Nếu sánh ví môi trường huấn luyện như một vườn
ươm, thì các Nhà đào tạo cần phải
tạo cho các ứng sinh một “hệ sinh thái” tốt lành.
Các ứng sinh sẽ phát triển đời sống tâm linh tốt khi được sống trong một môi trường có đời sống tâm linh “khoẻ mạnh”.
tạo cho các ứng sinh một “hệ sinh thái” tốt lành.
Các ứng sinh sẽ phát triển đời sống tâm linh tốt khi được sống trong một môi trường có đời sống tâm linh “khoẻ mạnh”.
Quốc Văn, OP.
Ai trong chúng ta cũng
phải chân nhận rằng, trào lưu tục hóa ngày nay đang gây nhiều khó khăn cho đời
sống đức tin của người Kitô hữu, cách riêng cho những ai sống đời thánh hiến.
Quan tâm đến vấn đề này, chính ĐTC Bênêđictô XVI đã cho thành lập Hội Đồng Giáo
Hoàng cổ võ việc Tân Phúc Âm Hóa để giúp cho các Giáo hội địa phương nhận diện
và đáp lại những vấn đề do việc tục hóa gây ra.[1]
Dù sao, hiện tượng này có màu sắc khác nhau tùy mỗi nơi. Nói khác đi, tính đặc
thù của nó tùy theo mỗi địa phương, mỗi khu vực, mỗi nền văn hóa và truyền
thống tôn giáo khác nhau. Trong chính cái nhìn tách biệt này, chúng ta cùng
nhau đặt vấn đề về việc đào tạo các tu sĩ trong bối cảnh tục hóa tại
Việt Nam hôm nay. Trước khi đi vào vấn đề này, chúng ta cùng phân định
xem: nếu hiện tượng tục hóa trong xã hội phương Tây được hiểu như là sự
lãng quên hoặc thờ ơ với Thiên Chúa, thì đâu là những biểu hiện tục hóa tại Việt Nam hôm nay? Và
từ hoàn cảnh thực tế ấy, chúng ta phải đào tạo các huấn sinh như thế nào?
1.
Phân định những biểu
hiện của tục hóa trong xã hội và Giáo hội Việt Nam hôm nay
Trên bình diện xã hội
Không dễ dàng chỉ mặt
đặt tên những hiện tượng mà ta dán cho cái nhãn là “tục hóa”, tuy nhiên ngang
qua truyền thống văn hóa, tín ngưỡng và tôn giáo của Việt Nam, chúng ta có thể
chỉ ra một số nơi chốn, yếu tố, nơi đó hiện tượng tục hóa có thể xuất hiện:
- Hiện tượng tục hóa có thể này sinh từ nỗ lực
tìm cách tự giải thoát mình khỏi sự giám hộ của truyền thống : cơ cấu gia
đình theo truyền thống tổ tiên, những di sản của Phật giáo, Khổng giáo, Lão
giáo và ngay cả Kitô giáo nữa. Những giá trị truyền thống này đôi khi bị con
người thời nay coi như là trói buộc tự do cá nhân.
- Hiện tượng tục hóa có
thể nảy sinh từ những thực tại của đời sống con người như: quyền lực, tiền bạc,
tình dục, chính trị… Những thực tại này cùng lúc vừa hữu ích vừa chống lại con
người.
- Hiện tượng tục hóa có
khi đặt điểm tựa nơi quyền bính chính trị nơi những con người đã mất lý tưởng
phục vụ, quyền bính chỉ còn là phương tiện để củng cố, bảo vệ và mở rộng những
lợi nhuận của tầng lớp này (một kiểu nói trong xã hội ngày này là “lợi ích
nhóm”).
- Hiện tượng tục hóa có
thể nảy sinh từ sự phân cách giữa các thế hệ. Ngày càng có rất nhiều bạn trẻ
rời làng xóm ra thành thị để kiếm việc làm hoặc để học hành. Ở nông thôn chỉ
còn lại là những cụ già và trẻ em; có khi vợ chồng cũng phải li tán vì miếng
cơm manh áo…, dần dà hình thành một quan niệm sống khác biệt, khó dung hòa.
- Hiện tượng tục hóa có thể này sinh khi một
số người coi thành thị như là một thiên đường tại thế. Trước tình trạng thiếu
vắng bầu khí gia đình, hụt hẫng tình cảm, những áp lực của đô thị hóa, hoặc các
nhu cầu gia tăng, nhiều người đã để mình cuốn theo những đề nghị dễ dãi dưới
nhiều hình thức choáng ngợp. Khi mà những chuẩn mực truyền thống bị đảo lộn,
tình trạng tục hóa trên đẩy đời sống con người tới nhiều hình thức bù trừ (tình
dục, nghiện ngập hay tham nhũng), lúc đầu có vẻ như sự bù đắp tạm thời, nhưng
càng ngày càng lún sâu vào “vũng lầy êm ái” và người ta khó lòng có thể thoát
ra.
Trên bình diện Giáo hội
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra rằng
tại Việt Nam hôm nay, cuộc sống hiện đại, kỹ nghệ hóa, và sự khao khát tìm lại
giá trị của mình cùng với sự kính trọng của người khác là mảnh đất màu mỡ để hiện
tượng tục hóa này có thể phát triển mạnh mẽ. Ảnh hưởng
lớn lao của trào lưu tục hóa trên dân chúng, nhất là giới trẻ Việt Nam, phần
lớn nằm ở sức quyến rũ của kỹ thuật, vì những kỹ thuật này có khả năng cung cấp
những tiện nghi, thú vui v.v. và được coi như một phương tiện quý giá để thoát
khỏi cảnh đói nghèo, để được kính trọng và được ngang hàng với các nước phương
Tây trong sự giầu có và tân tiến với sự hào nhoáng quyến rũ. Liệu cộng đồng
Kitô giáo Việt Nam có thể đứng vững được trước làn sóng tục hóa này?
Việc chuyển
mình từ một cộng đồng được bao bọc sau lũy tre xanh với những chuẩn mực chắc chắn
sang một cộng đồng mở cửa đón những làn gió mới, chắc chắn cộng đồng Công giáo
Việt Nam khó lòng kiểm soát được hết những hậu quả của nó. Cộng đồng này nhận
thấy rằng mình đang bị ảnh hưởng khủng khiếp bởi lối sống tiêu thụ hiện đại. Đức
Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng: “Người ta thần thánh hóa những lợi nhuận
kinh tế đối với những nhu cầu con người và đối với người nghèo”. Hiện tượng này đang dần dần lây
nhiễm và bén rễ trong Giáo hội Việt Nam hôm nay.
Quả vậy, ngay trong
lòng Giáo hội, biểu hiện tục hóa dễ thấy nhất, chính là sự thờ ơ, lãnh đạm đối
với tôn giáo và hậu quả là số giáo hữu tham dự phụng vụ, bí tích và các sinh hoạt
của giáo xứ giảm sút; và cho dù nhiều nơi con số giáo hữu còn tham dự khá đông,
nhưng lại thiếu mất chiều sâu, thiếu mất tâm tình tôn giáo cần có... Cũng vậy,
con số linh mục, tu sĩ mỗi ngày mỗi ít dần, nhất là tại các môi trường thành thị
phát triển.
Một
tình trạng khác rất đáng tiếc, đó là đức tin Kitô giáo và truyền thống sống đạo
đã trở thành xa lạ đối với rất nhiều con cái của Giáo hội. Nhiều người, tuy
chưa bỏ Giáo hội, nhưng cách suy nghĩ và cách sống đã xa lạ và có khi còn công
khai từ khước và chống đối Giáo hội. Trào lưu tục hóa này diễn ra ngay trong
lòng Giáo hội qua cách sống nơi nhiều giáo hữu và ngay cả hàng ngũ linh mục, tu
sĩ; họ ra như không còn lấy Chúa Giêsu làm trung tâm điểm đời mình, nhưng chạy
theo nếp sống tìm kiếm tiền bạc, lạc thú và hưởng thụ. Nhìn chung, khuynh hướng
này là nếp sống lấy dễ dàng, thoải mái, tiện nghi làm tiêu chuẩn lựa chọn.
Trầm trọng hơn nữa, đó chính là nếp sống hưởng thụ thú vui xác thịt, điều này được biểu hiện rõ ràng qua
cuộc khủng hoảng ấu dâm, điển hình nơi một số Giám mục, linh mục tu sĩ bên Hoa Kỳ và bên các nước Âu châu (nói vậy không có nghĩa
là ở Việt Nam, các linh mục, tu sĩ đều trong sạch !).
Quả vậy, Đức
Giáo hoàng Bênêdictô XVI cho thấy, Giáo hội đang bị trào lưu tục hóa gặm nhấm mỗi
ngày. Trong buổi triều yết dành cho Hội Đồng Giáo Hoàng Văn Hóa, ngày 08 tháng
3 năm 2008, ngài đã khẳng định vấn đề tục hóa trong lòng Giáo Hội như sau:
Trào lưu tục
hóa không chỉ đe dọa từ bên ngoài, mà đã biểu hiện từ lâu chính trong lòng Giáo
hội. Nó đã biến thể, từ bên trong và một cách sâu đậm, đức tin Kitô gây ra hậu
quả ảnh hưởng đến cả nếp sống và cách hành động hằng ngày của các tín hữu… Họ sống
trong thế giới và rất nhiều khi họ bị tiêm nhiễm, nếu không muốn nói là bị chi
phối bởi văn hóa hình ảnh với chiều hướng áp đặt những mẫu sống và sức mạnh đẩy
đến sự chối bỏ Thiên Chúa cách thực tiễn, coi như không cần có Thiên Chúa,
không cần phải nghĩ đến Ngài, trở về với Ngài. Ngoài ra, não trạng lạc thú và
hưởng thụ đang thịnh hành còn gây ra, nơi các tín hữu cũng như các mục tử,
khuynh hướng nông cạn và ích kỷ, làm tổn hại cho đời sống cộng đoàn Hội thánh.[2]
Vậy chúng ta phải làm
gì khi trào lưu tục hóa hiện đại này như một thực tại ta không thể tránh
khỏi? Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, khi đối thoại
với các nhà báo trên chuyến bay tới Bồ Đào Nha, thứ ba, 11 tháng 5 năm 2010, đã
nhận định rằng:
Sự hiện diện
của hiện tượng thế tục hóa là một điều bình thường; nhưng khi có sự tách rời
hay đối nghịch giữa duy thế tục hóa và nền văn hóa đức tin, thì nó không còn
bình thường nữa. Nó cần phải vượt qua trình trạng đối nghịch, tách rời này.
Điều thách thức lớn nhất hiện nay là : hai thực tại này gặp gỡ nhau và mỗi
thực tại tìm thấy căn tính riêng của mình.
Trong những cuộc gặp gỡ
này, chắc chắn có sự tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Thần Khí của Đức Kitô tử
nạn và phục sinh không ngừng đến trong Giáo hội để hướng dẫn sứ mạng Giáo hội.
Điều quan trọng cần hiểu làm thế nào để cuộc gặp gỡ này với Chúa Thánh Thần
được hiện tại hóa.
2. Việc huấn luyện các tu sĩ tại Việt Nam
Sau khi đã lướt qua
những nét đặc thù trong khung cảnh tục hoá tại Việt Nam, chúng ta có thể bàn
đến việc đào tạo các huấn sinh trong chính môi trường tục hóa bao gồm cả cơ may
và thách đố này.
Những nhận định chung
Điều tiên quyết, các
nhà đào tạo phải nhận ra hiện trạng của chính Giáo hội, và xã hội mà mình đang
sống, môi trường các huấn sinh đã được hấp thụ và hình thành nhân cách sống của
họ.
Sẽ là hão huyền nếu chỉ
để ý tới khung cảnh chung của việc thế tục hoá tại Việt Nam mà không quan tâm
tới những ảnh hưởng thực tế trên các huấn sinh. Một mặt, các huấn sinh được mời
gọi để sống kinh nghiệm cứu độ trong Đức Kitô như là nền tảng hành trình Kitô
hữu của họ; mặt khác, họ cũng phải khám phá xem mình có phù hợp thật sự để trở
nên chứng nhân, bằng cách hiến dâng cuộc đời cho việc phục vụ Thiên Chúa và con
người hay không. Các nhà đào tạo có trách nhiệm hướng dẫn các huấn sinh khám
phá những điều ấy trong chính sự tự do của họ, và giúp các huấn sinh có khả
năng phân định và đối thoại với chính nền văn hoá họ đang sống, một nền văn hóa
vốn luôn thay đổi theo thời đại. Việc huấn luyện này phải bảo đảm cung cấp cho
các huấn sinh những đường hướng cụ thể, sâu sắc, để các huấn sinh có thể uốn
nắn đời mình và ngoan ngoãn mở lòng cho Thánh Linh thúc đẩy, hầu họ có thể đạt
tới Chân Lý toàn diện, tới chiều kích dài-rộng-cao-sâu của Đức Kitô, Đấng mà
suốt đời họ sẽ gắn bó và bước theo trên hành trình của người môn đệ.
Để nhận ra những ảnh
hưởng của tục hóa trên đời sống huấn sinh, có khi ngay trên chính đời sống của
những nhà đào tạo, chúng ta cần gọi tên những ảnh hưởng ấy:
- Nhà tu là nơi người
ta cảm thấy an toàn, không sợ thất nghiệp, trong khi ở ngoài đời dù tốt nghiệp
đại học có khi cũng chỉ làm “nhà báo”;
- Nhà tu là nơi người
ta dễ dàng được nhìn nhận danh phận : truyền thống gia đình, lòng quý
trọng của mọi người có khi là một lời khuyến khích hay cũng có thể là một áp
lực cho các huấn sinh;
- Đi tu dễ dàng nhận
được sự giúp đỡ cả về mặt tinh thần và vật chất của nhiều người, điều này rất
đáng trân trọng, nhưng cũng là cái bẫy làm cho huấn sinh dễ dàng sao nhãng đời
tu và bắt đầu lo tìm kiếm của cải vất chất…;
- Việc được xuất ngoại
là một cám dỗ không nhỏ nơi không ít huấn sinh, điều mà tự thân họ không dễ
dàng đạt được khi ở ngoài xã hội.
Bên cạnh những ảnh
hưởng tiêu cực của tục hóa nổi lên trên bề mặt xã hội mà ta dễ dàng nhận thấy,
cũng còn đó những ảnh hưởng tiêu cực khác nằm ngay trong nhận thức về ý nghĩa
của đời dâng hiến:
- Lẫn lộn giữa ơn
gọi và nghề nghiệp: những “chức vụ”, ngay cả thánh chức trong đời tu phải được
nhìn nhận như một ơn gọi để phục vụ, chứ không phải là một nghề nghiệp, tệ hại
hơn khi có ai coi đó như một cái “cần câu cơm”,
- Coi việc phục vụ như
một “dịch vụ”, tu sĩ hay thừa tác viên biến mình thành công chức, tệ hơn nữa là
chỉ phục vụ những kẻ giàu có, mà bỏ quên những người nghèo khổ…;
- Sống an phận thủ
thường, thiếu dấn thân, không có ý thức về sứ vụ truyền giáo của Hội thánh;
- Lạm dụng quyền hành,
tự coi mình như ông vua, bà chúa, vắng bóng ý nghĩa của việc chia sẻ trách
nhiệm với giáo dân, quên rằng quyền bính là để phục vụ;
- Lười biếng, thiếu
sáng tạo, chỉ nhai đi nhai lại những gì cũ kỹ, có sẵn; sự “cắt
dán” vô tội vạ giết chết hồn tông đồ sinh động cần có;
- Thói coi mình là
trung tâm, sống ích kỷ, hướng chiều về các tiện nghi, thay vì quan tâm đến đời
sống giáo hữu;
- Thích trổ tài tự mình xoay xở, có khi chấp nhận cả những hình thức gian dối, miễn sao là
“được việc”;
- Thiếu trưởng thành
tâm cảm: luôn sống trong lo âu, bất an, mặc cảm, khép kín, khắt khe với người
khác, ngạo nghễ với những thành quả mình đạt được, bỏ quên người nghèo, thiếu
thông cảm, tìm bù đắp nơi sự vật, thiếu vắng lòng xác tín vào lòng thương xót
của Chúa…
Vài định hướng cho việc
đào tạo
Đào tạo trước hết là
việc của Chúa. Chúng ta phải nhận ra rằng, mình chỉ là người cộng tác, như
chính thánh Phaolô đã xác tín rằng: tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng chính Thiên
Chúa mới cho mọc lên.
Theo cha Thierry-Marie
Courau, chúng ta cần quan tâm ba yếu tố căn bản:
- Sự trao gửi con người cho ơn cứu độ được ban trong Đức Kitô, nhờ
Người mà chúng ta có thể sám hối, quay về với tình yêu và tự do; chính Người
dẫn huấn sinh đến việc giao hoà với Thiên Chúa, với người khác và với chính họ;
- Sự dấn thân phục vụ thế giới
hình thành trong lòng nhiệt thành cho sự chuyển động của toàn thể con người bên
trong và bên ngoài, cho và với người khác ;
- Con đường biến đổi được
thực hiện trong các thử thách và trong biến chuyển của thời gian, và biểu lộ
tính thích nghi trong sức mạnh và sự mềm dẻo, tính bền bỉ của một ơn gọi biết
để cho Thần Khí của Đức Kitô hướng dẫn.
Những yếu tố trên được
thực hiện cụ thể:
- Qua việc bén rễ trong
tương quan cá vị với Đức Kitô Đấng Cứu Độ Con Người ;
- Bằng cách năng đến
với Lời Thiên Chúa, với lời cầu nguyện trong nơi bí ẩn và các bí tích, trong
việc phục vụ người nghèo;
- Với lối sống nhờ ơn
cứu độ, tất cả những hình thức nô lệ như sợ hãi, kiềm tỏa, thiếu quân bình...
được Đức Giêsu giải thoát. Và từ đó người thụ huấn có thể nếm trải được niềm
vui thực sự khi:
. dấn thân phục vụ
người nghèo; bởi vì người nghèo là bí tích của Thiên Chúa (x. Mt
25, 31-46;);
. hướng tới Đức Kitô,
Đấng hoà giải, đón nhận ơn hoán cải; trở nên người anh em, người chị em giữa
các anh chị em của mình;
. chối từ quyền bính
như một sự thống trị, nhưng như là « sự phục vụ mọi người»;
. không đánh giá đời tu
qua hiệu quả của công việc, nhưng dựa trên các hoa trái của đức ái;
. tỉnh thức và hướng về
một đời sống quân bình trong tất cả các bình diện, kể cả tình cảm;
. hiểu biết rằng luật lệ
cũng như tự do là để ta sống yêu thương đích thật, sống theo luật mới, luật của
Thần Khí;
. sống niềm vui phục vụ
và biết sống cho người khác, hướng tới việc phục vụ mọi người chứ không phải
chỉ phục vụ những người đồng đạo…
Trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, các số số 71-109, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã phác họa những nét căn bản của người môn đệ Chúa Kitô:
- học biết vâng phục
thánh ý Thiên Chúa ;
- nhạy cảm với Thánh
Thần, để biết sống từ bỏ;
- khuôn đúc đời mình
theo kiểu mẫu của Chúa Giêsu, Đấng tự hạ cho đến chết (Pl 2,11);
- sống tinh thần nhập
thể, dấn thân biến đổi thế giới.
Quả thật, việc đào tạo
toàn diện với các chiều kích: nhân bản,
tâm linh, tri thức và sứ vụ; hướng tới sự tự do đích thật, đa dạng hóa các
ơn gọi, là mối ưu tư không nhỏ của Hội thánh, của những nhà đào tạo và trước
hết là của chính các huấn sinh. Chỉ khi nào có sự cộng tác đắc lực của người
thụ huấn với các nhà đạo tạo, nhất là sự cộng tác với Chúa Thánh Thần, việc đào
tạo mới có thể sinh được những hoa thơm trái ngọt, trong chính môi trường tục
hóa của Việt Nam
hôm nay. Từ những định hướng đào tạo căn bản này, chúng ta bàn đến những yếu tố
cụ thể trong vệc đào tạo.
Những
yếu tố căn bản trong việc đào tạo
Trước
hết việc đào đạo phải khởi hành và tái
khởi hành từ Đức Kitô, rồi đến việc thanh
thoát theo các lời khuyên Tin mừng, yêu mến người nghèo và cuối cùng cần kiến tạo cộng đoàn với bầu khí hiến dâng
thực sự.
Khởi hành và tái khởi hành từ Đức Kitô
Huấn thị Tái
Khởi Hành từ Đức Kitô (SAFC) thúc
giục phải huấn luyện đời sống tâm linh, ngang qua việc canh tân đời sống thiêng
liêng cho những người sống đời thánh hiến; việc canh tân này được cụ thể hóa
bằng việc:
Trước hết,
chúng ta cùng chiêm ngưỡng vẻ rạng ngời
trên khuôn mặt Đức Kitô, nhờ đó các
người sống đời thánh hiến được Thánh Thần mời gọi hoán cải không ngừng để
chiều kích ngôn sứ của ơn gọi mang lấy một sinh lực mới (xc. SAFC, 1).
Việc hoán
cải này thúc đẩy những người sống đời thánh hiến bước theo vết chân Đức Kitô. Hành trình này luôn cam go và
đối diện với nhiều thử thách; nhiều khi chúng ta thấy mất phương hướng, thấy
chùn chân mỏi gối. Tuy nhiên, như các môn đệ trên đường về làng Emmaus, chúng
ta luôn có Chúa làm bạn đồng hành, và chỉ mình Người mới có thể làm cho lòng
chúng ta bừng cháy lên và can đảm bước theo dấu chân Người (xc. SAFC, 1).
Việc xuất
phát lại từ Đức Kitô sẽ thổi vào đời sống chúng ta niềm hy vọng sống động, hầu
có thể vượt qua những thách đố và tích cực dấn thân với tinh thần mới mẻ trong
đời sống tâm linh của mình (xc. SAFC,
4).
Chính tinh
thần dấn thân mới mẻ ấy của người sống đời thánh hiến thể hiện chứng tá hùng
hồn về một tình yêu tha thiết dành cho Đức Kitô; họ trở nên ký ức sống động về
lối sống và hành động của Đức Giêsu, trong tương quan với Chúa Cha và với anh
chị em mình (xc. SAFC,
5).
Huấn Thị
cũng mời gọi chúng ta không chạy trốn, nhưng can đảm đối diện với những thách
đố để khám phá lại ý nghĩa và phẩm tính đời sống thánh hiến của mình. Với ánh
nhìn lạc quan khi chiêm ngắm gương mặt Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng,
những khó khăn và vấn nạn mà đời sống tu trì trải qua hôm nay có thể làm nảy
sinh một kairos (καιρός) mới, một thời gian ân sủng. Đằng sau các thách đố ấy, ẩn
dấu một tiếng gọi đích thật của Chúa Thánh Thần mời gọi khám phá lại sự phong
phú và các tiềm năng của lối sống này (xc. SAFC, 13).
Muốn huấn
luyện, muốn canh tân đời sống tâm linh, người sống đời thánh hiến phải biết đặt
đời sống ấy lên hàng đầu. Đây là một đời sống luôn năng động theo hướng dẫn của
Thần Khí; và thánh Phaolô khuyên chúng ta phải không ngừng canh tân chính mình
trong việc tăng trưởng cho đến tầm vóc viên mãn của Thân thể Đức Kitô (x. Ep
4,13). Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy rằng: “Đời sống thiêng liêng phải được đặt lên hàng đầu trong chương trình của
mọi gia đình đời sống tận hiến, ngõ hầu mọi tu hội và mọi cộng đoàn trở thành
những trường học về linh đạo Phúc âm chân chính.” (VC, 93)
Mở lòng và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của
Thần Khí, các vị sáng lập đã làm phát sinh nhiều đoàn sủng đáng ngưỡng mộ khác
nhau; và cũng cùng một Thánh Thần tác động, chúng ta được mời gọi bước theo
Chúa Giêsu sát hơn, sống tình thân với Người hơn, và chia sẻ trọn vẹn sứ mệnh
của Người. Chỉ mình Thần Khí mới làm cho đời sống tâm linh của chúng ta giữ mãi được nét tươi
trẻ, sáng tạo và vẫn trung thành với đặc sủng ban đầu, hầu đáp trả các dấu chỉ
của thời đại hôm nay.
Quả thật, đời sống thánh hiến hôm nay cần đến
sự tái sinh thiêng liêng, bằng cách “buông theo Thần Khí” và sống sự phong
nhiêu của đời thánh hiến trên nền tảng Tin mừng và phép Thánh tẩy cùng với sự thánh hiến mới mẻ và đặc biệt của việc
bước theo Chúa Kitô (xc. SAFC,
8; VC, 32).
Việc bước theo Đức Kitô
phải luôn được làm mới mẻ nhờ việc xuất
phát lại từ chính Người, chiêm ngắm dung nhan Người và lắng nghe Lời
Người. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô
II khẳng định rằng sự thánh thiện không thể có được nếu không lắng nghe lời
Thiên Chúa (xc. VC 94). Chính trong
việc lắng nghe Lời, cầu nguyện, chiêm ngưỡng, đời sống nội tâm của chúng ta
được tình yêu và vẻ đẹp của Thiên Chúa quyến rũ (xc. SAFC, 17), từ đó những người sống
đời thánh hiến can đảm “chèo ra chỗ sâu mà thả lưới”; nghĩa là trở nên lời chứng cho
tình yêu Thiên Chúa, nhận biết và phục vụ Chúa Kitô trong sự sáng tạo của đức
ái, hăng say loan báo Tin mừng, phục vụ sự sống, truyền bá sự thật và mở đường
cho những cuộc đối thoại lớn (xc. SAFC,
các số 33-40).
Thanh thoát theo các lời khuyên Tin mừng
Hành
trình huấn luyện tiến tới tâm tình thanh thoát, hạnh phúc và hăng say tông đồ
là hành trình luyện tập theo tinh thần ba lời khuyên Phúc Âm Khiết tịnh, Khó nghèo và Vâng phục. Ba
lời khuyên Phúc Âm là ba hành trình tu luyện thiết yếu cho việc say mến Chúa
Giêsu: thanh thoát khỏi tất cả để tâm hồn có thể vươn lên tới Chúa Giêsu trong
tình yêu giao ước. Lời khuyên Khiết Tịnh giúp thanh luyện tình cảm để yêu mà không
dính để tìm thấy hạnh phúc trong tình yêu của Chúa và có khả năng thương yêu
mọi người, nhất là những ai bị quên lãng. Lời khuyên Khó nghèo giúp thanh luyện
mối tương quan với tiền bạc, của cải để chỉ nhận Chúa làm gia nghiệp. Lời
khuyên Vâng phục giúp tu luyện để được thanh thoát trước chính mình, khỏi những
tính toán tư lợi, tham vọng, danh giá, để chỉ tìm và làm theo ý Chúa diễn tả
qua nhiều cách, đặc biệt qua các Bề trên.
Điều
quan trọng là phải huấn luyện cho cõi lòng được thanh thoát và trong bối cảnh
của hiện tượng tục hóa, việc tu luyện phải áp dụng cụ thể với những trào lưu
tục hóa như liên hệ nam nữ, việc sở hữu và sử dụng những phương tiện tân tiến,
những sở thích, những tiện nghi, v.v.
Trong
bối cảnh của trào lưu tục hóa, việc huấn luyện các ứng sinh phải để ý đặc biệt
đến các phương tiện tân tiến về di chuyển và truyền thông. Đây là những phương
tiện có thể làm cho cuộc sống thêm phong phú và giúp ích rất nhiều cho việc
tông đồ. Giáo hội nhìn các phương tiện truyền thông cách rất tích cực và chính
thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và ĐTC Bênêđictô XVI đã nhiều lần mời gọi các
linh mục, tu sĩ cũng như các tông đồ giáo dân phải biết sử dụng các phương tiện
truyền thông để loan báo Tin mừng. Tuy nhiên, các phương tiện di chuyển và
truyền thông có một sức thôi miên, dẫn đến đam mê, làm bại hoại tâm hồn. Thay
vì sử dụng chúng như dụng cụ để xây đắp cuộc đời và để loan báo Tin mừng, nhiều
người đã trở thành nô lệ cho chúng, làm cho cuộc sống trở nên mệt mỏi và trống
rỗng. Do đó, cần phải luyện tập cho lòng được thanh thoát và tự do để có thể sử
dụng chúng một cách tích cực, như những phương tiện để rao giảng Tin mừng và
làm ích cho tha nhân.
Yêu mến người nghèo
Trong
truyền thống của Giáo hội, lòng bác ái đối với người nghèo đói, cô nhi, quả phụ
và người đau yếu bệnh tật luôn là một đặc tính của đức ái Kitô. Chính vì vậy,
việc huấn luyện cần để ý đặc biệt đến việc hướng dẫn ứng sinh luyện tập lòng
thương yêu người nghèo với tinh thần của ba lời khuyên Phúc Âm.
Trong
bối cảnh tôn giáo và xã hội tại Việt Nam, việc huấn luyện lòng thương yêu người
nghèo phải để ý đến các khía cạnh cụ thể:
-
Lòng bác ái cụ thể đối với người nghèo là một đòi hỏi của Đức Tin, cần phải
được thi hành song song với việc tạo dựng cơ sở vật chất cho việc thờ phượng.
Vì vậy, không thể để cho nhu cầu xây dựng cơ sở thờ phượng và sinh hoạt cộng
đoàn đưa đến sự thờ ơ đối với người nghèo.
-
Tính cách toàn diện của tình thương: lòng bác ái đối với người nghèo không thể
giới hạn trong việc tổ chức cứu trợ. Lòng bác ái diễn tả qua việc giúp đỡ vật
chất không luôn luôn xây đắp cuộc đời người được giúp đỡ.
-
Điều cốt tủy trong tình thương yêu người nghèo chính là biểu lộ tình yêu đối
với con người, như chính lời dạy của Đức Thánh Cha Bênêdictô, xác định trong phần nhập đề của
tự sắc “Bản chất thâm sâu của Hội Thánh” (Intima
Ecclesiae Natura) về cơ cấu tổ chức bác ái trong Hội Thánh: “Hoạt động thực
tiễn sẽ chẳng đem lại hiệu quả gì nếu nó không tỏ lộ tình yêu đối với con người,
một tình yêu được nuôi dưỡng nhờ gặp gỡ Đức Kitô”.
Kiến
tạo cộng đoàn với bầu khí hiến dâng thực sự
Nếu
sánh ví môi trường huấn luyện như một vườn ươm, thì các nhà đào tạo cần phải
tạo cho các ứng sinh một “hệ sinh thái” tốt lành. Các ứng sinh sẽ phát triển
đời sống tâm linh tốt khi được sống trong một môi trường có đời sống tâm linh
“khoẻ mạnh”.
Trong
lá thư gởi cho anh chị em của mình vào thứ tư lễ Tro, ngày 25 tháng 2 năm 1998,
cha nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, Timothy Radcliffe viết :
Cộng đoàn tu trì cũng giống như một hệ sinh thái, có mục
đích nâng đỡ những hình thái sống khác lạ. Một con ếch quý hiếm phải cần đến hệ
sinh thái thích hợp nếu nó muốn sinh sôi nảy nở và vượt qua được tiến trình đầy
bất trắc đi từ trứng, đến nòng nọc rồi đến ếch. Nếu con ếch có nguy cơ bị tuyệt
chủng, người ta phải tạo một môi trường có ao hồ và khí hậu thích hợp để nó có
thể phát triển. Nếu chúng ta muốn sống cho trọn vẹn và muốn rao giảng Lời đem
lại sự sống thì đời sống chúng ta cũng cần một hệ sinh thái riêng. Nói thôi thì
chưa đủ, chúng ta phải tích cực lên kế hoạch và xây dựng những hệ sinh thái như
thế.
Thật
vậy, mỗi cộng đoàn đời tu làm sao xây dựng được một “hệ sinh thái” hiến dâng
sống động để mỗi phần tử có thể phát triển cách toàn diện. Nếu sống trong một
hệ sinh thái “bệnh hoạn”, trong đó chứa nhiều mầm bệnh thì “sinh vật” sống
trong đó sẽ trở nên èo uột, có nguy cơ bị huỷ diệt là điều khó tránh. Việc xây
dựng một cộng đoàn có đời sống tâm linh dồi dào là bổn phận của từng thành viên
sống trong đó. Giáo Luật số 661 dạy : “Các tu sĩ hãy chăm chỉ tiếp tục việc huấn
luyện đời sống thiêng liêng, đạo lý và thực hành trong suốt cuộc đời. Các tu
viện trưởng hãy cung cấp cho họ phương tiện và thời giờ cần thiết cho việc ấy”.
Kết luận
Trong môi trường tục hóa ngày nay, các nhà đào tạo cần
phải biết trao gửi các huấn sinh cho ơn cứu độ được ban trong Đức Kitô; chính
Người dẫn đưa huấn sinh tới việc biện phân môi trường mình sống, chấp nhận được
chính mình, không kháng cự nhưng vui vẻ tiến bước theo sự hướng dẫn của Hội
thánh, của hội dòng. Các nhà đào tạo cũng cần biết kiên nhẫn đợi chờ tiến trình
chữa lành và sự thăng tiến của huấn sinh, con đường này được thực hiện ngang
qua những thử thách và sự biến chuyển của thời gian; khi ấy huấn sinh có thể
thích nghi và vượt qua những thử thách trên hành trình thi hành sứ vụ, sẵn lòng
để cho Thần Khí của Đức Kitô hướng dẫn có khi ngang qua những nẻo đường thập
giá.
Tài liệu tham khảo
ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời
sống thánh hiến, 1994.
ĐTC Bênêdcitô XVI, Tự sắc Ubicumque et semper, 2010.
ĐTC Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin mừng, 2013
Thánh bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ,
Huấn thị Tái Khởi Hành Từ Ðức Kitô, 2012.
Huấn thị Tái Khởi Hành Từ Ðức Kitô, 2012.
Joseph Đinh Đức Đạo, La
formation des seminaristes au Vietnam devant le phenomene de la secularisation
experiences et reflexions, 2014.
Thierry-Marie Courau, Intervention 10
la formation des pretres pour la
nouvelle evangelisation dans un contexte de secularisation au Vietnam, 2014.
[1] ĐTC Bênêdcitô XVI, Tự sắc Ubicumque et semper thiết lập Hội Đồng
Giáo Hoàng cổ võ tân phúc âm hóa, 21/09/2010.
[2] www.vatican.va
Đăng nhận xét