Thấy xung quanh có
đám đông,
Đức Giêsu ra lệnh sang bờ bên kia.
Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng:
“Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”.
Đức Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng con người không có chỗ tựa đầu”.
Một môn đệ khác thưa với Người:
“Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã”. Đức Giêsu bảo:
“Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”
(Mt 8,18-22).
Đức Giêsu ra lệnh sang bờ bên kia.
Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng:
“Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”.
Đức Giêsu trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng con người không có chỗ tựa đầu”.
Một môn đệ khác thưa với Người:
“Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã”. Đức Giêsu bảo:
“Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ”
(Mt 8,18-22).
Quốc Văn, OP.
Dẫn nhập
Trong bài chia sẻ này, tôi xin nói về ba lời khấn. Qua ba lời khấn, chúng
ta dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, cùng hoà nhịp với dòng đời,
cùng dấn thân với mọi người, nhưng sự dấn thân của người tu sĩ mang một ý nghĩa
đặc biệt, trong một danh xưng mới mẻ, khi họ tuyên khấn ba lời khuyên Tin mừng.
Trong lá thư gởi toàn Dòng Đa Minh, tháng 4 năm 1994,[1]
cha Bề trên Tổng quyền Timothy Radcliffe đã làm nổi bật ý nghĩa ba lời khấn của
người tu sĩ, cách riêng là tu sĩ Đa Minh; những lời khấn ấy có sức giải phóng
mãnh liệt, để người tu sĩ có thể hân hoan hiến thân phục vụ mọi người. Sự dấn
thân ấy chính là dấu chỉ của một đức tin son sắt, của niềm hy vọng tha thiết,
và của đức mến nồng nàn. Tất cả đều nhằm loan báo một Vương Quốc Thiên Chúa
đang hiện diện giữa lòng nhân loại hôm nay.
I. Lời mời gọi dấn thân trong đức vâng phục:
sống chiều kích đức tin
1. Lội ngược
dòng với tâm thức của thời đại
Lời khấn vâng phục chính là một lời tuyên xưng đức
tin, là một cuộc lao mình vào vực thẳm. Có thể ví hành vi tuyên khấn của người
tu sĩ như hành vi của tổ phụ Abraham, cất bước ra đi mà chẳng biết mình đi đâu.
Lời khấn dẫn chúng ta tới chân trời nào, điều đó không nằm trong dự phóng riêng
tư của mỗi người.
Trong một thế giới đề cao sự tương đối, và khao
khát tự do, thì lời khấn tuân phục trở thành một “cớ vấp phạm” cho nhiều người.
Tuyên khấn vâng phục, chính là lúc chúng ta đối đầu với định mệnh của mình, là
lúc đặt vận mạng mình trong tay anh chị em mình. Nếu nói theo ngôn ngữ của cha
Timothy, đây chính là “hành vi tạ ơn của một sự tự do điên rồ”. Tuy nhiên,
chính sự tự do điên rồ ấy, giúp ta đối diện với một vấn đề cốt thiết: chúng ta
đang khao khát một thứ tự do nào? Thứ tự do hào hùng của con cái Thiên Chúa;
hay thứ tự do mà thế gian hứa hẹn, mời chào? Để có thể đón nhận được tự do như
một quà tặng đích thật từ Thiên Chúa, ta phải biết ngỡ ngàng và khám phá, khi
tự do ấy chính là hoa quả của sự vâng phục cao độ.
Đức Giêsu có một thứ tự do rất kỳ lạ: tự do
khi trao hiến mạng sống mình, khi chân tay bị đóng vào thập giá, khi được dương
cao khỏi mặt đất, khi được vùi sâu trong huyệt mộ, khi trở thành tấm bánh bẻ ra
trao ban cho mọi người. Đó cũng phải là thứ tự do của chúng ta, tự do khi tự
“ràng buộc” mình trong lời khấn. Chúng ta đang lội ngược dòng với tâm thức của thời đại, vâng phục gay go thế
đấy!
2. Vâng
phục: sự từ bỏ gay go nhất, từ bỏ chính mình
Một nét rất đặc trưng của anh em Đa Minh, có lẽ
không giống ai, đó là anh em chỉ tuyên đọc một lời khấn duy nhất, lời khấn vâng
phục. Bên các chị thì khác, tuy nhiên đều cốt lõi ở đây là lời khấn này đụng
chạm sâu thẳm đến “cái tôi” của chúng ta. Người ta có từ bỏ điều gì, thì cũng
là từ bỏ những cái bên ngoài mình; nhưng một khi từ bỏ cái tôi, là sự từ bỏ sâu
xa nhất, từ bỏ chính con người của mình. Chính nhờ sự từ bỏ ấy, chúng ta tận
hiến cho Thiên Chúa, và có thể làm trống rỗng chính mình để kết hợp mật thiết
với Thiên Chúa hơn. Hiến pháp Anh Em Đa Minh dạy rằng:
Trong các lời khấn (diễn tả) các lời khuyên (Tin mừng), thì tuân phục trổi vượt hơn cả, vì nhờ lời khấn
này, con người chúng ta được tận hiến cho Thiên Chúa, và những hành vi lời khấn
thì gần với mục đích của việc tuyên khấn là sự trọn lành của đức mến hơn. Sau
hết nhờ lời khấn này, chúng ta đồng thời lãnh nhận tất cả những gì liên quan
đến đời sống tông đồ.[2]
Nếu chúng ta chỉ nhìn theo góc cạnh tiêu cực, thì
quả thật lời khấn vâng phục là một thách đố quá lớn, là bức vạn lý trường thành
ai có thể vượt qua được; tuy nhiên, lời khấn không chỉ dừng lại như một sự mất
mát, nuối tiếc, mà còn mở ra cho chúng ta chân trời mới, chân trời tự do và ân
phúc.
Vì chính nhờ tuân phục, chúng ta được liên kết với
Đức Kitô và Hội thánh, nên bất cứ sự vất vả và hy sinh nào chúng ta chịu để chu
toàn lời khấn này đều như kéo dài lễ phẩm của Đức Kitô và có giá trị hiến tế
cho cả chúng ta lẫn Hội thánh, trong đó bao gồm toàn thể công trình sáng tạo.
3. Tìm ý Chúa qua ý Bề trên, ý cộng đoàn
Khi khấn tuân phục, chúng ta tự nguyện từ bỏ ý
riêng để sống theo ý Chúa qua ý Bề trên và cộng đoàn. Vấn đề khó khăn của chúng
ta là, Bề trên cũng là con người chứ không phải là Chúa; do vậy nhiều khi ý Bề
trên cũng là ý con người, rất con người nữa là khác! Còn cộng đoàn, chín người
mười ý, đâu là ý Chúa? Và dẫu cho rằng đa số anh/chị em đều đồng thuận, thì đâu
phải lúc nào chân lý cũng thuộc về số đông! Vấn nạn này đụng chạm đến cung cách
quản trị của các dòng tu theo thể chế dân chủ đấy!
Chúng ta tuân phục, nhưng
không phải “tuân phục như xác chết”, không “vâng lời tối mặt”, không “trồng cây
chuối ngược”, mà là vâng phục trong sự lắng nghe, đối thoại. Khởi đầu của sự
vâng phục đích thực chính là thái độ chúng ta biết lắng nghe. Cha Timothy đã
trích lại lời của Herbert McCabe rằng: “Trong truyền thống chúng ta, tuân
phục mù quáng cũng giống như học hỏi một cách mù quáng. Một cộng đoàn tuân phục
hoàn toàn là một cộng đoàn trong đó không có ai bị ép buộc phải làm một việc gì
cả.”[3]
Sự lắng nghe và đối thoại từ cả hai phía: Bề trên
phải biết lắng nghe anh/chị em, tôn trọng những tài năng và đặc sủng của
anh/chị em mình; còn anh/chị em, khi đáp lại các Bề trên của mình trong tinh
thần đức tin và yêu mến đối với thánh ý Thiên Chúa, cũng như trong tinh thần
cộng tác huynh đệ, hãy chân thành cảm thông với Bề trên và cố gắng chu toàn một
cách tích cực và cẩn thận những điều các vị truyền. Nét độc sáng của Dòng Đa
minh là Hiến pháp không buộc thành tội. Không biết có phải vì thể chăng mà tính
cách anh em Đa Minh có vẻ “ngang tàng”!
II. Lời mời gọi dấn thân trong đức khó nghèo:
sống chiều kích đức cậy
1. Một thoáng nhìn về
đức khó nghèo
Ở Ấn Độ, người ta coi khó nghèo như một truyền
thống lâu đời, coi khất thực là điều thánh thiêng; nhưng ở Châu Phi, người ta
lại coi giàu sang là phúc lành của Thiên Chúa; và trong xã hội tiêu thụ Tây
Phương, khó nghèo lại được quan niệm khác.
Trước tiên
chúng ta nhận thấy rằng, đề cao đức khó nghèo không có nghĩa chúng ta bần cùng
hóa con người, đẩy lui sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trở nên nghèo
nàn lạc hậu. Theo khía cạnh này, khó nghèo là điều tiêu cực, điều xấu, cần phải
được khử trừ. Giáo hội, bằng mọi cách, đang ra sức làm thăng tiến con người về
nhiều phương diện và không ngoại trừ những yếu tố thuộc vật chất; tạo cho họ
những điều kiện sống xứng với nhân phẩm, xứng với địa vị làm con cái Chúa. Bởi
chưng, của cải vốn nó không là điều gì xấu, và theo quan niệm của Cựu ước đó là
những ơn lành Thiên Chúa ban cho con người. Thế nhưng, thay vì của cải là
phương tiện phục vụ cho hạnh phúc, thì con người lại biến nó thành mục đích,
thành cứu cánh đời mình. Và như vậy, con người trở thành một thứ nô lệ cho tiền
của.
Khó nghèo là một trong ba lời khuyên Tin mừng mà
người tu sĩ tự nguyện tuân giữ. Thời đầu của Giáo hội, các đan sĩ sống khó
nghèo theo tinh thần triệt để, noi gương đời sống các Kitô hữu tiên khởi ở
Giêrusalem, coi thánh Antôn như một gương sáng để cùng học hỏi và dấn thân sống
đời khổ hạnh. Thời Trung Cổ, vào thế kỷ thứ XII - XIII, đặc biệt nổi bật hai
mẫu gương sống đời khó nghèo là thánh Phan Sinh và thánh Đa Minh. Thánh Đa Minh
coi khó nghèo là phương tiện để đạt đến sứ vụ của mình, còn thánh Phan Sinh thì
kết thân với “Bà Chúa Nghèo,” khó nghèo như thể là mục đích, là con đường duy
nhất theo Chúa Kitô: “Nudus Nudum
Christum sequi,” “trần trụi để theo Đức Kitô trần trụi.” Đến thời hiện đại,
trước hiện tượng nghèo đói lan tràn, trong đời tu đã hình thành ít là hai quan
điểm về đời sống khó nghèo:
- Sống khó nghèo nghĩa là đồng hóa với dân nghèo,
chia sẻ cảnh bấp bênh thiếu thốn của họ. Tiêu biểu cho lối sống này là cha Charles de
Faucauld.
- Quan điểm thứ hai về sống
nghèo có nghĩa là dấn thân bênh vực người nghèo, cộng tác vào việc giải phóng họ khỏi cảnh
nghèo túng. Ta thấy luồng tư tưởng này được nhấn mạnh ở Châu Mỹ Latinh.
Ngày nay, người tu sĩ
coi khó nghèo là:
Một lối sống trung thực làm sao cho phù hợp
với hình ảnh chúng ta mong muốn trở nên trong tư cách cá nhân cũng như hội
Dòng. Chấp nhận sống nghịch với văn hóa chung quanh và như vậy phản bác lại
những gì mà nền văn hoá chúng ta coi là cốt yếu cho đời sống hạnh phúc.[4]
Đức khó nghèo luôn là một lời mời gọi dấn thân,
chia sẻ chính bản thân của mình ở tầm mức sâu sắc nhất. Lời khấn khó nghèo mời
gọi chúng ta hoàn toàn sống phó thác vào Thiên Chúa, sống trong sự bảo đảm của
tình yêu Thiên Chúa dành cho ta, hơn là tin vào sự an toàn của của cải trong
Hội dòng. Càng ngày, đức khó nghèo càng được nhấn mạnh đến chiều kích yêu
thương bác ái, dám mở lòng mình ra để chia sẻ với mọi người, ngay cả phải chia
sẻ chính bản thân và mạng sống nữa.
2. Không ai giàu sang đến độ không cần
Thiên Chúa
Lời mời gọi dấn thân trong nếp sống thanh bần,
chính là chúng ta sống chiều kích đức cậy, phó thác cho lòng quảng đại của
Thiên Chúa. Trước nhan Chúa, tất cả mọi người đều nghèo khó, đều đáng thương.
Cái nghèo không chỉ giới hạn vào của cải vật chất, mà còn nghèo về tinh thần,
nghèo sự cảm thông, nghèo nhân đức, nghèo tri thức, nghèo lòng mến… Không ai
giàu sang đến độ không cần Thiên Chúa.
Đặt mình trong vị trí của người nghèo, người tu sĩ
được nhắc nhở luôn phải tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Như một đứa
trẻ, hoàn toàn nghèo, tay trắng, nhưng em luôn tin tưởng vào cha mẹ của mình,
em vẫn thấy mình chẳng hề thiếu thốn chi cả, nhưng nhiều khi còn thấy mình giàu
có, vì biết rằng của cải của cha mẹ rồi cũng sẽ là của mình. Chúng ta có dám
sống thái độ đó với Cha chúng ta, là Đấng nuôi dưỡng chim trời, và làm mưa
xuống trên cả người lành và kẻ dữ không?
3. Khó nghèo vì sứ vụ
Ơn gọi của người tu sĩ Đa Minh, nam cũng như nữ, ở mọi thời,
mọi nơi đều là ơn gọi ngôn sứ, ơn gọi của một kẻ luôn phải cất bước lên đường.
Chính Đức giáo hoàng Honorius III cũng phải công nhận:
Thánh Đa Minh và các anh em của người được
tinh thần hăng say khích lệ, đã rũ bỏ những gánh nặng của những người giàu sang
có ở thế gian này, và khi nhiệt thành rong ruổi đi truyền bá Tin mừng, các ngài
đã nhất định thi hành nhiệm vụ giảng thuyết trong hoàn cảnh khiêm tốn của đức
thanh bần tự nguyện..., để phục vụ ơn cứu độ tha nhân.[5]
Trở về với tinh thần của
Dòng Đa Minh, chúng ta thấy rõ lối
sống khó nghèo chính là lối sống của các tông đồ, các ngài luôn một lòng đi
theo Đức Kitô, làm chứng và loan truyền Tin mừng của Người. Không phải ngẫu
nhiên, nhưng là cả một quá trình chọn lựa, dấn thân, chúng ta bắt gặp trong
Hiến pháp của Anh Em những lời này:
Tinh thần thanh bần thúc bách chúng ta đặt kho
tàng của mình trong sự công chính của Nước trời với niềm tín thác hoàn toàn vào
Thiên Chúa. Đó là sự giải thoát khỏi nô lệ và ngay cả sự lo lắng về những của
cải trần thế, để kết hợp với Chúa cách khăng khít hơn, phục vụ Chúa mau mắn
hơn, nói về Chúa can đảm hơn. Cho nên đối với chúng ta, đó là sự cần kiệm, giúp
ta thân mật liên kết với những người nghèo cần được loan báo Tin mừng, đồng
thời lại là quảng đại với anh em và tha nhân; bởi chưng, vì Nước trời, chúng ta
sẵn lòng chi tiêu tiền của, nhất là trong những nhu cầu học vấn và tác vụ tông
đồ để trong tất cả những gì nhu cầu tạm thời đòi phải dùng, điều thuộc đức aí
luôn tồn tại và trổi vượt hơn”(Tu luật thánh Augustinô).[6]
Thánh Đa Minh và các anh
em của người đã chọn một lối sống thanh bần thật sự cả về vật chất lẫn tinh
thần. Người lữ hành không được cắm trụ nơi nào, phải luôn sẵn sàng ra đi với
“gia tài là chiếc bị” và hành trang là “đôi tay trắng”, họ muốn theo sát Thầy
Giêsu, một con người tự do, “không có chỗ gối đầu.” Con chim dù có được cột
bằng sợi chỉ vàng, nó cũng bị tù túng, không được tự do.
Tinh thần của thánh Đa Minh vẫn sống mãi và trải
dài suốt tám thế kỷ. Có điều, theo dòng thăng trầm của lịch sử, theo sự thích
nghi với đời sống mà con cái của thánh Đa Minh mỗi thời thể hiện tinh thần đó
một cách khác nhau. Tuy nhiên, cũng không thiếu những lúc các tu sĩ đã biến
mình thành một giai cấp trưởng giả, giàu sang. Và nguy cơ ấy, cám dỗ ấy càng
mạnh mẽ trong hoàn cảnh hiện nay. Chính vì vậy người tu sĩ luôn phải phản tỉnh,
tự nhìn lại mình để có thể sống và phát huy tinh thần của Dòng luôn mãi.
III. Lời mời gọi dấn thân trong đức khiết tịnh:
sống chiều kích đức mến
1. Khiết tịnh để yêu nhiều hơn
Lời khấn khiết tịnh đụng chạm đến vấn đề “nhức
nhối” nhất của con người, đó là tình cảm, phái tính, khát vọng yêu và được yêu.
Thoáng qua, người ta có thể cho rằng, lời khấn này thui chột con người, biến
con người thành gỗ đá. Chúng ta nên biết rằng lời khấn không phải để giữ, mà để
sống; lời khấn không thui chột, nhưng thăng hoa con người; không biến con người
thành gỗ đá, nhưng làm cho trái tim con người nhạy cảm hơn, yêu nhiều hơn, yêu
đẹp hơn, yêu như Chúa yêu.
Cha Timothy cho rằng tội đầu tiên nghịch đến đức
khiết tịnh là tội không biết yêu thương.[7]
Khiết tịnh đích thực không chỉ là có một thân xác hoàn toàn trong trắng, chưa
một lần lỗi điều răn thứ sáu hoặc thứ chín. Coi chừng đó mới chỉ là xác chết
khiết tịnh. Khiết tịnh không phải là một trạng thái cần phải bảo tồn, mà là một
hành trình, một thái độ, một hành động mở rộng trái tim hướng về Thiên Chúa và
hướng về tha nhân.
Một anh chàng đã có vợ nhưng đi ngoại tình,
dù không ai biết, nhưng lòng anh không
an; anh trở về rửa chén, quét nhà, chăm sóc vợ con, như một thái độ chuộc lỗi;
thiết tưởng anh chàng này dẫu không chung thuỷ, nhưng thái độ trở về dễ dàng
được đón nhận. Ngược lại, một anh khác trốn vợ đi “tòm tem” đâu đó, nhưng về
nhà vẫn hý hửng, vì qua mặt được vợ mình; thái độ như thế không thể chấp nhận
được. Cũng vậy, để đi vào trong tình yêu tự do và không chiếm hữu, cần phải
kiên nhẫn. Chúng ta đừng vội nản chí khi gặp thất bại, khiết tịnh không phải
như viên ngọc quý chúng ta xót xa vì lỡ đánh mất, nhưng là một trái tim yêu
thương làm cho chúng ta có thể lớn lên. Những kinh nghiệm về giới tính hoặc
những đổ vỡ trong mối tương quan có thể là cần thiết để chúng ta trưởng thành.
Nói như vậy không phải là “vẽ đường cho hưu chạy” hay khuyến khích ai đó đi tìm
kinh nghiệm đâu nhé! Chúng ta hãy cùng với thánh Phaolô xác tín rằng: “Thiên
Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người.”[8]
2. Nhân bản
hơn với con người
Nền tảng của đức khiết
tịnh không bao giờ có thể là sự chạy trốn, sợ hãi, khinh thường phái tính, hay
mặc cảm với người khác phái. Đức Giêsu đã sống đến tận cùng phái tính của mình,
khi “Ngôi lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”[9]
Người đã đảm nhận thân xác của mình và đối xử nhân bản với hết mọi hạng người,
từ những người đạo hạnh đến những cô gái điếm; từ những tín hữu thuần thành đến
người phụ nữ Samari lai căng lạc đạo…
Lời khấn khiết tịnh không cho phép chúng ta đối xử
thiếu nhân bản với con người, nhưng ngược lại, phải nhân bản hơn, thân ái hơn.
Nhiều khi người ta “thất bại” không phải vì đã quá đối xử nhân bản với con
người, nhưng vì đã không kiểm soát được sự dồn nén của bản thân. Đức khiết tịnh
không phải là sự dồn nén. Chắc hẳn chúng ta đều đã biết câu chuyện vị hoà
thượng bế cô gái qua vũng lầy như thế nào, khiết tịnh không nằm ở chỗ có đụng
chạm đến cô gái hay không, nhưng là tâm có động hay không. Và đây là một giai
thoại thiền khác: Một thiền sư kia tu hành lâu năm, nổi tiếng là đã đắc đạo.
Một hôm, vị ân nhân muốn thử lòng thầy, nên sai một cô gái đến cám dỗ thầy. Dĩ
nhiên là thầy đã cự tuyệt, lòng thầy phẳng lặng không chút gợn sóng. Và trời
tối dần, bỗng nhiên sấm chớp nổi lên, mưa to gió lớn, cô gái lạnh cóng đứng
ngoài cửa van nài. Lòng thầy vẫn không mảy may thương cảm. Nghe tin đó, vị ân
nhân nổi giận sai đốt căn nhà, và đuổi vị thiền sư đó đi, vì người tu hành mà
không có cái tâm, hoặc chưa tu cái tâm thì coi như chưa tu hành gì cả.
3. Đối diện với tiếng thì thầm của
trái tim
Dẫu biết rằng tu là dâng hiến, khiết tịnh là mở
lòng ra với tha nhân, là sống một tình yêu trọn vẹn mà không chiếm hữu, là nhân
bản với con người, là…; nhưng chúng ta đừng quên một điều rất thật, trái tim
mình đôi lúc cũng “lúc lắc,” cũng “đập sai nhịp,” cũng chứa đựng, dấu diếm bóng
hình ai đâu đó. Rất cần phải đối diện với tiếng thì thầm của trái tim ta.
Như đã nói ở trên, chúng ta không sợ hãi trốn chạy,
cũng không lao đầu vào tìm kiếm kinh nghiệm; nhưng chúng ta cần phản tỉnh để
thấy được những gì đang diễn tiến trong trái tim mình. Ngoài việc cậy trông ơn
Chúa, cũng rất cần những trợ giúp tự nhiên khác, nhất là phải khôn ngoan và
trung thực với chính mình. Nền tu đức cổ vẫn khuyên rằng: “Dĩ đào vi thượng
sách,” nhưng thiết nghĩ không phải lúc nào chúng ta cũng “dĩ đào vi” được, mà
cần phải đối diện với đối tượng, với vấn đề.
Trong các phương tiện trợ giúp hữu hiệu để chúng ta
có thể sống vui tươi thanh thản, thiết tưởng không thể coi nhẹ vai trò của cộng
đoàn. Nếu trong cộng đoàn, người anh/chị em của chúng ta không tìm được một sự
cảm thông, không tìm được một ai có thể lắng nghe, chia sẻ… thì đương sự có thể
đi tìm ở nơi khác, nơi đó có người lắng nghe, đồng cảm. Chính khi ấy, cộng đoàn
không thể phủi tay hết trách nhiệm với người anh/chị em của mình. Cộng đoàn có
thể vực dậy một anh/chị em sa ngã, nhưng cũng có thể đẩy người anh/chị em đang
chao đảo xuống vực sâu; cộng đoàn có thể là nơi chúng ta được chữa lành, nhưng
cộng đoàn cũng có thể là nơi làm vết thương của ta mãi rỉ máu, mâng mủ, thối
rữa.
Để kết thúc những dòng suy tư này, tôi xin trích lại một vài số trong
Hiến pháp của Anh Em Đa Minh (xin thứ lỗi, vì kẻ viết những bài này là một anh
em Đa Minh!)
Dẫu sẽ gặp thử thách suốt đường đời, chúng ta khi
cố gắng kiên trung và tiến tới không ngừng trong đức thanh khiết, thì trong mọi
hoàn cảnh cuộc đời, phải cố gắng giao tiếp thân mật với Thiên Chúa,… lấy Sách
thánh và mầu nhiệm Thánh Thể để nuôi dưỡng sự giao tiếp ấy. Đồng thời phải lấy
tình con thảo và lòng sùng kính đối với Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Mẫu Thiên
Chúa, để cho mình được nên kiện cường.[10]
Ý thức sự yếu đuối của bản thân, chúng ta đừng cậy
sức riêng, nhưng phải hãm dẹp và canh giữ giác quan cùng tình cảm mà không sợ
sệt hay nhút nhát, và đang khi tỏ ra niềm nở với mọi người, chúng ta phải lấy
bản năng thiêng liêng mà đẩy lui những gì nguy hại đến đức thanh khiết.[11]
Cũng phải sử dụng một cách thích hợp những phương
thế tự nhiên cần thiết hoặc hữu ích cho sức khoẻ tinh thần và thể xác.[12]
Kết luận
Con người thời đại đang bị khủng hoảng về căn tính
của mình, cơn khủng hoảng ấy cũng là thách đố của người tu sĩ hôm nay. Tuyên
khấn sống ba lời khuyên Tin mừng, chính là cách thế người tu sĩ tìm lại căn
tính của mình, tìm lại yếu tố làm nên người tu sĩ. Sống ba lời khuyên này, cũng
chính là người tu sĩ đang sống ba nhân đức hướng thần:tin, cậy, mến.
Trong
thời đại chúng ta, nhiều bậc thang giá trị bị đảo lộn, việc tuân giữa ba lời
khấn quả là một thách thức không nhỏ. Lời mời gọi trở nên dấu chỉ và loan báo
về Vương Quốc Thiên Chúa, vẫn là một sứ điệp gắn liền với ba lời khuyên Tin
mừng, và vẫn đang đợi chờ những tâm hồn quảng đại đáp trả.
Giá
trị của những lời khấn vẫn sáng ngời tuy phải xuyên qua bức màn đen dày đặc là
những thách đố. Như mặt trời ló dạng ở cuối màn đêm, mặt trời giúp phượng hoàng
sáng mắt, nhưng lại làm cho chim cú trở nên mù loà. Tình yêu luôn là lời mời
gọi: Ai muốn hiểu thì mới hiểu được!
[1] Có thể
tìm xem lá thư này trong cuốn “Hát lên bài ca mới,” Chân lý, 2000, tr.
31-56.
[2] HP Dòng Anh Em Giảng Thuyết, số
19, § I.
[3] Timothy Radcliffe, OP. Hát lên bài ca
mới. Chân lý, 2000, tr. 37.
[4] Catharine M. Harmer, Đời Tu Trong Thế
Kỷ XXI, tr. 113.
[5] Trích dẫn theo Mari-Humbert Vicaire,
Dòng Đa Minh năm 1215. Peter Lobo biên soạn, The Genius of Saint Dominie,
tr. 75.
[6] HP Dòng Anh Em Giảng Thuyết, số
30, § II.
[7] Xc. Timothy
Radcliffe, OP. Hát lên bài ca mới. Chân lý, 2000, tr. 51.
[8] Rm 8,28.
[9] Xc.
Ga 1,14.
[10] HP Dòng Anh Em Giảng Thuyết, số
28, § I.
[11] Ibid., số 28, § III.
[12] Ibid., số 28, § IV.
Đăng nhận xét