hiển lộ, và chẳng có ngôn từ nào sâu thẳm cho bằng ngôn ngữ của tình
yêu, từ trái tim đến trái tim.
Việc làm tự nó có thể
lên tiếng. Vì yêu mến các bệnh nhân nhiễm AIDS, và muốn tìm mọi cách để cứu họ,
bác sĩ Daniel Zagury, thuộc Viện đại học Pierre & Marie Curie ở Paris, đã
đem thuốc chủng AIDS chích vào chính cơ thể mình. Bác sĩ Zagury đã làm thí
nghiệm táo bạo này trung tuần tháng 3.1987. Tuy chưa có được kết quả đầy đủ,
nhưng cuộc thí nghiệm của bác sĩ Zagury cho thấy rằng, mặc dù loại thuốc chủng
mới này không thể ngăn chặn được hội chứng AIDS, hội chứng làm suy giảm và tiêu
diệt hệ thống miễn dịch trong cơ thể, nhưng ít ra thuốc chủng này cũng có được
hai kết quả khả quan:
- Một: có khả năng
gây phản ứng trong cơ thể làm cho cơ thể tạo ra kháng tố chống lại được một vài
loại siêu HIV khác nhau.
- Hai: có thể gọi
được là an toàn, không gây các tác dụng phụ nguy hiểm nào cho người sử dụng.
Để có được hai kết luận ấy, bác sĩ Zagury đã phải
trả giá bằng chính sự liều lĩnh và xả thân của mình. Sức mạnh tình yêu bất chấp
cả sự nguy hiểm. Là người môn đệ, chúng ta có dám mạo hiểm làm chứng như thế
không?
Trong cuộc sống, nhiều khi có những bóng đen quá
lớn che khuất những điều thiện hảo, che khuất ánh sáng ít ỏi cua những chứng tá
Tin mừng. Trong tuần báo Công giáo và dân tộc, số 1517, Đức Giám mục Bùi
Tuần có đăng bài viết “Anh sáng và bóng tối”. Có bóng tối cá nhân gồm mọi thứ
tiêu cực trong mỗi con người; có bóng tối tập thể mang danh truyền thống, ý thức
hệ, quan điểm sống, trào lưu xã hội…; có bóng tối cơ chế núp dưới danh nghĩa
luật lệ, quyền bính… Những bóng tối ấy không có tình yêu, và rất cần phải được
ánh sáng soi rọi. Ánh sáng ấy trước tiên là Chúa Giêsu: “Thầy là ánh sáng đến trong thế gian”(Ga 12,46); thứ đến, là chính
tình yêu phục vụ của những người môn đệ. Khi sống yêu thương đích thực, gương
mặt các môn đệ sẽ trở nên rạng rỡ, phản chiếu ánh sáng thật là Chúa Giêsu. Như
vậy, không phải là điều gì khác, mà chính tình yêu làm nên dấu chỉ khả thị hình
ảnh của người môn đệ Đức Kitô.
II. Tình
yêu: nẻo đường nên thánh ngắn nhất
1. Con đường
thơ bé
Trong danh mục các thánh, chúng ta thấy thứ tự được
sắp xếp như sau: trước tiên là các thánh Tông đồ, rồi đến các thánh tử đạo,
hiển tu, đồng trinh… Dường như con đường nên thánh nào cũng khó, cũng khúc
khuỷu, cũng gian nan, cũng dài thăm thẳm. Có con đường tắt nào để nên thánh
không? Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã khám phá ra con đường thơ bé, con đường
của tình yêu. “Giữa lòng Hội thánh, con xin làm tình yêu.” Con đường này đã
được chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II “imprimatur” bằng việc ghi danh chị
thánh vào hàng tiến sĩ của Giáo hội. Trong một thế giới đề cao khoa học và lý
trí, thì những người quê mùa thất học, chân lấm tay bùn, không có chỗ đứng, và
cũng chẳng sao vươn lên để gặp gỡ Thiên Chúa được. Cuộc đời của họ bỏ đi hết
sao? May thay, Thiên Chúa lại không mặc khải Nước trời cho những kẻ khôn ngoan
thông thái, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.[10]
Nẻo đường thơ bé, có thể nói là con đường tắt dẫn họ vào Nước trời.
Khi chọn cho
mình vị trí là trái tim của Thiên Chúa, những người bé mọn đã tháp nhập cuộc
đời của họ vào chính nguồn mạch sự sống, nguồn mạch tình yêu. Họ không phải khổ
công luyện nhân đức như một thứ “mua thúng bán mẹt,” nhưng tiến thẳng trên
đường hoàn trọn, như kẻ liều lĩnh đem cả gia tài “đổ vào cuộc buôn bán lớn,”
một vốn trăm lời, và chẳng bao giờ sợ phải hao hụt hay tay trắng về không.[11]
Chúng ta cũng được mời gọi đi vào con đường thơ bé,
con đường của tình yêu, con đường hy vọng; để dẫu vẫn còn gian khó vì phận lữ
hành, lòng ta vẫn bật tiếng reo vui:
Thế giới của Người
đang dệt thành lời thơ trong tâm trí tôi,
và niềm vui của Người
thêm âm điệu vào thơ ấy.
Vì thương yêu,
Người cho tôi hết cả thân mình
và rồi Người thấy
trong tôi
2. Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế
Có thể nói tất cả các hy tế đều là quà tặng, nhưng
nếu quà tặng mà không có tình yêu thì sẽ chẳng còn ý nghĩa gì sẽ trở thành đồ
vật đổi chác, hoặc chỉ còn là “ông mất chân giò bà thò chai rượu” mà thôi.
Con
người không thể đến với Thiên Chúa bằng mối tương quan đổi chác hay sòng phẳng.
Cũng như đứa con hàng ngày chỉ biết đưa cho cha mẹ một số tiền, thế là trọn vẹn
trách nhiệm…, nhưng nó không ý thức được chính mình còn đang phải mang ơn cha
mẹ: công chín tháng mười ngày cưu mang, công ba năm bế ẵm cho bú mớm, công
dưỡng dục hằng ngày, và nhất là bao nhiêu tình yêu cha mẹ đã đổ dồn cho nó.
Cũng vậy, tất cả chúng ta đều mắc nợ Thiên Chúa vê sự hiện hữu của mình, nợ
Thiên Chúa ân tình Người hằng tuôn đổ tháng năm.
Việc nhận biết Thiên Chúa, nhận ra tình yêu của Người còn quý giá hơn
muôn vàn lễ vật bởi vì Thiên Chúa thích lòng nhân chứ không cần lễ tế, thích
được còn người nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu. Cũng như cha mẹ sẽ
chẳng vui gì khi đứa con vứt cho mấy đồng bạc rồi phủi tay hết trách nhiệm,
chẳng để ý quan tâm gì đến cha mẹ mình nữa.
Trong đời sống đức tin, không ít khi chúng ta cũng
chẳng khác gì đứa con bất hiếu nọ. Cũng tham dự thánh lễ đều đặn, lo giữ đủ các
giờ kinh nguyện, tĩnh tâm mỗi năm trọn đủ số ngày theo Hiến pháp… thế là lương
tâm an ổn, và lòng chẳng thấy cần phải khắc khoải kiếm tìm, chẳng cần đặt mối
tương giao nào với Chúa, với anh chị em nữa. Chúng ta đã hoàn trọn “lễ tế”, nhưng
Chúa còn đòi cả lòng nhân nữa. Lòng nhân đối với Chúa, lòng nhân đối với anh
chị em tức là Chúa muốn tấm lòng, muốn trái tim yêu mến của chúng ta.
3. Tình yêu, lời đáp trả trọn vẹn
với Thiên Chúa
Khi tìm hiểu những dụ ngôn nói về Nước trời trong
Tin mừng theo thánh Matthêu, đặc biệt là dụ ngôn kho báu và ngọc quý[13]
chúng ta thấy Nước trời quý giá dường nào và con người một khi đã nhận biết,
thì đánh đổi tất cả để có được Nước trời. Tuy nhiên, chúng ta cũng khám phá ra
chiều ngược lại, người đi tìm ngọc đẹp đó, không ai khác mà là chính Thiên Chúa
và viên ngọc quý là mỗi người chúng ta. Khi tìm được con người, Thiên Chúa đánh
đổi tất cả, trút bỏ vinh quang, mang thân tôi lụy… để chiếm cho bằng được viên
ngọc quý đó.
Như thế, không chỉ con người đi tìm Thiên Chúa, mà
đúng hơn Thiên Chúa đi tìm con người; Thiên Chúa luôn chủ động đi bước trước
tìm kiếm và mời gọi con người. Con người chỉ có thể đáp lại lời mời gọi của
Chúa bằng chính tình yêu của mình. Không có tình yêu, mọi lời đáp trả đều là
khiên cưỡng. Chỉ có tình yêu mới có thể đáp trả lại tình yêu. Thiên Chúa đã yêu
con người, đã say mê con người, đã cất công tìm kiếm con người và đợi chờ con
người đáp trả tình yêu ấy.
III. Tình yêu: mối tương quan ngôi vị
Tình yêu luôn luôn phải có hai chiều, phải bình đẳng. Tình
yêu không thể là mối tương quan nô lệ chủ – tớ. Tình yêu là lời thì thầm giữa
hai chủ thể, hay nói cách khác, đó chính là mối tương quan ngôi vị. [15]
Dù là tình yêu giữa con người với con người hay tình yêu giữa con người và
Thiên Chúa, thì chỉ trong mối tương quan ngôi vị này tình yêu mới có thể triển
nở và trở nên sung mãn. Con người là một hữu thể có ngôi vị; theo ý nghĩa này
ngôi vị con người có thể tương quan với ngôi vị Thiên Chúa. Thánh Tôma Aquinô
nhấn mạnh đến khía cạnh tương quan nhất là tương quan bản thể và lập hữu nơi
Thiên Chúa.[16]
Xét trong mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa,
tính cách ngôi vị lại càng trở nên hiện sinh độc đáo và cá vị hơn. Con người
hoàn toàn tự do trong các chọn lựa. Con người có thể chọn lựa hay khước từ
Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng tự mặc khải mình là Đấng tự do, là Đấng quan tâm
đến những ưu tư của con người, và có khả năng đi vào cuộc đối thoại. Thiên Chúa
đối thoại với con người bằng ngôn ngữ của con người và qua chính lịch sử cuộc
đời của họ và cũng qua cuộc đời ấy, con người diễn tả sự tự do và tình yêu của
mình. Chính trên nền tảng tự do này phẩm giá con người được nâng cao, được tự
do đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, không phải với tư cách là người nô lệ
phải vâng phục nhưng với tư cách là bạn hữu[17]
và hơn nữa với tư cách là con, là nghĩa tử.[18]
2. Tình yêu,
lời mời gọi sống tinh thần nghĩa tử
Trong Tin mừng, và đặc biệt trong các thư của
thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma và Galát, chúng ta thấy người Kitô hữu được ban
ân sủng để vượt qua chế độ lề luật, sống chế độ ân sủng, sống sự tự do hào hùng
của con cái Thiên Chúa.
Thật vậy, thánh Phaolô khẳng định: “Tội lỗi
sẽ không còn quyền chi đối với anh em, vì anh em không còn lệ thuộc vào lề
luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng.”[19]
Trong chế độ ân sủng, điều cao quý hơn cả là con người được đồng thừa tự với
Đức Kitô, được lãnh nhận Thần Khí để trở nên nghĩa tử, trở nên con cái của
Thiên Chúa:
Để
chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự
trong lòng anh em mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi! Vậy anh em không còn phải là nô lệ
nữa, nhưng là con, mà đã là con, thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.[20]
Một khi được lãnh nhận Thần Khí để trở nên con
cái Thiên Chúa, chúng ta được tự do. Đó không phải chỉ là thứ tự do đối với tội
lỗi nhưng còn là tự do với những ràng buộc của lề luật,[21]
tự do với những thế lực trần gian. Khi đặt mình vào mối tương quan này với
Thiên Chúa, con người đứng thẳng, không sợ hãi, không sống như tên nô lệ trong
nhà chủ nhưng là con cái trong nhà. Lúc này sự sợ hãi được thay thế bằng lòng
yêu mến, hình thức sống đạo nệ luật hoặc theo kiểu “vay - trả” được thay thế
bằng thái độ sống đức tin trong sự tín thác và đặt mọi mối tương quan trong
tình bác ái. Thần Khí sẽ dẫn con người đến những chân trời tự do đích thực[22]
và chỉ trong tự do, thứ tự do hào hùng của con cái Chúa, con người mới có thể
băng mình lên cao, vượt qua được những rào cản của đầu óc chật hẹp, những thứ
luân lý uý kỵ, những kiểu sống đạo luồn lách, tính toán, hay thái độ sợ hãi co
cụm… Trong nhà cha, con người tìm lại được vị thế cao trọng của mình, vị thế là
con chứ không phải nô lệ:
“Quả thế, thưa anh em, anh em đã được kêu gọi
để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt,
nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau”.[23]
Như vậy, tất cả luật lệ chỉ còn là phương tiện
để đạt đến đức ái, mà đức ái trọn hảo là chính Thiên Chúa. Đức ái trở thành
đích điểm, và cuộc đời mỗi người chỉ nên trọn khi đạt đến đức ái vẹn toàn.
3. Tình yêu, ngọn lửa hồng rực cháy
Khi nói tình yêu là ngọn lửa hồng rực cháy,
chúng ta có thể liên hệ ít nhất đến ba khía cạnh: thứ nhất - sức mạnh của tình
yêu; thứ hai - tình yêu Thiên Chúa không loại trừ tình yêu nhân loại; thứ ba -
tình yêu luôn đòi hỏi sự trọn vẹn.
Diễm Ca
trình bày cho chúng ta khía cạnh thứ nhất:
Lửa
tình là ngọn lửa bùng cháy,
một ngọn lửa thần thiêng.
Nước lũ không dập tắt nổi
tình yêu
sóng cồn chẳng tài nào
vùi lấp.[24]
Bằng ngôn ngữ diễn tả tình yêu nam nữ, sách Diễm Ca đã nhận chìm con
người vào bể tình yêu vô tận của Thiên Chúa. Trong bể tình ái ấy, con người cảm
nghiệm và khao khát Thiên Chúa cách mãnh liệt, một khao khát muốn thuộc trọn về
người mình yêu và người yêu thuộc trọn về mình.[25]
Con người khao khát và tìm kiếm Thiên Chúa bằng
nhiều cách. Có người khởi đi từ những nẻo đường trần thế, từ đó khám phá ra
Thiên Chúa và yêu mến Người;[26]
có người khởi đi từ căn nhà nội tâm, từ đó khám phá Thiên Chúa hiện diện và yêu
mến Người.[27]
Điểm xuất phát của mỗi người mỗi khác, nhưng tất cả họ đều gặp nhau ở điểm khám
phá ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người, và một khi đã cảm nhận được
tình yêu này, con người không thể không đáp trả.
Khía
cạnh thứ hai, tình yêu Thiên Chúa không loại trừ tình yêu nhân loại. Thiên Chúa
không đặt con người vào sự chọn lựa mang tính loại trừ. Con người vừa yêu Thiên
Chúa, đồng thời phải yêu tha nhân nữa.
Tình yêu Chúa như ngọn lửa hồng rực cháy, chúng ta có thể làm cho ngọn lửa ấy
cháy lan ra cả một cánh rừng; và dầu có lan rộng tới đâu, ngọn lửa Thiên Chúa
cũng không vì thế mà bị lụi tàn hay dập tắt. Do vậy, không thể nói đến tình yêu
Thiên Chúa mà không đề cập đến tình yêu đồng loại. Chúng ta chỉ có thể nói được
mình yêu Thiên Chúa khi chúng ta biết yêu thương chính mình, yêu thương đồng
loại và yêu thương công trình sáng tạo của Người. Thánh Gioan nói: “Ai không
yêu thương người anh chị em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy được”.[28]
Vì vậy, tìm kiếm và thăng tiến những điều thiện hảo nơi tha nhân và nơi công
trình sáng tạo, là trường học dạy ta biết yêu mến Thiên Chúa, Đấng sáng tạo
muôn vật muôn loài.
Khía cạnh thứ ba, tình yêu luôn đòi hỏi sự trọn vẹn. Thiên Chúa không
ghen tỵ với tình yêu con người, nhưng Người luôn mời gọi con người hoàn trọn
tình yêu của mình: hãy yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí
hồn; đồng thời cũng phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả mọi lề luật
của đạo thánh Chúa đều quy về đức ái: “Yêu thương là chu toàn lề luật vậy”.[29]
Kết luận
Chỉ
cần một phút dừng chân để chiêm ngắm cuộc sống, chúng ta sẽ khám phá ra muôn
điều kỳ diệu; và có lẽ điều kỳ diệu nhất chính là huyền nhiệm tình yêu. Vì yêu,
Thiên Chúa sáng tạo thế giới này; vì yêu, chúng ta được hiện hữu; vì yêu, Thiên
Chúa đã làm người đã chịu chết nhục nhã để cứu độ chúng ta; vì yêu, con người
tiến lại gần nhau, hy sinh cho nhau... Tóm lại, tình yêu là sự sống, là sự sáng
tạo, là ý nghĩa của kiếp nhân sinh này. Tình yêu có sức phục sinh con người và
cứu độ thế giới.
Thiếu
vắng tình yêu, trần gian sẽ là hoả ngục, con người sẽ trở thành lang sói của
nhau. Kiếp nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, mong sao từng khoảnh khắc
ngắn ngủi của cuộc sống sẽ là những khoảnh khắc yêu thương. Giai điệu yêu
thương chỉ có được khi từng nốt nhạc yêu thương được tấu lên; mỗi chúng ta phải
là một nốt nhạc yêu thương trong bản trường ca cuộc sống mến thương này.[30]
Tôn sư Eckhart, một nhà thần bí Đa Minh nói rằng:
Tình
yêu tương tự như lưỡi câu của ngư phủ. Ông ta không thể bắt được cá nếu cá
không cắn câu. Ai bị móc vào lưỡi câu ấy thì bị ‘chộp’ nhanh đến nỗi chân tay,
miệng lưỡi, mắt mũi, trái tim và tất cả những gì của con người đó đều chỉ thuộc
về một mình Thiên Chúa. Hãy chăm chú nhìn lưỡi câu đó để chúng ta ‘được bắt’
một cách may lành vì càng bị bắt giữ bao nhiêu, các bạn càng được tự do bấy
nhiêu.[31]
[1] 1Ga 4,8.
[2] Xc. Xh 34, 4-9.
[3] Xc. Đnl 7, 6-11.
[4] Xc Ed 16, 1-14.
[5] Xc. Hs 11, 1-9.
[6] Xc. Ac 3, 32.
[7] Lc 12, 49.
[8] Ga 15,13.
[9] Lover’s Gift and Crossing, tr. 66-67 (Trích lại trong Lê Quang
Phúc, Rabindranath Tagore, Trực cảm
tâm linh, tr.13).
[10] Xc. Lc 10, 21-24.
[11] Đây là kiểu nói ví von của thánh Têrêsa.
Thánh nữ cho rằng những nỗ lực sửa mình, tập luyện nhân đức này nọ, chỉ như là
buôn thúng bán mẹt; còn nếu biết đặt trọn tình yêu vào Chúa, thì mới là làm ăn
lớn, một vốn trăm lời, và được bảo đảm không bao giờ thất bại hay phá sản.
[12] R.
Tagore, Gitanjali LXV.
[13] Xc.
Mt 13, 44-46.
[14] Xc.
Phạm Quốc Văn, OP. Trên đường Emmaus, mục tương quan ngôi vị, tr.
116-122.
[15] “Ngôi vị” là một hạn từ được diễn tả
theo lối Kinh viện. Boèce định nghĩa: “Ngôi
vị là bản thể cá thể thuộc bản tính có lý trí” (rationali naturae invidua
subtantia). Xc. Nguyễn Trọng Viễn, OP. Gặp gỡ chính Chúa, tr. 155.
[16] Xc. S.T. I, q.29, a.4.
[17] “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa,
vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả
những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15).
[18] Chân lý này không phải ai cũng nhận ra.
Rất nhiều tín hữu chỉ dừng lại trong mối tương quan sợ hãi; họ không thấy Thiên
Chúa là Cha yêu thương, mình là con, mà chỉ sợ Chúa phạt, sợ hoả ngục…
[19] Rm 6,14 tt.
[20] Gl 4, 6-7.
[21] Xc. Cv 15, 1-31.
[22] Xc.
Ga 8, 31-59.
[23] Gl 5,13.
[24] Dc 8, 6b-7a
[25] Nhiều lần sách Diễm
Ca đã dùng kiểu nói này để diễn tả công thức giao ước: “Tôi thuộc trọn về
người tôi yêu, người tôi yêu thuộc về tôi trọn vẹn”.
[26] Đại diện cho nẻo đường khám phá này là
thánh Tôma Aquinô.
[27] Có thể coi đây là con đường của thánh
Augustinô, con đường trở về nội tâm của mình.
[28] 1Ga 4,20.
[29] Rm 13,10.
[30] Xc. Phạm Quoc Văn, OP., Cuộc sống
tròn đầy, 2003, tr. 160.
[31] M. Walshe Meister Eckhart, vol.1, London , tr. 46-47.
Đăng nhận xét