Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến,
giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha.
Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian,
và Người yêu thương họ đên cùng.
Nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn,
cởi áo ngoài ra và lấy khăn mà thắt lưng.
Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn
thắt lưng mà lau.
(Ga13,1.4-5)
Quốc Văn, OP.
Dẫn nhập
Chúng cùng nhóm lên ngọn lửa phục vụ. Đức Giêsu
yêu thương những kẻ thuộc về mình và yêu thương họ đến cùng. Khi biết giờ đã
đến, giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Cha, Người rửa chân cho họ trong bữa Tiệc
Ly và ban cho họ giới răn yêu thương.[1] Hành động rửa chân cho các
môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành một biểu tượng rất đẹp, biểu tượng của tình
yêu thương, biểu tượng của lòng khiêm hạ, biểu tượng của sự hy sinh quên mình.
Đức Giêsu đã thể hiện nghĩa cử yêu thương ngay trong lúc có thể nói là
bi đát nhất, trong bữa tiệc chia tay, lúc người môn đệ thân tín sắp phản bội
thầy, lúc các môn đệ sắp tan tác mỗi người mỗi ngả, lúc Đức Giêsu đang cận kề
sự chết. Việc Đức Giêsu làm đã trở nên bài học cho mỗi người chúng ta, Người đã
đốt lên ngọn lửa yêu thương phục vụ. Phục vụ là quên mình, phục vụ là lẽ sống,
phục vụ là niềm vui, phục vụ là ân cần với cuộc đời, phục vụ là trân trọng con
người, phục vụ là nẻo đường mỗi môn sinh của Đức Giêsu được mời gọi để vươn
tới.
I. Phục
vụ: xác tín đầu tiên và căn bản của người môn đệ
1. Khởi đi từ những lối sống phản chứng
Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta
một linh đạo về việc phục vụ: “Ai làm đầu
thì hầu thiên hạ, ai làm lãnh tụ thì phục vụ anh em.”[2] Những ai bước theo Đức
Giêsu, đều được mời gọi đi vào “linh đạo phục vụ”đó. Tuy nhiên, không thiếu
những môn đệ của Đức Giêsu lại thích đi nẻo đường khác, thay vì phục vụ thì lại
muốn được phục vụ; thay vì đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, thì lại đòi
hỏi người khác cung phụng mình; thay vì trở nên bạn hữu mọi người, thì chỉ chọn
lựa một số người giàu có; thay vì dùng vật chất làm phương tiện để phục vụ việc
loan báo Tin mừng, thì lại lo xây đắp thành quách để hưởng thụ…
Chúng ta khởi đi từ cái nhìn có
vẻ bi quan như thế, để không phải trở thành cụ già ca cẩm, khó tính, xét nét,
bất mãn kinh niên, nhưng để nhắc nhở cho chính bản thân về con đường mình đã và
đang lựa chọn, để nuôi dưỡng một tinh thần phục vụ vô vị lợi, để hun đúc một
tinh thần Tông đồ sẵn sàng xả thân vì tha nhân, để mỗi ngày hình ảnh của người
tu sĩ càng trở nên dấu chỉ sống động của một Đức Giêsu đang cần mẫn phục vụ con
người và lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa Cha.
Hơn nữa, nêu ra những lối sống
phản chứng, để chúng ta ý thức tránh đi vào vết xe đổ của ai đó, và nỗ lực làm
cho con người mỗi ngày một thăng tiến hơn, sống xứng với nhân phẩm của mình
hơn, xứng đáng là con cái Thiên Chúa hơn.
Chúng ta đang được mời gọi phục
vụ trong vai trò ngôn sứ, giảng thuyết, và sống chứng tá. Để sống trọn được ơn
gọi của mình, chúng ta hãy học nơi Đức Giêsu: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ”.
2.
Nhận diện
miếng mồi ngon của lời mời
gọi hưởng thụ
Xã hội chúng ta ngày càng văn mình, vật chất ngày càng dồi
dào hơn, con người được mời gọi, kích thích hưởng thụ những thành quả của nền
văn minh đó. Do vậy, việc chọn lựa và sử dụng tiền bạc, vật chất là thách đố
khôn cùng. Sống trong thế giới như thế, nền văn hóa hưởng thụ đang kích thích
sự thèm khát của con người, chúng ta khó có thể nói “không”.
Có nhiều người lầm tưởng chiều cao hạnh phúc được đo bằng
những hố sâu thèm khát được lấp đầy. Thực ra khát khao chẳng bao giờ được hoàn
toàn thỏa mãn. Giáo lý nhà Phật coi đây là căn nguyên của khổ lụy, muốn hạnh
phúc phải triệt tiêu mọi tham vọng, phải buông xả. Hạnh phúc không hệ tại ở
những gì mình có, cũng không thể đổi chác hay mua bán bằng tiền bạc. Chúng ta
có thể trang bị cho mình đầy đủ mọi tiện nghi, nhưng biết đâu tâm hồn vẫn trống
vắng, không thể lấy chi để lấp đầy.
Nhiều khi chúng ta rất dễ dàng đồng hóa ham muốn và nhu
cầu. Thực ra, hai lãnh vực này có sự khác biệt rõ ràng. Ham muốn của chúng ta
có thể vươn đến vô cùng; còn nhu cầu, có lẽ khiêm tốn hơn; nhiều khi người ta
bị cuốn hút vào nhu cầu giả tạo hơn là thỏa mãn nhu cầu thực sự của bản thân
mình. Trên phương tiện thông tin báo chí, truyền thanh, truyền hình, nhiều sản
phẩm được phơi bày kích thích lòng ham muốn của các “thượng đế.” Tất cả đều để
phục vụ con người, giúp con người sống tốt hơn, nhưng mặt trái, nó cũng có thể
biến con người thành một thứ nô lệ cho hưởng thụ, nô lệ cho một thứ tự do biến
chất của mình.
Điều quan trọng chúng ta phải phân định đâu là nhu cầu thực
sự cần thiết phải đáp ứng, đâu là nhu cầu giả tạo đang đòi được thỏa mãn cái
tôi ích kỷ của mình. Nhiều khi sự thỏa mãn về thể chất lại tỉ lệ nghịch với
những sung mãn của tinh thần. Khi mọi nhu cầu của thân xác quá đầy đủ, coi
chừng tâm hồn lại bị khoét sâu trong sự trống vắng ý nghĩa sống, trống vắng đời
sống tinh thần.
Cuộc đấu tranh
bản thân với cơn cám dỗ hưởng thụ thật không đơn giản. “Vũng lầy êm ái” người
ta lại cứ thích ngã vào, và càng khó hơn khi hưởng thụ đội lốt tự do, con người
tôn thờ thụ tạo lúc nào cũng không hay biết.
3. Lời mời gọi cúi mình rửa chân cho anh chị
em
Để có thể
trả lời không với lời mời gọi hưởng thụ, chúng ta phải học biết cúi mình rửa
chân cho nhau. Rửa chân, hay phục vụ, có thể nói đó là những từ ngữ rất khiêm
tốn, rất đẹp diễn tả tính cách của một người môn đệ. Tuy nhiên, trong xã hội
chúng ta, ngôn từ nhiều khi bị lạm dụng. Từ ngữ “phục vụ” trở nên phổ biến và
được dùng trong nhiều lãnh vực, đặc biệt trong lãnh vực quảng cáo, thương mại,
du lịch… Bản chất của việc phục vụ lúc này là một thứ dịch vụ, một sự sòng
phẳng “tiền trao cháo múc”, một thứ ngôn ngữ tiếp thị “ngọt đến xương” nhưng
chủ yếu nhằm moi hầu bao của những “khách hàng là Thượng Đế”.
Chúng ta được
mời gọi phục vụ trong rất nhiều lãnh vực, và dĩ nhiên cái bẫy đã được giăng sẵn
ở trên có nguy cơ ngoặm vào chân chúng ta lúc nào mà ta không biết. Vẫn sử dụng
ngôn từ là phục vụ, nhưng cung cách lại mang nặng tính “kinh tế thị trường,”
vẫn là công việc “rửa chân” nhưng chỉ chọn rửa những “chân vàng, gót ngọc” mà
thôi.
Ước mong rằng,
mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu, khi chúng ta biết chân
thành rửa chân cho nhau; rửa chân trong thái độ khiêm tốn, ân cần, hoà nhã; và
luôn giữ thái độ trân trọng, nâng niu “bàn chân cuộc đời,” bàn chân ấy không
phải chỉ là những “chân vàng, gót ngọc” mà còn là những bàn chần xù xì, thô
nhám, và chai xạm nữa.
II.
Phục vụ:
dấu chỉ sự thăng tiến trong đời sống
thiêng liêng
1. Càng phục vụ, càng nên giống Đức Giêsu
Muốn phục vụ
người khác, trước tiên chúng ta phải cảm nhận được Thiên Chúa phục vụ chúng ta.
Trước khi các Tông đồ được mời gọi phục vụ, các ông phải để cho Chúa rửa chân
trước. Chúng ta không quan niệm phục vụ như một chức năng, một công chức, nhưng
tất cả phải bắt nguồn từ tình yêu, từ sự phục vụ của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô
rất xác tín vào công việc phục vụ của mình:
Vì Thiên
Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên chúng tôi không sờn
lòng nản chí. Trái lại chúng tôi khước từ những cách hành động ám muội, đáng
xấu hổ, và không dùng mưu mô mà xử trí, cũng chẳng xuyên tạc lời Thiên Chúa,
nhưng chúng tôi giãi bày sự thật; và bằng cách đó, chúng tôi để cho lương tâm
mọi người phê phán trước mặt Thiên Chúa… Chúng tôi không rao giảng chính mình,
nhưng, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là
tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu.[3]
Đức Giêsu đến
để phục vụ và hiến dâng mạng sống cứu độ con người, chứ không phải để được phục
vụ;[4] cho nên ai cảm nhận được
tình thương, noi gương Người mà phục vụ, kẻ ấy càng trở nên giống Thầy mình
hơn. Thánh Phêrô khuyên chúng ta: “Ơn
riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác.
Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của
Thiên Chúa”.[5]
Công việc phục vụ của chúng ta muôn màu muôn vẻ. Có điều chúng ta phải phân
biệt, đừng đồng hoá mình với sứ vụ, công việc thì vô biên, nhưng chẳng ai có
thể cứu độ được cả thế giới!
2. Quảng đại đảm nhiệm công việc của cộng đoàn
Một trong
những điều cụ thể nhất trong việc phục vụ, là chúng ta quảng đại đảm nhận những
công việc của cộng đoàn. Con người ta dễ có thái độ “việc nhà thì nhác, việc
chú bác thì siêng”. Thánh Augustinô dạy chúng ta:
Đừng ai làm vì tư lợi, nhưng hãy làm mọi việc vì công ích, và làm một
cách chăm chỉ và siêng năng nhanh nhẹn hơn khi làm cho riêng mình. Vì đức ái,
như đã được viết, “không tìm tư lợi”, phải hiểu là nhân đức ấy đặt công ích
trên tư lợi, chứ không phải đặt tư lợi trên công ích.
Vậy, càng lo cho công ích hơn tư lợi bao nhiêu, anh em càng thấy mình
tiến bộ về đàng nhân đức ấy bấy nhiêu. Do đó, trong mọi nhu cầu tạm thời, thì
đức ái luôn tồn tại phải chiếm ưu thế.[6]
Một trong những
khó khăn mà anh chị em trẻ chúng ta đang gặp phải, là rất khó cộng tác với nhau
trong sứ vụ. Công việc phục vụ bị phân mảnh, hoặc cá nhân hóa, cộng đoàn mất
dần tính cách giảng thuyết. Nên nhớ rằng, việc giảng thuyết của chúng ta mang
tính cộng đoàn, chứ không phải tính cá nhân. Chính sự hiện diện, phục vụ, gương
sáng của cộng đoàn là một lời giảng thuyết.
3. Phục vụ với trái tim yêu mến
Đức cố Giáo
hoàng Gioan XXIII, trong một lần tiếp xúc với giới trẻ thế giới, người đã nhắc
nhở: “Bất cứ đi đến nơi đâu, các bạn hãy mang theo trái tim của mình.” Công
việc phục vụ của chúng ta chỉ có ý nghĩa và giá trị cứu độ khi chúng ta làm với
lòng mến. Không có đức mến, tất cả công việc phục vụ đều trở nên vô ích.[7]
Lòng mến
vừa là động lực, vừa là mục đích của mọi công việc. Đứa con vì yêu mến cha mẹ,
nên chịu khó lam làm, thức khuya dậy sớm phụ cha mẹ kiếm tiền nuôi dạy các em.
Hành động đó của đứa con thật là tuyệt vời, bởi vì nó xuất phát từ tình yêu;
khác hẳn với hành động của đứa con cũng quần quật từ sáng đến tối, nhưng lại cố
gắng dành dụm để làm của riêng, và chẳng để ý gì đến cha mẹ hay những đứa em
nhỏ dại.
Khi yêu thương,
người ta có muôn vàn sáng kiến để phục vụ. Khi coi cộng đoàn là chính gia đình
của mình, chúng ta sẽ có thái độ sống khác; còn nếu coi cộng đoàn là nơi tạm
bợ, chốn ta dừng chân rồi lại lên đường, thì việc phục vụ của chúng ta chẳng
thể nào nói được là sáng kiến của tình yêu.
Bên cạnh
chúng ta vẫn còn nhiều gương sáng sống động, có gương sáng của bậc vĩ nhân như
Mẹ thánh Têrêsa Calcutta; có gương sáng của những người chị anh/em đang cùng ta
chia sẻ cuộc sống, có gương sáng của những người hy sinh phục vụ trong thầm
lặng, tất cả những gương sáng ấy như muốn nhắc nhở chúng ta hãy sống tử tế hơn
mỗi ngày, biết đón nhận cuộc sống bằng tình yêu, biết đưa tình yêu vào cuộc
sống, biết sống để yêu, và biết yêu để sống.
III.
Phục vụ: lẽ sống hay khẩu hiệu?
1. Phục vụ: niềm vui của đời dâng hiến
Thời đại
chúng ta, thời đại của quảng cáo thông tin, có quá nhiều khẩu hiệu, biểu ngữ;
có những khẩu hiệu chỉ trống rỗng với một mớ ngôn từ hoa mỹ, có những khẩu hiệu
trở thành khuôn mẫu bắt buộc, có những khẩu hiệu mê hoặc lòng người. Dần dà,
ngôn từ bị giảm thiểu giá trị, bị đặt lại vấn đề. Nhiều tư tưởng rất hay, quyết
định rất táo bạo, xác tín rất mạnh mẽ, nhưng nếu chỉ là những dòng chữ chết,
thì những điều hay ho ấy nào có ý nghĩa gì.
Trong đời sống
dâng hiến của chúng ta, làm sao phải toát lên niềm vui, niềm vui của những con
người phục vụ. Một khi xác tín phục vụ là lẽ sống chứ không phải là tấm bình
phong che chắn, là tấm áo mặc bên ngoài, thì chúng ta sẽ cảm được phục vụ là
niềm vui của đời dâng hiến. Niềm vui đó nhẹ nhàng thanh thoát tựa chúng ta ngắm
cảnh thanh bình của một buổi hoàng hôn, như chiêm ngắm những cánh hoa rạo rực
muôn màu của buổi bình mình khi sương đêm còn đọng trên búp lá. Niềm vui rất
nhẹ, rất tự nhiên, rất an bình. Cũng như ông bố gò lưng đạp xích lô suốt một
ngày mỏi mệt, nhưng lòng ông vẫn vui khi quây quần bên vợ con trong bữa cơm
chiều thanh đạm, bữa cơm được đổi lấy bằng chính những giọt mồ hôi và nước mắt
của ông.
Để cảm nghiệm
được cuộc sống, Khang Hy đã phải hoá trang vi hành thì mới thấu đạt được thế
thái nhân tình; nếu chúng ta cứ mãi an ổn trong vỏ ốc đời mình, chúng ta sẽ
chẳng bao giờ hiểu được những lẽ vui buồn của kiếp nhân sinh, chẳng bao giờ có
được niềm vui thực sự vì đã quên mình, chẳng bao giờ có thể làm sáng lên được
bóng hình Đức Giêsu vẫn đang yêu thương và phục vụ trần thế.
2. Trách
nhiệm với ai khác trong cuộc đời mình
Chúng ta hãy nhìn một người đã có gia đình và
con cái. Khi còn độc thân, anh/chị chỉ biết có bản thân mình, thích làm gì thì
làm, thích đi đâu thì đi, ăn uống gì mặc thích; thế nhưng khi lập gia đình,
trung tâm cuộc đời anh/chị không phải là chính bản thân mình nữa, nhưng là gia
đình, là vợ là chồng, là con cái. Làm gì, đi đâu, chị cũng cũng bị cái “trung
tâm cuộc sống” ấy chi phối.
Khi tuyên khấn, chúng ta “kết hôn” với Hội
dòng. Thế nhưng rất nhiều khi trung tâm cuộc sống của chúng ta không phải là
một “gia đình mới,” chúng có thể vẫn là chàng thanh niên hay cô gái ấu trĩ, vẫn
nhởn nhơ và vô trách nhiệm với gia đình Hội dòng của mình.
Một trong những nét huấn luyện của Anh Em Đa
Minh là tôn trọng sự tự do cá nhân và để cho anh em trưởng thành. Tự do và
trưởng thành là một lối mở bát ngát để cho chúng ta thi hành sứ vụ, nhưng đó
cũng là con dao hai lưỡi, có thể gây thương tích cho chính người đang sử dụng
dao. Chúng ta có thể trở thành một người rất tự do, rất trách nhiệm với công
việc chung, và làm thăng tiến cộng đoàn; nhưng chúng ta cũng có thể trở thành
kẻ lạm dụng tự do, thích trốn chạy, và làm trì trệ cộng đoàn. Trong cộng đoàn,
có những anh/chị em chỉ hiện diện như cái bóng thoắt ẩn thoắt hiện; điều này cho
thấy có thể cộng đoàn đối với anh/chị em đó chưa phải là chốn an vui; hay chính
bản thân anh/chị em đó còn đang phải vất vả giằng co, chọn lựa...
Trách nhiệm với ai khác trong cuộc đời hay là
một sự tự do và trưởng thành trong trách nhiệm, là điều mỗi anh chị em chúng ta
đang khát vọng và nỗ lực vươn tới.
3. Nhìn
lại chính bản thân
Càng văn minh
hiện đại, con người càng sống hấp tấp, vội vàng, càng bị kẹt vào cái bẫy thời
gian giăng sẵn, kẹt vào những lối nhìn chủ quan và phiến diện. Trong cung cách
phục vụ, chúng ta rất cần dừng lại và lắng nghe. Muốn phục vụ tốt, hãy tạm
ngừng hết mọi công việc, dừng chân lại để ngắm xem mình đang làm gì? Làm đúng
hay làm sai? Làm với mục đích nào? Đây là lúc nới lỏng cái bẫy thời gian vô hồn
của mình ra để có một cái nhìn mới mẻ về cung cách phục vụ, về cách sống của
chúng ta, về những gì chúng ta còn dính bén và sợ hãi.
Chúng ta được
mời gọi phục vụ, nhưng không khéo công việc lại đè bẹp chúng ta do những lối
đánh giá con người theo hiệu năng công việc. Con người hôm nay đang mắc phải
căn bệnh thời đại, bệnh “sao,” bệnh “thành tích.” Chúng ta hãy nhìn lại cung
cách phục vụ của mình xem chúng ta đang làm những công việc ấy vì mục đích gì?
Chúng ta làm vì sứ vụ, vì cộng đoàn, hay là vì vòng hào quang của riêng mình?
Nếu không khởi đi từ ý hướng tốt, những việc làm tích cực của chúng ta có thể
sẽ mất đi ý nghĩa của việc phục vụ đích thực.
Để kiểm điểm
điều này, chúng ta hãy chứng kiến cuộc tranh luận giữa cây nến và lẳng hoa được
đặt bên bàn thờ. Cây nến bực bội và phàn nàn vì lẳng hoa đã che hết ánh sáng,
làm cho sự hiện diện của nến trở nên mờ nhạt, thừa thãi. Còn lẳng hoa thì đau
khổ vì cho rằng ai cũng là phục vụ Chúa thôi, nhưng tai sao nến lại thiêu đốt
hết cả hoa, làm cho hoa phải ủ rũ héo tàn như thế.
Cả hai đều tự
hào vì mình đang làm công việc phục vụ Chúa, nhưng không biết Chúa có vui không
khi thấy cả hoa và nến đều mang khuôn mặt rầu rĩ đứng bên cạnh bàn thờ!
Thay lời kết
Thay lời kết,
xin được kể hầu anh/chị em câu truyện, trích trong cuốn Let Go of Pear,
của tác giả Carlos Valles.
Hôm đó, khi
đang đi bách bộ trong một khu rừng, ông tình cờ thấy một con chim đang đậu trên
cành, thân nó cứng đờ ra như bị thôi miên, nó muốn bay lên mà bay không nổi,
cái mỏ nó run lập cập vào nhau không cách nào hót nổi. Ông lấy làm lạ, tò mò
đến quan sát để tìm ra lý do. Thì ra, ở dưới gốc cây, có một con rắn hổ mang
đang cất cao cổ, phun khì khì, như toan tính phóng lên. Con rắn biết sức mạnh
của nó. Nó có thể đe dọa làm con chim khiếp sợ. Còn con chim thì có cả một bầu
trời bao la và đôi cánh mạnh mẽ, nhưng lại không thoát nổi sự sợ hãi đang đe
dọa của con rắn.
Thấy cảnh tượng đáng thương và tội nghiệp, ông Carlos ho lên mấy tiếng.
Con rắn thấy tiếng động của loài người liền rụt cổ xuống, có vẻ thèm thuồng rồi
bò đi. Con chim sực hoàn hồn lại, nó nhận ra một điều mà trong cơn sợ hãi tột
cùng nó đã đánh mất. Đó là niềm tin vào chính mình, nhận ra rằng con rắn thì ở
đàng xa, mà nó thì có đôi cánh, chỉ cần vỗ cánh bay lên thì con rắn đâu có làm
gì được. Tiếng ho, tiếng hắng giọng của ông Carlos đã làm cho con chim tỉnh
lại, ý thức về đôi cánh của nó và bầu trời trong xanh. [8]
Anh chị em
chúng ta cũng thế, có đủ mọi điều kiện như con chim để bay lên bầu trời cao
xanh của sự tự do, thánh thiện, và phục vụ, nhưng tại sao chúng ta vẫn không
bay lên được? Chẳng những không bay lên được mà sợ rằng sẽ rơi xuống thảm bại
vào miệng con rắn độc đang nằm chờ sẵn ở gốc cây.
Có cánh chưa
hẳn đã bay lên được nếu anh còn cứ để ý đến con rắn kia. Phải thành thật, phải
khiêm tốn để tìm cho bằng được rắn đang nằm ở đâu: Trong phòng, trong sách vở,
trong hình ảnh, trong túi tiền, trong xe cộ, trong địa vị, trong tương quan? Có
nhiều loại rắn, nhưng rắn nào cũng làm cho chim sợ mà không bay được.
Tất cả mọi sự
dính bén đều trói buộc sự tự do phục vụ của chúng ta. Do đó mà Chúa tuyên bố: “Ai muốn theo thầy hãy từ bỏ mình, vác thập
giá mình mà theo.” Đó là cung cách đích thực của người môn đệ Đức Giêsu,
người tôi tớ phục vụ anh chị em mình.
[1] Xc. Ga 13,
1-17.
[2] Xc. Mt
23,8-12; Mc 9,35-37
[3] 2Cr 4,1-5
[4] Xc. Mt 20,
28.
[5] 1Pr 4,10.
[6] Tu
luật thánh Augustinô, số 5.
[7] Xc. 1Cr 13,
1-7.
[8] Xc. Lm. Trần Cao Tường, Tin vui thời điểm 2000,
và Lm. Nguyễn Văn Ngọc, Tài liệu giảng tĩnh tâm , Đan viện Thánh Mẫu
Phước Lộc, 2004, tr. 20-22.
Đăng nhận xét