Ta phải làm gì cho ngươi đây, Epraim hỡi ?


Cả thế giới này 
là một bài ca tán dương tình yêu Thiên Chúa
Đặc biệt tình yêu đó tỏ lộ qua lòng xót thương. 
Lòng xót thương này cùng một trật cho thấy 
con người mỏng giòn, yếu đuối, tội lụy và cần đến Chúa biết bao.

Quốc Văn, OP.

Người linh mục được chọn lựa là vì dân Chúa, vì Hội thánh. Lời của ngôn sứ Hôsê nhắc nhở dân: “Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng, mau tan tựa sương mai” (6,4), thiết tưởng đó cũng phải là lời của người linh mục hôm nay nhắc nhở cho dân Chúa về “tình yêu của thuở ban đầu”. Tình yêu ấy đã hơn một lần bị dân Chúa lãng quên, phản bội. Cần phải làm mới lại lời Giao ước qua việc loan báo cho dân thấy Chúa thương xót vô ngần và thứ tha tất cả. Loan báo tình yêu, sự tha thứ, niềm hy vọng chính là sứ mạng của người linh mục hôm nay.
Linh mục loan báo Lời tình yêu
Dân Thiên Chúa được ví như người tình của Giavê, Đức Chúa tỏ tình với dân như người yêu sắp cưới.[1] Cô gái Israel quá được yêu chiều nhưng lại vong ân, thất nghĩa, ngoại tình, phản bội Đức Chúa là Đức lang quân. Nhưng cho dù dân có bất trung, Người vẫn trung tín và yêu thương đến cùng. Đức Chúa lại tiếp tục tái lập hôn ước với người vợ bất trung ấy.[2] Thiên Chúa yêu thương cũng được tỏ bày như người mẹ, người mẹ hiền ấp ủ con thơ.[3] Người mẹ trao ban sự sống cho con mình thế nào, thì Thiên Chúa cũng là sức sống cho dân Người như vậy.[4] Con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, sự hiện hữu của mình. Không chỉ con người mà toàn thể vũ trụ này, toàn thể muôn loài thọ sinh đều mắc nợ Thiên Chúa, bởi vì “Tình thương Người chan hòa mặt đất”.[5] Cả thế giới là một bài ca tán dương tình yêu của Người. Đặc biệt tình yêu đó tỏ lộ qua lòng xót thương. Lòng xót thương này cùng một trật cho thấy con người mỏng giòn, yếu đuối, tội lụy và cần đến Chúa biết bao.
Bao phen con người đã nói “không” với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn nói “có”, một tiếng “có” tràn đầy mãnh lực yêu thương. Chúng ta thấy điều này lan tỏa trong Kinh thánh, đặc biệt trong các sách Tin mừng. Xin lấy ba dụ ngôn tiêu biểu trong Tin mừng theo thánh Luca, để thấy dung mạo Thiên Chúa xót thương được Đức Giêsu diễn tả như thế nào.
Dụ ngôn “con chiên lạc” [6]cho thấy Thiên Chúa luôn là Mục tử nhân lành thí mạng sống mình vì đoàn chiên.[7] Người không muốn để một ai hư mất. “Những người Cha ban cho con, con không để hư mất người nào.[8] Mỗi con người đều có một vị trí, một giá trị tuyệt đối trong trái tim nhân hậu của Thiên Chúa. Vì thế, “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là chín mươi chín người công chính không cần hối cải”.[9]
Trong dụ ngôn “đồng bạc bị mất”,[10] cái lôgic của Thiên Chúa là cái nghịch lý theo kiểu con người, chỉ một đồng bạc mất, khi đã tìm được thì mời hàng xóm láng giềng, bà con bạn hữu đến ăn mừng. Nếu không đặt vào trong mối tương quan tình yêu, lòng thương xót, thì không thể nào chúng ta cảm được niềm vui tột cùng của người phụ nữ tìm thấy đồng bạc. Bà là hình ảnh của một Thiên Chúa đang kiếm tìm và gặp được lời đáp xin vâng của con người.
Đỉnh cao của ba dụ ngôn về lòng thương xót là dụ ngôn “người cha nhân hậu”.[11] Qua dụ ngôn này, dung mạo của một Thiên Chúa yêu thương tỏ hiện rõ rệt, Người là Cha, một người Cha rất mực khoan nhân, yêu thương đến tận cùng và luôn tha thứ. Chúng ta bắt gặp nơi đây niềm an ủi lớn lao mỗi khi thấy mình xa rời Thiên Chúa và hồi tâm trở về. Nơi đó vẫn một vòng tay giang rộng, một trái tim thổn thức đợi chờ, chỉ một việc phải làm là người con lăn vào vòng tay Cha, để thấy mình được yêu thương mà thôi. Mọi tội lỗi, mọi bất trung, giờ đây đứng trước một tình yêu quá lớn, tất cả chẳng còn là gì; tất cả nhường chỗ cho hạnh phúc tràn về. Thiên Chúa của chúng ta là như vậy.
Rải rác đây đó, ta vẫn bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa gần gũi với con người, đi bên đời họ, chữa lành những đau khổ thể xác và tâm hồn. Đi đến đâu, Người thi ân giáng phúc đến đó; đi đến đâu là Người gieo rắc niềm hy vọng; đi đến đâu, là Người loan báo Vương quốc tình yêu, dẫu cho con người có khước từ hay vong ơn bội nghĩa.
Linh mục công bố Lời tha thứ
Phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ,
người có tội mà được khoan dung” (Tv 31).
Ơn thứ tha, từ thời Cựu ước đã được khắc họa đậm nét. Vua Đavít phạm tội được Chúa thứ tha,[12] ơn thứ tha này cũng được ban cho Israel khi dân sám hối trở về. Thời Tân ước, ơn tha thứ càng được tỏ bày rõ nét, những người tội lỗi đến với Đức Giêsu đều được thứ tha. Trong Tin mừng, vẫn còn đó câu chuyện người phụ nữ ngoại tình, ông Phêrô chối Chúa, Tông đồ Tôma chậm tin, thánh Phaolô ngã ngựa …
Trên bước đường lữ thứ trần gian hôm nay, hơn một lần chúng ta gục ngã vì tội lụy, có bao giờ quay về với Chúa mà không được thứ tha ! Đó phải là một niềm xác tín, một lời mời gọi chúng ta vươn lên mãi, tin tưởng vào tình yêu và không bao giờ nản lòng và thất vọng. Thiên Chúa vẫn làm những việc diệu kỳ trên những yếu đuối của con người, có những thứ tội trở nên “tội hồng phúc”, vì qua đó, Thiên Chúa lại càng gần gũi, liên lụy với con người hơn. Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn đọc, Giáo hội dạy rằng: “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thiên Chúa đã đi vào cuộc đời, cùng chung số phận với con người, để cảm thông, thứ tha và cứu độ. Đỉnh cao của cuộc nhập thể là hy tế thập giá, nơi đó, một con người Giêsu trần trụi đã trở thành lễ vật hiến tế Chúa Cha, để bộc lộ lời thứ tha trọn vẹn và mãi mãi. Bên thập giá, tên trộm lành đã trở thành kẻ ăn trộm được cả Nước Trời.
Nếu trong Cựu ước, theo nền văn hóa của thời đại, dung mạo Thiên Chúa được diễn tả với dáng dấp một quan tòa ngay thẳng, phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội cha ông của chúng; hay một Thiên Chúa còn ghen tương, thiên vị (yêu Aben và ghét Cain), thì trong thời Tân ước, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa được tỏ bày trong dung mạo người cha nhân từ, một người cha mang trái tim người mẹ. Trong trái tim Đức Giêsu, nước mắt và nụ cười, khổ đau và hạnh phúc của con người đều được Người ôm ấp tất cả. Có một Giêsu đã vào cuộc đời và yêu thương con người đến thế.
Chân lý Thiên Chúa xót thương con người là một mặc khải chắc chắn rút ra từ kho tàng Lời Chúa. Thế nhưng con người khó có thể tự mình cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, nếu không thông qua các bí tích trong Giáo hội. Linh mục là thừa tác viên cử hành các Bí tich đó. Đặc biệt qua Bí tích Hoà giải, con người cảm nhận một cách cụ thể tình thương Thiên Chúa qua chính cung cách và tấm lòng của vị linh mục. Lúc này, linh mục chính là thừa tác viên của lòng thương xót. Làm sao để hối nhân ra đi bình an và tràn đầy hy vọng hơn về một tương lai phía trước, dẫu biết rằng cuộc sống còn nhiều bất trắc, lòng người còn bao phen chao đảo, ngã quỵ, nhưng tình thương làm cho họ can đảm đứng lên làm lại cuộc đời.
Linh mục thi thố lòng thương xót không phải chỉ nơi toà giải tội, nhưng cả trong cuộc sống. Trong mọi mối tương quan, trong những lần gặp gỡ, trong cung cách hành xử…, người linh mục không được quên gương mặt yêu thương và tấm lòng tha thứ của Đức Giêsu đang cần được thể hiện nơi bản thân mình. Ý thức được điều này, người linh mục ngày càng trở nên giống Thầy Giêsu hơn.
Linh mục rắc gieo Lời hy vọng
Trong đêm vọng phục sinh, Giáo hội đã thốt lên những lời vui sướng: “Ôi tội hồng phúc”. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta cách lạ lùng, nhưng cứu chuộc còn lạ lùng hơn nữa. Theo lẽ tự nhiên, sau khi nguyên tổ phạm tội, là chúng ta thua rồi, vô phương cứu chữa.[13] Nhưng biệt tài của Thiên Chúa là Người có thể vẽ đường thẳng bằng những nét cong.
Khi chiêm ngắm về kế hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa, thánh Phaolô, đặc biệt trong thư gởi tín hữu Rôma, đã cho chúng ta xác tín hết sức mạnh mẽ: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, thì ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20); “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người”; “Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô thể hiện trong tôi”; “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô…?” Những xác tín ấy, là nguồn động lực rất mạnh giúp chúng ta giữ vững niềm hy vọng.
Hãy can đảm trao phó cuộc đời chúng ta cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Thánh Phaolô còn mời gọi chúng ta hãy hy vọng ngay cả khi không còn gì để hy vọng nữa.[14] Bởi vì niềm hy vọng của chúng ta không phải là niềm hy vọng hão huyền, nhưng là niềm hy vọng đặt nền trên lời hứa của Thiên Chúa.[15] Chỉ khi nào có một niềm hy vọng son sắt, vàng đá, chúng ta mới có thể trả lời cho những ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta.
Sau bao những thất bại ê chề trong cuộc sống, sau bao lần vật lộn với sự yếu đuối của bản thân, con người ngày nay, chỉ còn biết bám víu vào một điều duy nhất là Thiên Chúa sẽ cứu mình. Kitô giáo không phải là đạo của những người hùng Hercules, nhưng là đạo của những người nghèo, đạo của sự tín thác, cầu khấn. Chẳng lạ gì khi các tôn giáo khác du nhập vào Việt Nam, Phật giáo chẳng hạn, từ là một nỗ lực tự giải thoát mình, đã biến thành một thứ tôn giáo lễ bái, khấn xin. Con người tự nhận thấy mình không đủ sức mang vác vận mạng đời mình, rất cần một sự đỡ nâng đến từ bên ngoài. Đó chính là niềm hy vọng.
Có những mảnh đời thoạt trông như không còn một chút  hy vọng, nhưng họ vẫn lầm lũi bước đi, vẫn mơ hồ chờ đợi một chút ánh bình minh loé rạng dẫu cho cả cuộc đời mình là đêm đen, giông tố. Chính những bước chân lầm lũi ấy, diễn tả một niềm hy vọng lạ lùng; nói như ngôn ngữ của thánh Phaolô, đó là hy vọng ngay cả khi mình không còn gì để hy vọng nữa.[16] Cha Timothy Radcliff, nguyên Tổng quyền Dòng Anh Em Thuyết Giáo, có một lối diễn tả bằng hình ảnh rất hay, con người sống niềm hy vọng giống như một kẻ ngồi chờ ở trạm xe buýt, dù chưa thấy bóng dáng chiếc xe đâu, nhưng lòng vẫn tin chắc rằng thế nào xe buýt cũng đến. Hoặc niềm hy vọng được diễn tả như hình ảnh chị đan sĩ ngồi gảy đàn trong đêm vọng phục sinh với ngọn nến cháy sáng làm rạng rỡ khuôn mặt chị, dẫu cho xung quanh là bóng đêm mù mịt.
Theo dòng lịch sử cứu độ, chúng ta thấy xuyên qua biết bao biến cố thăng trầm, tội lỗi của dân Chúa, Chúa Thánh Thần vẫn luôn hiện diện, và Người có thể rút tỉa từ sự dữ những điều lành cho con người. Trong lịch sử Hội thánh, chúng ta thấy không thiếu những lúc đen tối, nhưng Thánh Thần vẫn dẫn dắt Hội thánh qua những khó khăn, Hội thánh vẫn được thanh luyện, và vẫn là Hiền thê xinh đẹp của Đức Giêsu.
Người sống niềm hy vọng phải luôn nhìn thấy dấu hiệu sự sống ngay trong đống đổ nát, chết chóc; phải nhìn thấy ngay trong đống tro tàn vẫn còn than hồng âm ỷ, có sức bùng cháy lên mãnh liệt; phải thấy không bao giờ con người là thua cuộc, vì vẫn còn Thiên Chúa đỡ nâng.
Người linh mục được mời gọi nhìn cuộc sống với cái nhìn lạc quan của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về thế giới, càng không bao giờ thất vọng về con người. Trong lịch sử đời mình, thường những trang bi đát, tăm tối, lại là những trang in đậm dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử  bao vị thánh lớn cũng khởi đi từ những trang tăm tối như thế. [17]
Nẻo đường hy vọng là nẻo đường rất đẹp, và chắc chắn dẫn chúng ta đến đích; bởi vì chúng ta biết chúng ta đặt niềm hy vọng vào ai, vào Đấng nào. Đức Giêsu chính là đối tượng niềm hy vọng của chúng ta. Người đem đến cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ, niềm hy vọng được sống vĩnh cửu. Đức Giêsu chính là trung tâm điểm của lịch sử, là Đấng các ngôn sứ loan báo, là điểm thành toàn của lời hứa Thiên Chúa xưa kia. Chính Người là Đấng sẽ lấp đầy niềm hy vọng cháy bỏng của con người thời đại hôm nay. Người là Đấng muôn dân trông đợi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, là đường, là sự thật, và là sự sống. Chính Đức Giêsu đã nói : “Thầy đến để thế gian được sống và sống dồi dào”. Đức Giêsu chính là đích điểm niềm hy vọng, là hạnh phúc đích thực của con người. Niềm hy vọng của con người mãi mãi là trống rỗng nếu không đạt đến Đức Kitô, nếu không được Người chiếm hữu, lấp đầy.
Vì Lạy Chúa,
chính Ngài là Đấng con trông đợi,
lạy Đức Chúa,
chính Ngài là Đấng con tin tưởng
ngay từ độ thanh xuân … (Tv 70).
Kết luận
Người linh mục được chia sẻ ba chức vụ của Chúa Giêsu một cách đặc biệt: chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế. Với chức vụ tư tế, người linh mục tế lễ mỗi ngày và dâng lên Thiên Chúa lễ phẩm của toàn dân; với chức vụ ngôn sứ, người linh mục được mời gọi loan báo tình yêu của Thiên Chúa, loan báo lòng xót thương, loan báo niềm hy vọng; với chức vụ vương đế, người linh mục được trao phó coi sóc đoàn chiên. Mong sao mọi người có thể bắt gặp hình ảnh Đức Giêsu mục tử nơi người linh mục của Chúa. Người linh mục không loan báo lời của mình nhưng loan báo lời Chúa; người linh mục không nỗ lực dạy dỗ luân lý cho bằng dẫn dân Chúa đến đồng cỏ xanh ân sủng và no thoả bên dòng suối tình thương; người linh mục cảm thông những nỗi đoạn trường và trở nên dấu chỉ cho anh chị em mình về niềm hy vọng.


[1] Xc. Dc 4, 12-16.
[2] Xc. Hs 2, 16-25.
[3] Xc. Is 49, 13-16.
[4] Xc. Gr 31, 1-9.
[5] Tv 32.
[6] Lc 15, 4-7.
[7] Xc. Ga 10, 11.
[8] Ga 17, 12.
[9] Lc 15, 7.
[10] Lc 15, 8-10.
[11] Lc 15, 14-31.
[12] Xc. 2 Sm 12, 1-17.
[13] Đây cũng là một quan điểm thần học về ơn cứu chuộc của anh em Tin Lành Luther, họ cho rằng, sự sa ngã của con người không thể nào phục hồi lại được. Con người hoàn toàn bị băng hoại, hư mất; và ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu chỉ như tấm áo choàng cho chúng ta khoác vào mà thôi.
[14] Xc. Rm 4,18-25.
[15] Xc. Dt 6,10-20.
[16] Xc. Rm 4,18-25.
[17] Xc. Phạm Quốc Văn, OP.  Trên đường Emmaus, tr. 118-122.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn