“Sự
phân định là cội nguồn,
là bảo mẫu của mọi nhân đức; thiếu sự phân định
thì không có nhân đức nào là hoàn hảo và bền vững”.
(Giáo phụ Cassianô)
Trần Văn
Chính, Dòng Đức Maria Mẹ Hy Vọng
Nguyễn
Đại Dương, Tu hội Vinh Sơn
Trong đời sống tâm linh nói chung và việc đồng hành
thiêng liêng nói riêng, việc phân định rất quan trọng. Tại sao vậy? Thưa, vì
phân định đụng tới tận căn, gốc rễ của vấn đề. thật vậy,
trong đồng hành thiêng liêng, việc phân định là điều cần thiết cho cả người đồng
hành và người thụ hướng. Bởi phân định
không chỉ giúp người ta sắp xếp và thấy được yếu tố cần thiết trong đời sống
thiêng liêng, mà còn giúp ta sửa đổi và tránh được những lầm lạc để trở về và
sống theo Thần khí. Ý thức được sự cần thiết của phân định như thế, trong giới
hạn bài viết này, chúng tôi xin trình bày đôi nét căn bản hầu xác định đâu là mục đích của việc phân
định trong đồng hành thiêng liêng.
Trước khi nói đến phân định theo nghĩa siêu
nhiên, ta hiểu qua về những phân định trong cuộc sống thường ngày của con người;
để thấy được ngay trong đời sống tự nhiên, chúng ta cũng đã rất cần đến sự phân
định, nhờ đó, người thực hành sự phân định thấu cảm được những điều đang diễn
ra và biết phải ứng xử thế nào...
1.1. Phân định trong cuộc sống
tự nhiên
Khi nói
đến phân định tự nhiên, người ta có thể hiểu một cách rất đơn giản là một sự
phân biệt. Khi phân biệt, người ta phải biết phân tách mọi sự cách rạch ròi.[1]
Phân
định chính là việc: “nhận thấy bằng mắt
hoặc bằng một giác quan nào khác, phân biệt bằng trí tuệ, nhận ra sự khác biệt
coi như tách biệt nhau; phân biệt”.[2] Như vậy, nếu hiểu phân định trong đời sống thuần túy tự nhiên thì
một người bình thường, ngang qua cuộc sống, họ có thể phân định được một số
thực tại gắn với những sinh hoạt và diễn tiến ngang qua không gian và thời gian
trong hiện tại hoặc viễn cảnh tương lai như: nếu xét theo góc độ phẩm và
lượng thì cần phải phân định giữa: tốt – xấu; thành công – thất bại; thuận
– nghịch; thiện – ác… ; hay qua trạng thái giữa: vui – buồn; sướng –
khổ; hạnh phúc – bất an… ; hoặc nơi giác quan giữa: cao – thấp; khô –
cạn; trái – phải; trắng – đen… Qua khứu giác và vị giác: thơm – thối; ngọt
– bùi; cay – đắng… Như những gì đã phân tích, thì ngang qua việc phân định tự
nhiên, nó giúp cho ta thấy, cảm, thấu và biết được thực tại của những thứ cần
phân định theo nghĩa đen.
Còn khi phân định theo ý nghĩa siêu nhiên, tất
nhiên không chỉ dừng lại theo nghĩa thực dụng, hiện sinh, mà đôi lúc, nó vượt
ra xa, hay lên trên những thực tại trần thế để biểu cảm hay hướng con người đến
một điều gì đó toàn thiện hơn cái đã có, ta gọi nó là phân định thiêng liêng.
1.2. Phân định trong đồng hành
thiêng liêng
Từ điển
Công giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam định nghĩa về phân định thiêng liêng
một cách rõ ràng : phân là tách
biệt, nhận xét; định là xác quyết. Sự
phân định thiêng liêng là việc phán đoán dựa trên đức khôn ngoan và sự hướng
dẫn của Thần khí để nhận ra ý Chúa và làm theo sự thúc đẩy của Ngài.[3]
Khi nói
đến phân định thiêng liêng, tức là một sự phân định mang tính siêu việt, thì
thánh Phaolô chỉ ra sự cẩn trọng và nhắc nhở: “Anh em đừng có rập theo đời
này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể
nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn
hảo” (Rm 12, 2). Theo lời răn dạy của thánh nhân, chúng ta hiểu được
rằng: nếu muốn sự phân định của chúng ta được diễn ra trong sự tương hợp với
Thiên Ý, tức là để Ý Chúa được nên trọn thì người phân định phải luôn luôn
thoát ra khỏi những gì là trần thế và phải thay đổi cách nhìn, không thể theo
nhãn quan và trí tưởng thuần túy của con người.
Như thế,
phân định thường bao gồm một trật hành vi nhận thức và hành vi phân biệt hoặc
phán đoán. Cũng vậy, trong việc phân định thiêng liêng, cả việc nhận thức và
phán đoán đều quan trọng. Mục đích của việc phân định là đạt tới một tình yêu
sáng suốt, dẫn tới sự tự do đích thực. Tóm lại, công việc “phân định là tiến trình lắng nghe và chọn
lựa qua sự an bài của Chúa trong đời sống con người, để tìm kiếm và xác định
hoàn cảnh và lời đáp trả đích thực đối với tình yêu của Chúa.”[4]
2.1. Nhận định
đúng- sai để đưa ra chọn lựa đúng
Trong việc đồng hành thiêng liêng nếu không có khả năng
phân định đúng – sai và không dựa trên tiêu chuẩn luân lý Kitô giáo hay do
lương tâm thúc đẩy nhiều khi câu chuyện hay tình huống rất đơn giản, nhưng lại
làm cho sự kiện, công việc trở nên phức tạp, rối ren do nhận thức bị mập mờ,
thiếu chuẩn mực, dẫn đến tình trạng “tiến thoái lưỡng nan...”.
Như vậy, nếu không có sự phân định hoặc phân định sai
lạc, chúng ta rất dễ dẫn đến tình trạng “mù mờ” hay “hỗn
mang” (x. St 1,1-28). Câu chuyện Nguyên Tổ là một thí dụ: khi hai ông
bà nghe theo lời dụ dỗ của ma quỷ, chúng chỉ cung cấp cho ông bà một phần nào
đó sự thật và nói rằng: ông bà cứ ăn trái cấm đi, không sao cả, vì khi ăn vào,
mắt của ông bà sẽ sáng ra. Ông bà đã thuận theo, và quả thực, khi trái cấm được
đưa vào miệng, thì cũng là lúc mắt họ sáng ra và hậu quả là nhận thấy mình trần
truồng chứ không phải là ngang bằng Thiên Chúa! (x. St 3,1-7). Một sự ngộ nhận
xót xa của sự sai lầm, dẫn đến hậu quả khôn lường.
2.2. Hệ quả phân định trong đồng hành thiêng liêng
Về phía người đồng hành
Trách nhiệm
đầu tiên của người đồng hành thiêng liêng là có khả năng phân định tốt, người đồng
hành phải có cái nhìn thực tế, biết nhìn hoàn cảnh và sự việc như là nó xuất hiện,
và họ có khả năng đọc ra các thực tại. Cần có cái nhìn sáng suốt, xuyên thấu vẻ
bề ngoài để đào sâu vào căn nguyên và nắm bắt được thực tại một cách sáng suốt.[5]
Nhờ có khả năng phân
định như thế, người đồng hành có thể dẫn người thụ hướng đi đúng con đường và
hướng về đúng đích mà họ muốn đến. Còn nếu không có khả năng phân định tốt,
người đồng hành sẽ rơi vào tình trạng nhập nhằng, lúng túng và sẽ dễ dẫn đến
tình trạng sai lệch trong khi nhìn nhận sự việc và dĩ nhiên sẽ dẫn người thụ hướng đi lạc
đường và sai mục đích họ muốn tìm kiếm.
Về phía người thụ hướng
Trong đồng
hành thiêng liêng, người thụ hướng không phải lúc
nào cũng chỉ thụ động để làm theo hướng dẫn của người đồng hành, có những trường
hợp và hoàn cảnh bắt buộc họ phải tự giải quyết cho chính mình. Vì thế bước đầu
để họ đối diện và giải quyết vấn đề cần phải phân định sự việc và hoàn cảnh đó.
Đối với người thụ hướng thì phân định
có thể xem như là chiếc la bàn, giúp họ định hướng được lối đi. Giả như trong
lúc túng quẫn, bế tắc và bối rối như đang ở một mình trong khu rừng, mà không
có la bàn trong tay thì họ chỉ quanh đi quẩn lại ở đó, chứ không thoát ra được.
Việc phân định cũng giúp người thụ hướng có khả năng nhìn thấy rõ những vấn đề,
trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố, mặt khác nó cũng giúp chính họ tự biết
chính mình; biết mình cần gì, và phải làm gì.
Nếu
như mục đích của việc tư vấn tâm lý là tháo gỡ những mắc nối, những rối loạn về
mặt tâm lý, giải quyết những khúc mắc, trắc trở, thoả mãn những yêu cầu về mặt
tâm lý, xã hội của con người trong cuộc sống đời thường; thì mục đích của việc
đồng hành thiêng liêng là giúp cho người ta khả năng hiểu sâu xa về đời sống
tâm linh, đặc biệt là có một lương tâm nhạy cảm, biết lắng nghe và nhận ra ý
Thiên Chúa trong cuộc đời, giúp họ nhận ra đâu là con đường Thiên Chúa dẫn dắt
đời mình đi, để rồi từ đó can đảm sống và thay đổi đời sống sao cho phù hợp với
lương tâm, trong đời sống thực tại và cả chính trong mối tương quan nhân vị của
họ.
3.1. Phân định
giúp người thụ hướng nhận ra ý Chúa
Một khi
con người đã khám phá ý muốn của Thiên Chúa, chỉ ý Thiên Chúa mới đưa đến sự giải
phóng và tự do đích thực. Chỉ có thể làm được điều đó khi người thụ hướng được
vị linh hướng của mình hướng dẫn. Bởi lẽ đó, người linh hướng cần “phải có khả năng phân định ý Chúa giữa muôn
vàn ý khác.”[6]
Phân định để giúp người thụ hướng biết được đâu là ý con người, đâu là ý của ma
quỷ, đâu là thánh ý Thiên Chúa. Hiển nhiên ý con người, ý của ma quỷ luôn thoả
mãn nhu cầu của thân xác và luôn luôn trái ngược với thánh ý Thiên Chúa.
Như
ta đã biết, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người; nên
tìm ý Chúa, đường lối của Thiên Chúa mà thực hiện là một điều rất khó. Trong cuộc
sống mấy ai hiểu được, tìm được ý Chúa một cách rõ ràng. Ý Thiên Chúa thường
thanh luyện con người ngang qua kinh nhiệm đau khổ, ví như Thánh Vịnh 119, câu
71, có viết “đau khổ quả là điều hữu ích,
để giúp con học biết thánh chỉ Ngài.” Tìm ý Chúa đã là một điều khó, nhưng
đưa ra đường hướng để làm theo ý Thiên Chúa lại là điều khó hơn.
Ta thấy điển hình như ông Samuel: Ông là một người biết lắng
nghe Thiên Chúa, lắng nghe với một thái độ biết mình. Trong Kinh thánh 1Sm 8,
1-22, ta thấy được Samuel đã phải kiềm chế chính mình để từ bỏ ý riêng của
mình. Ông đón nhận và thực thi ý Chúa, bất chấp mọi khó khăn. Trong khi ý riêng
ông thì trái ngược với ý muốn của Thiên Chúa. Trong tình trạng đó, ông đã phân
định được đâu là ý Thiên Chúa, đâu là ý riêng của ông. Và khi đã biết đó là ý
Thiên Chúa thì ông đã mau mắn để ý Thiên Chúa được thực hiện.
Nói
chung, phân định trong đồng hành thiêng liêng cần thiết để người linh hướng, hướng
dẫn người thụ hướng đọc ra được ý Chúa qua từng biến cố trong cuộc sống.
Qua những lúc thăng trầm, thành công cũng như thất bại, qua thử thách và ngay cả
tội lỗi… mà vẫn nhận ra được đó là ý Thiên Chúa đang thực hiện trên cuộc đời của
mình (x. 1Tx 5, 18).
3.2. Đưa người
thụ hướng
đi vào tương quan với Thiên Chúa
và nhân vị
Hầu như không một vị linh hướng nào không mong muốn cho người mình đang hướng dẫn trở nên tốt hơn về mặt tâm linh và đời
sống của người Kitô hữu. Tuy nhiên, chỉ có thể làm được điều đó khi giúp người
thụ hướng có được mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với tha nhân.
Trong
tương quan với Thiên Chúa
Khi
đã nói đến tương quan với Thiên Chúa thì người linh hướng cần đưa người thụ hướng
vào đời sống cầu nguyện. Như các phần trên đã đề cập đến, việc cầu nguyện là rất
quan trọng cho cả người linh hướng cũng như người thụ hướng. Trong đời sống cầu
nguyện, nói cách chung thì cả hai cần cảm nhận được sự hiện diện của Thiên
Chúa. Có thể nói, cầu nguyện là phương thế tốt nhất, và là cách thức đưa con
người vào mối tương giao với Thiên Chúa.
Nói cách khác, người
thụ hướng cần cố gắng đi sâu và cảm nhận được sự có mặt của Thiên Chúa trong
chính biến cố mà họ đang gặp phải. Trong mối tương quan với Thiên Chúa, chính
người thụ hướng sẽ khám phá về một Thiên Chúa luôn luôn nâng đỡ và hướng dẫn họ,
giúp họ tìm ra được con đường mà Thiên Chúa muốn họ bước đi.
Trong
tương quan với nhân vị
Theo cái nhìn phổ quát thì con người không dừng lại ở mặt
tâm linh mà còn có mối tương quan nhân vị trong đời sống. Tương quan đó có thể
là tương quan gia đình, tương quan bạn bè, tương quan dòng tu… Tất cả các mối
tương quan đó tạo nên một sợi dây nối kết đời sống của con người lại với nhau.
Trong các mối tương quan, tương quan dòng tu, việc những con người cùng giới
tính sống với nhau, làm việc với nhau thường gặp nhiều thách đố. Thực ra, tương
quan nào cũng thế, là con người với nhau, khó tránh khỏi những va chạm. Vì thế người
linh hướng có trách nhiệm giúp người thụ hướng nhận ra và “chấp nhận nhau trong khác biệt”. Công việc của người linh hướng là
dẫn đưa người thụ hướng đến với ơn gọi, sống ơn gọi đó cách ý nghĩa và định
hướng được đời mình trong tương quan với Đấng Siêu việt.
3.3. Đưa người
thụ hướng đi đúng hướng
để giải quyết những vấn đề gặp phải
Trong
thực tế, cuộc sống luôn có những khúc mắc, những khúc mắc đó có thể là do mình,
hay do người khác, hoặc là do tác động của ngoại cảnh. Những tác động đó làm
cho con người đôi khi nằm trong bế tắc mà không có hướng giải quyết.
Rất thường khi, người ta cảm
thấy thất vọng về một quá khứ không mấy hay ho của mình, một quá khứ được dệt
nên bằng những thất bại, đau khổ, tội lỗi…; thế rồi họ buông xuôi, không thiết
tha cầu nguyện, không phấn đấu gì nữa.[7]
Thật
vậy, trong cuộc sống mấy ai mà tránh được khó khăn. Tuy nhiên, như phần trên đã
trình bày, có một điều quan trọng là cần phân định, đâu là đúng, đâu là sai. Điều
gì cần giữ, điều gì cần phải bỏ. Thường thì, người thụ hướng ít khi có thể tự
giải quyết được, cho nên người linh hướng cần đưa ra những lời phân tích rành mạch,
rõ ràng, và đặc biệt là cần theo hướng tích cực.
Để
hành động tốt tiến trình thì hẳn nhiên người linh hướng cần phải chấp nhận khởi
đi từ kinh nghiệm riêng của mình về cuộc sống để phân định lời mời gọi của
Thiên Chúa trong cuộc sống của người thụ hướng.[8] Việc
phân đinh thôi thúc lương tâm của mỗi người và nó được đặt trên lý trí thực
hành. Tuy nhiên, sự phân định là cách thức để đưa con người vào những hành động
đúng theo lương tâm của mình và ý muốn của Thiên Chúa.
Tạm kết
Tóm lại,
trong cuộc sống có nhiều thứ đòi ta
phải chọn lựa để sinh tồn và phát triển. Nếu ta chọn đúng thì có thể ta hành
động đúng, còn nếu ta chọn sai thì sẽ dẫn ta đi lệch hướng. Có những chọn lựa
làm cho nhân cách và uy tín của ta trở nên tốt; cũng có những lựa chọn làm cho
nhân phẩm của ta đi xuống; có những lựa chọn dẫn đến sai sót không đáng kể;
nhưng có những lựa chọn đem lại hậu quả xấu khôn lường. Chọn sai một nghề, có
thể làm lại. Đi sai đường có thể quay đầu và chuyển hướng đúng... Nhưng chọn
một lý tưởng, một quan điểm sai để tiến bước thì có khi cả cuộc đời ta phải hối
hận. Như thế, mục đích của việc phân định trong đồng hành
thiêng liêng là Tin mừng hoá ước muốn hiệp thông này với Thiên Chúa vốn hiện diện
nơi mọi người bởi vì con người có thể sai lầm về hạnh phúc.[9]
Như
thế, người linh hướng cần đưa người thụ hướng đến với sự bình an, dẫn dắt họ
vào trong hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì “hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa, và đời sống của Chúa Kitô giải thoát con
người khỏi nô lệ tội lỗi”.[10]
Có như thế thì mới xác định được mục đích chính yếu của việc phân định trong đồng
hành thiêng liêng là phân định đúng hay sai trong cuộc sống, để có cách lựa chọn.
[1] Xc. Ban Biên Soạn Chuyên Từ Điển, Ngọc-Xuân-Quỳnh, Từ
Điển Tiếng Việt, tr 490.
[2] Phạm Quốc Văn, Trên
đường Emmaus, tr 62.
[3] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam . Từ Điển Công Giáo, tr 671.
[4] Trần Minh Huy, Phương Pháp Linh
Hướng, tr 23.
[5] Xc. René
Bernard, Đào tạo về sự biện biệt, tr 28.
[6] Phạm Quốc Văn, Tự Đào Tạo Và Đào Tạo Khả Năng Phân Định, tr 3.
[7] Phạm Quốc Văn, OP., Sđd., tr 33.
[8] Sđd., tr 49.
Đăng nhận xét