Trong một xã hội bị tục hóa
như xã hội chúng ta đang sống hiện nay,
việc sống trọn vẹn các chiều kích của các lời khấn:
khiết tịnh, nghèo khó, vâng phục là một thách đố nặng nề
đối với mỗi người sống đời thánh hiến.
việc sống trọn vẹn các chiều kích của các lời khấn:
khiết tịnh, nghèo khó, vâng phục là một thách đố nặng nề
đối với mỗi người sống đời thánh hiến.
Phêrô Nguyễn
Trường Sơn, Tu Hội Chúa Giêsu
DẪN NHẬP
Trong thời đại chúng ta
đang sống, chủ nghĩa thế tục[1] phát
triển mạnh mẽ trên hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thực tế nó cũng mang tính tích cực là đưa tới việc nhìn nhận một sự độc
lập đúng đắn của các thực tại trần thế và nhân bản, nghĩa là sự độc lập của nhà
nước: văn hoá, chính trị, đời sống xã hội… vốn tồn tại trước khi Chúa giáng thế
làm người và kéo dài đến hiện nay. Điều này vốn đã được chúa Giêsu dạy chúng ta
khi Ngài trả lời những người Pharisêu là của Xêda hãy trả về cho Xêda và của
Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa (Mt
22,21). Như vậy Chúa Giêsu tách biệt tính
thế tục khỏi sự thánh thiêng cách rõ ràng: Người và vật của thế tục thì thuộc
về thế tục và Chúa xuống thế làm người là để cứu độ loài người và thánh hóa thế
giới trần tục này. Đang khi chúng ta tiếp tục sứ vụ của Ngài thì những gì tồn
tại trong thể gian từ trước tới nay tồn tại hoặc thay đổi đều hoạt động theo
qui luật riêng của nó, nhưng khi tính thế tục biến hóa thành trào lưu tục hóa
và đi tới chỗ cực đoan là trào lưu duy thế tục[2]
thì ảnh hưởng và tác hại của nó vô cùng trầm trọng vì nó loại bỏ Thiên Chúa ra
khỏi đời sống con người và con người có quyền tự do giải quyết những vấn đề cá
nhân theo ý muốn.
Trong Tự sắc mang tựa đề “Ubicumque et
semper” (ở mọi nơi và mãi mãi) của Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI, sau khi
nhắc đến nghĩa vụ ngay từ đầu của Giáo hội là rao giảng Tin mừng cứu độ của
Chúa Kitô, Ngài bày tỏ nỗi lo âu của mình trước hiện tượng nhiều nước Kitô giáo
kỳ cựu đang chịu ảnh hưởng nặng nề của trào lưu tục hóa, xa lìa đức tin Kitô,
trào lưu vô thần thực hành lan tràn cùng với sự dửng dưng đối với tôn giáo:
Người ta nhận
thấy có sự đánh mất đáng lo âu về ý nghĩa thánh thiêng, và người ta đi đến độ
đặt lại vấn đề về những nền tảng trước kia không hề bị tranh cãi, như niềm tin
nơi một Thiên Chúa đấng sáng tạo và quan phòng, mạc khải của Chúa Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ duy nhất, và quan niệm chung về những kinh nghiệm cơ bản của con
người như sinh, tử, sống trong một gia đình, sự tham chiếu luật luân lý tự
nhiên.[3]
Gần đây, vấn nạn tục hóa trong đời sống thánh hiến
lại được nhắc đến khá nhiều liên quan đến tình trạng phạm tội ấu dâm của một số
linh mục thuộc Giáo hội Hoa Kỳ và vấn đề tham nhũng của ngân hàng Vatican trở
thành một trong những mối băn khoăn thao thức của các đấng bậc có trách nhiệm
trong Giáo hội khi đề cập đến vấn đề khá tế nhị này. Đối với người Kitô hữu đặc
biệt đối với những người sống đời sống đời thánh hiến, là những người theo sát
Chúa Kitô với ba lời khấn làm nên căn tính người tu sĩ: vâng phục, khiết tịnh
và khó nghèo, thì đây là một thách thức không nhỏ. Một khi chúng ta xem nhẹ hay
lơi lỏng trong việc tuân giữ những lời khấn trên là chúng ta đang dần dần tục
hóa đời sống thánh hiến của mình. Trong bài viết này, chúng tôi xin giới hạn đề
tài liên quan đến vấn đề tục hóa trong đời sống thánh hiến tại Việt Nam. Nội
dung cụ thể như sau:
Phần I trình bày bối cảnh chung liên quan đến trào
lưu tục hóa trên thế giới và tại Việt Nam..
Phần II sẽ nêu lên khái niệm tục hóa trong đời sống
Kitô hữu nói chung theo Kinh thánh và Huấn quyền.
Cuối cùng, phần III sẽ đề cập đến Giáo huấn của Giáo
hội liên quan đến ba lời khấn: khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, đồng thời
trình bày những nguy cơ có thể tục hóa ba lời khấn trên vốn dĩ làm nên căn tính
của người sống đời thánh hiến.
I. BỐI CẢNH
CHUNG
1. Bối
cảnh tục hóa trên toàn thế giới
Xã hội thời hậu hiện đại mà chúng ta đang sống
được ca tụng như là đỉnh cao của văn hóa, văn minh nhân loại...; nếu xem dáng vẻ bên ngoài
hào nhoáng thì có lẽ đúng như vậy. Những tiến bộ về công nghệ, khoa học kỹ
thuật… trong mọi lĩnh vực đã đem lại cho con người nhiều tiện nghi phục vụ con
người về vật chất. Về mặt tinh thần, người ta đề cao “chủ nghĩa cá nhân”[4], “chủ
nghĩa tự do cá nhân”[5]… và xem
đó như nguyên tắc nền tảng cho quyền con người. Các nước kinh tế phát triển
Âu-Mỹ, Nhật Bản … được xem như là xã hội thế tục tiêu biểu của thế giới hiện
nay. Người dân ở đó có cuộc sống đầy đủ, tự do, không bị áp đặt về mặt tinh
thần và được cho là có cuộc sống hạnh phúc. Đặc biệt, với sự phát triển vượt
bậc về kỹ thuật, công nghệ mới mà cụ thể là internet, thế giới trở nên gần gũi
với mọi người và chỉ cần “click chuột” là người ta có thể biết chuyện gì đang
diễn ra trên đất nước mình hoặc trên thế giới. Người ta có thể tìm thấy gần như
mọi thứ: chương trình bổ ích về chính trị, kinh tế, tôn giáo, khoa học, giáo
dục, tin tức, … hoặc giải trí, sách báo, phim ảnh nghệ thuật… và cả những trang
mạng mà các bậc phụ huynh hay những người có trách nhiệm giáo dục lo đến phát
sốt vì những nội dung mang tính tai họa của nó: phim ảnh trụy lạc, bạo lực, côn
đồ…
Trong bối cảnh đó, trào lưu tục hóa, xã hội
tiêu thụ[6], hưởng
thụ phát sinh là điều hiển nhiên và niềm tin tôn giáo bị xem nhẹ, thậm chí bị
lãng quên hay chối bỏ, thay vào đó là chủ nghĩa vô thần hoặc hoặc một thứ triết
lý nào đó tách Thượng Đế ra khỏi cuộc sống hiện sinh.
Một lý do khách quan
khác cũng góp phần khiến người ta lãng quên Thượng Đế là áp lực cuộc sống và
công việc khiến người ta như phải tăng tốc, thay đổi nhịp sống và cả đến thói
quen thường ngày. Người ta như thiếu thì giờ! Quả thật, sáng sớm thức dậy là
công việc, chiều tối về nhà nghỉ ngơi, giải trí hay đi siêu thị mua sắm, từ thứ
hai đến thứ sáu là công việc, chiều thứ sáu đến tối chủ nhật là weekend, nghỉ
ngơi, thư giãn... Dường như là xã hội công nghiệp sắp xếp chương trình cho con
người và biến họ thành người máy theo một nghĩa nào đó và Thượng Đế xem ra vắng
bóng trong cuộc sống của họ! Có chăng là người ta nhớ đến Chúa trong những dịp
quan trọng của đời người như sinh ra (đến nhà thờ để nhận phép thanh tẩy), lập
gia đình (đến nhà thờ làm lễ cưới) và chết đi (đến nhà thờ xin cử hành nghi
thức tang lễ) mà thôi!
Vả lại Phúc âm, Giáo lý
Hội thánh và những bài giảng trong thánh lễ của các cha sở thường là trái với
cách sống có phần buông thả và dễ dãi của họ về mặt luân lý như ngừa thai, phá
thai, li dị, hôn nhân đồng tính… vốn được pháp luật xã hội dân sự thế tục chấp
nhận và đảm bảo như là quyền tự do chính đáng. Trong bối cảnh như thế thì việc
nhà thờ vắng bóng giáo dân, chỉ còn số ít cụ ông, cụ bà sắp về với Chúa tham dự
thánh lễ mà thôi và sự suy giảm lòng tin, sụt giảm ơn gọi trong các cộng đoàn
Kitô hữu ở các xã hội các nước phát triển là điều có thể thấy được.
2. Bối cảnh tục hóa của xã hội Việt Nam
Xã
hội bên tây đã vậy, xã hội Việt Nam chúng ta cũng chẳng khác bao nhiêu và bi
đát hơn hơn từ khi nhà nước Cộng Sản áp đặt hệ tư tưởng Mác-Lênin và chủ nghĩa
duy vật biện chứng làm nền tảng để xây dựng nước Việt Nam XHCN đồng thời cổ vũ
cho một lối sống tôn thờ vật chất và loại bỏ Thượng Đế ra khỏi đời sống tinh
thần của dân tộc ta. Xã hội Việt Nam trở thành “mảnh đất tốt” cho sự tục hóa
khi người ta đề cao những giá trị vật chất, tìm cách xây dựng “thiên đường ở
trần gian” và loại trừ Thượng Đế ra khỏi cuộc sống bằng những sự cấm đoán, bách
hại tôn giáo đang diễn ra từng ngày với đủ loại chiêu trò từ thủ đoạn nham
hiểm, dụ dỗ đến bôi nhọ vu khống và triệt hạ nhằm biến tôn giáo thành một thứ
tổ chức quốc doanh để họ thao túng cho mưu đồ chính trị của họ nhân danh pháp
luật của kẻ độc tài.
Tệ
hại hơn, một lối sống hưởng thụ bất chấp những nguyên tắc luân lý của tầng lớp
nhà giàu hay các quan tham có ngọn có gốc và lớp con lớp cháu của họ (về hưu hạ
cánh an toàn và vì người nào cũng tay nhúng chàm nên khi hữu sự thì chỉ vài con
“dê tế thần” là xong chuyện) đang là vấn đề nhức nhối của xã hội. Cùng với vấn
nạn nhức nhối nêu trên đó là nền giáo dục độc quyền độc đoán, giáo dục đào tạo
theo lối nhồi sọ hoặc “gà công nghiệp” và bỏ qua việc giáo dục luân lý đúng đắn
cho thế hệ trẻ. Hậu quả tai hại mà ai cũng có thể thấy rõ là giới trẻ ngày nay
kiến thức thì thiếu, bằng cấp giả thì nhiều nhưng tài năng thì giảm thiểu… còn
đạo đức thì họ không đặt nặng hoặc không hề quan tâm, miễn sao đạt được mục
đích: có tiền, có quyền, có địa vị nhằm đảm bảo cho một cuộc sống đầy đủ tiện
nghi và tự do làm điều mình thích mà không cần biết là có phù hợp với tiêu
chuẩn luân lý hay không. Thêm vào đó, lối sống tự do, hưởng thụ du nhập từ
phương tây được phổ biến trong giới trẻ như sống thử, tự do luyến ái … đang
từng ngày từng ngày phá hủy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của tổ
tiên chúng ta.
Đây
cũng là mối ưu tư khắc khoải của các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm
trong việc giáo dục lớp thanh thiếu niên theo truyền thống Công giáo chúng ta. Hội
thánh cũng rất chú trong đến lĩnh vực này trong Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô
Giáo của Thánh Công Đồng Vatican II, số 3, khi đưa ra những nhận định mang tính
định hướng cho các bậc phụ huynh:
Vì là người
truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là
giáo dục chúng và vì thế họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính
yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó
lòng bổ khuyết được Thực vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu
khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng tôn kính đối với Thiên Chúa và tha nhân,
để hỗ trợ việc giáo dục toàn diện cho con cái trong đời sống cá nhân, để hỗ trợ
việc giáo dục toàn diện cho con cái trong đời sống cá nhân và xã hội. Do đó gia
đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn
thể. […] Cha mẹ phải dạy dỗ con cái ngay từ nhỏ, để chúng nhận biết và
thờ kính Thiên Chúa cùng yêu mến tha nhân theo đức tin chúng đã lãnh nhận khi
chịu phép rửa tội […].[7]
Qua lời giáo huấn
của Công đồng, chúng ta thấy rằng vai trò của cha mẹ là không thể thay thế
trong việc giáo dục đức tin và những đức tính cũng như những kỹ năng cần thiết
cho việc hòa nhập cộng đồng xã hội sau này. Các bậc phụ huynh trong các gia
đình Công giáo Việt Nam rất ý thức trách nhiệm của mình và cùng với những người
có trách nhiệm trong giáo xứ, họ cũng cố gắng làm tròn bổn phận của mình, tuy
nhiên có nhiều yếu tố không thuận lợi mang tính khách quan chi phối nên việc
nuôi dạy con cái theo luật Phúc âm nhiều khi khó mà chu toàn đầy đủ.
Vì phải mưu sinh,
phần đông lớp người trẻ thuộc những giáo xứ miền quê phải bỏ làng bỏ xóm, bỏ
lại gia đình quê hương ra đi tìm việc làm nơi những thành phố lớn nên xứ đạo
làng quê đa phần là nghèo giờ đây khá vắng vẻ, chỉ có người già và trẻ em. Tuy
nhiên việc giáo dục đức tin cho tầng lớp thanh thiếu niên lại tương đối thuận
lợi nhờ các giáo lý viên và các vị có trách nhiệm trong giáo xứ
Còn lớp người trẻ
phải rời bỏ làng xóm, tìm đến những khu công nghiệp hay đến các thành phố lớn
để học hành, làm việc, giúp đỡ gia đình ở quê, tạo lập cuộc đời trong một môi
trường mới có phần lạ lẫm với đủ loại âu lo cho cuộc sống bấp bênh thì việc giữ
đạo gặp nhiều khó khăn. Cuộc đời “ở trọ nhà người ta”của lớp người “di dân” quả
thật trăm bề vất vả, mệt nhọc vì mưu sinh, họ đành giữ đạo theo kiểu “tối
thiểu”, nghĩa là chỉ tham dự thánh lễ ngày chủ nhật mà thôi. Rồi thời gian trôi
qua, họ cũng phải thu xếp cho cuộc sống của mình: lập gia đình, có con, nuôi
dạy, tìm trường tìm lớp cho con cái... Việc giữ đạo có phần bê trễ là có thể
hiểu được và vì phải bươn chải giữa cuôc đời đầy cạm bẫy như thế để kiếm sống
khiến cho họ không nhiều thì ít bị tiêm nhiễm tinh thần thế tục. Con cái họ
cũng không được dạy dỗ, học hành đến nơi đến chốn về đạo cũng như về đời và ở
mức độ nào đó cũng bị ảnh hưởng bởi văn hóa độc hại trong môi trường sống qua
internet, bạn bè, phim ảnh hay báo chí … Đây là một trong những điều lo ngại
cho tình trạng chung của cho các gia đình Công giáo mà còn cho ơn gọi sống đời
thánh hiến vì gia đình là cái nôi cung cấp ơn gọi cho Giáo hội Việt Nam của chúng
ta.
Tuy
nhiên, khác với các Giáo hội ở các nước phương Tây, Giáo hội Việt Nam chúng ta
lại tương đối khởi sắc trong việc giữ đạo và số người gia nhập đạo Chúa tăng
lên hàng năm, mặc dầu phần lớn lớp trẻ được cho là “khô đạo”, vì những lí do
chủ quan hay khách quan, chỉ đi lễ ngày Chủ nhật hay các ngày lễ trọng mà thôi.
Ơn gọi tương đối phong phú và phần lớn các bạn trẻ dự tu xuất phát từ các xứ
đạo miền quê có truyền thống “đạo gốc”, vốn nghèo khổ nhưng luôn nuôi dưỡng
lòng đạo đức sẵn sàng dâng con cho Chúa, dâng mình cho Chúa để phục vụ Giáo
hội. Tuy nhiên, trong các giáo xứ ở thành phố, nhất là các thành phố lớn thì
hình như không nhiều bạn trẻ dấn thân sống đời thánh hiến. Phải chăng cuộc sống
ngoài đời của họ tương đối đầy đủ và tự do hơn khiến họ ngại ngùng khi chọn nếp
sống tu có phần nề nếp chặt chẽ: vâng phục, khó nghèo, khiết tịnh, hy sinh, hãm
mình, dậy sớm, thức khuya, cầu nguyện lâu giờ…? Dù sao còn có nhiều bạn trẻ
chọn sống đời thánh hiến như hiện nay cũng là điểm son của Giáo hội Việt Nam
chúng ta trong xã hội hiện nay. Trong bối cảnh xã hội bị tục hóa như vậy, tinh
thần thế tục ít nhiều ảnh hưởng đến các bạn trẻ sống đời thánh hiến ngày hôm
nay và khi đi vào nhà dòng, họ mang vào cả lòng nhiệt thành theo Chúa cũng như
con người thế tục của mình.
II. VẤN ĐỀ TỤC HÓA TRONG ĐỜI SỐNG KI TÔ HỮU VÀ NHỮNG NGƯỜI SỐNG
ĐỜI THÁNH HIẾN
Đề cập đến vấn đề tục
hóa, Đức Bênêdictô XVI trong buổi triều yết dành cho hội đồng văn hóa ngày 8
tháng 3 năm 2008 đã nêu lên sự tổn hại nghiêm trọng do sự tục hóa hoành hành
trong Giáo hội như sau:
Trào lưu tục hóa không
chỉ đe dọa từ bên ngoài, mà đã biểu hiện từ lâu chính trong lòng Giáo hội. Nó
đã biến thể, từ bên trong và một cách sâu đậm, đức tin Kitô gây ra hậu quả ảnh
hưởng đến cả nếp sống và cách hành động hàng ngày của các tín hữu… Họ sống
trong thế giới và rất nhiều khi họ bị tiêm nhiễm, nếu không muốn nói là bị chi
phối bởi văn hóa hình ảnh với chiều hướng áp đặt những mẫu sống và sức mạnh đẩy
đến sự chối bỏ Thiên Chúa ... Ngoài ra, não trạng lạc thú và hưởng thụ đang
thịnh hành còn gây ra nơi các tín hữu cũng như các mục tử, khuynh hướng nông
cạn và ích kỷ, làm tổn hại cho đời sống cộng đoàn Hội thánh.[8]
Điều đáng lo ngại hiện nay là trào lưu tục hóa
đã biến tướng thành trào lưu duy thế tục, nghĩa là loại bỏ Thiên Chúa hoàn toàn
trong cuộc sống mà chỉ quan tâm đến những giá trị vật chất hưởng thụ mà thôi.
Đây là một vấn nạn nghiêm trọng đối với Giáo hội toàn cầu nói chung và Giáo hội
Việt Nam chúng ta nói riêng, đặc biệt đối với người sống đời thánh hiến.
1.
Khái niệm về tục hóa
Hiểu
một cách nôm na thì tục hóa là biến cái thánh thiêng thành cái phàm tục. Cách
hiểu này mang tính hàm hồ và tiêu cực vì ở thời đại chúng ta đang sống, khái
niệm này hiện diện trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ văn hóa, xã hội đến chính
trị, từ triết học đến khoa học… và trong những thực tại trần thế khác vốn đã
tồn tại từ xa xưa. Hơn nữa, xác định cái gì là thiêng cái gì là tục lại là một
chuyện phức tạp tùy theo quan niệm của mỗi tôn giáo, vào từng thời điểm nhất
định trong lịch sử của nó, tuy nhiên đây lại là một khái niệm diễn tả sự xa rời
hay tương đối hóa trong việc giữ luật Chúa và Giáo hội của Ngài theo niềm tin
Kitô giáo chúng ta.
2. Khái niệm tục hóa theo Kinh thánh
Trong Kinh thánh Cựu ước, tục hóa là thờ ngẫu
tượng, là bỏ bê không giữ Giao ước và Lề luật và Lệnh truyền của Chúa qua các
Ngôn sứ. Quả thật, ngay lúc khới đầu tiến về đất hứa, Dân riêng Chúa cũng đã
tục hóa Thiên Chúa của mình bằng hình tượng bò vàng! (Xh 32 19-20). Theo dòng
lịch sử cứu độ, các Ngôn sứ cũng phải nhắc đi nhắc lại, cho dân tộc mình để họ
từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Giavê, Thiên Chúa của họ (Is 44 13-17).
Đến thời Tân ước, Chúa Giêsu cũng đã có lần
nổi giận khiển trách: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” (Ga 2 12-17).
Ngài cũng tỏ cho chúng ta biết Ngài chính là Đền thờ mới, là Thiên Chúa thật,
là “Ngôi Lời mặc lấy xác phàm” ở giữa nhân loại và “những ai tiếp nhận Ngài thì
Ngài cho họ quyền trở nên con cái Thiên Chúa” (Ga 2,17-21), nghĩa là Ngài đến
để thánh hóa con người phàm tục chúng ta. Hơn nữa, thánh Phaolô còn cho chúng
ta hiểu tục
hóa là “rập khuôn theo thói đời này” (Rm 12, 1), là điều chúng ta phải tránh
khi ngài khuyên dạy: “Anh em hãy giết
chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế,
đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” (Cl
3, 5). Hơn nữa, ngài còn khuyên chúng
ta hãy thánh hiến con người phàm tục của mình, là cải biến con người chúng ta
bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là
tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo và vì Thiên Chúa thương xót chúng ta
nên chúng ta hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp
lòng Thiên Chúa (x. Rm 12, 1).
3.
Khái niệm tục hóa theo Huấn quyền
Tại Công đồng Vatican II, Giáo
hội cho chúng ta một góc nhìn mới về tính thế tục trong Hiến chế Gaudium et Spes, chương III, số 36 khi viết:
Nếu sự
độc lập của các thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật và các xã hội đều có
những định luật và những giá trị riêng mà con người phải khám phá dần dần, xử
dụng và điều hòa, thì đòi hỏi một sự độc lập như thế là một việc hoàn toàn
chính đáng, Đó là điều không những người đương thời đòi hỏi mà còn phù hợp với
ý muốn của Tạo Hóa.Thực vậy, chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững
chãi, chân thực và tốt lành cùng những định luật và trật tự riêng. Con người
phải tôn trọng tất cả những điều ấy, phải nhìn nhận các phương pháp cá biệt của
mỗi khoa học và kỹ thuật.
Một cách khách quan, Giáo hội cũng nhìn nhận tính chất đời, sự độc lập
của chính trị và không lẫn lộn với tôn giáo và nhìn nhận sự kiện này là các
thực tại nhân bản có những giá trị riêng, luật lệ riêng, phương pháp riêng Nhưng Giáo hội
vẫn xác quyết rằng:
Việc khảo sát
có phương pháp trong mọi ngành, nếu tiến hành một cách khoa học thực sự và theo
các tiêu chuẩn luân lý, sẽ không bao giờ thực sự trái nghịch với đức tin, vì
các thực tại trần thế và các thực tại đức tin đều bởi một Thiên Chúa mà ra. Hơn
nữa, những ai kiên nhẫn và khiêm tốn cố gắng nghiên cứu sâu xa những bí ẩn của
sự vật, mặc dù không ý thức, nhưng vẫn được bàn tay Chúa hướng dẫn, vì Ngài là
Ðấng bảo trì muôn loài và khiến chúng hiện hữu theo bản tính riêng của mỗi
loài.[9]
Điều quan trọng mà Giáo
hội muốn chúng ta chú ý là việc khảo sát có phương pháp trong mọi ngành, phải
tiến hành một cách khoa học thực sự và theo các tiêu chuẩn luân lý để không lạc lối
vào chủ nghĩa duy thế tục. Với cái nhìn tích cực hơn,
giới thần học Công giáo lại coi trào lưu thế tục hóa là một tiến trình hợp pháp
và cần thiết và theo cha Nguyễn Trọng Viễn, OP thì đó là “một nẻo đường đúng
đắn giúp ta khám phá khuôn mặt Thiên Chúa trong cuộc sống thực, miễn là đừng
rơi vào thái độ duy thế tục,[10]
vì thái độ sống này chỉ quan tâm đến vật chất, hưởng thụ làm người ta xa rời
Thiên Chúa, đặc biệt trong đời sống thánh hiến. Nếu không chú ý, nó sẽ dần dần
biến chúng ta thành những kẻ phản chứng và sống ngược lại những giá trị của Tin
mừng, cụ thể là ba lời khuyên Phúc âm là những yếu tố làm nên căn tính của
người sống đời thánh hiến: khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục.
III. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI VỀ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA TỤC HÓA ĐẾN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN TẠI VIỆT NAM
Với bối cảnh xã hội
không thuận lợi cho đời tu ở Việt Nam như tôi đã nêu trên thì sự tục hóa ít
nhiều cũng ảnh hưởng đến nếp nghĩ, thái độ và cách hành xử của người sống đời
thánh hiến, nhất là những người trẻ hiện nay vốn phải sống trong môi trường
nhuốm màu tục hóa như vậy. Thêm vào đó là những quan niệm nặng tính hình thức
(cần chiếc áo dòng để làm nên thầy tu), tìm kiếm địa vị, bổng lộc… vẫn tồn tại
không những trong tâm thức một số bạn trẻ dấn thân sống đời thánh hiến mà ngay
cả những tu sĩ nếu không cảnh giác cũng dễ mắc phải mà không hay biết. Nói
chung, vấn đề tục hóa trong đời sống thánh hiến thì đa dạng, tuy nhiên chúng ta
có thể qui chiếu vào ba lời khấn là căn tính đời tu để nhận ra những nguy cơ đó
và phòng tránh và loại bỏ. Tiến trình chết đi con người cũ và mặc lấy con người
mới trong Đức Kitô là một tiến trình tiệm tiến đòi hỏi người sống đời thánh
hiến phải có thái độ kiên quyết, dứt khoát, khiêm nhường, hoàn toàn tin tưởng
và cậy dựa vào Chúa.
Về phần mình, trong
Hiến chế Lumen gentium, Hội thánh
luôn tôn trọng và đề cao những người sống những lời khuyên Phúc âm, hiến thân
sống đời thánh hiến, khi viết:
[…] Mẹ Hội thánh vui mừng rằng có trong mình rất nhiều những người nam
nữ người theo đuổi việc từ bỏ mình của Chúa Cứu Thế cách gần gũi hơn và bày tỏ
một cách rõ ràng hơn, bằng cam kết sống sống khó nghèo với sự tự do của con cái
Thiên Chúa, và từ bỏ ý riêng mình: họ chịu phục tùng con người vì tình yêu
Thiên Chúa, do đó họ vượt quá phạm vi những gì là giới luật trong việc hoàn
thiện, ngõ hầu làm cho mình trở nên giống sự vâng phục của Đức Kitô cách trọn
vẹn hơn.[11]
Sự ưu
ái mà Hội thánh dành cho những người sống đời thánh hiến nhắc nhở họ phải sống
triệt để hơn trên con đường hoàn thiện như Chúa Chúa Giêsu dạy: “Hãy hoàn thiện
như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”… Trong bối cảnh xã hội bị nhuốm
màu tục hóa như thời đại chúng ta đang sống, thì lời khuyên dạy của Hội thánh
trong Hiến chế Canh Tân và Thích Nghi các
Dòng Tu liên quan đến các lời khấn là những lời giáo huấn mang tính định
hướng và là nền tảng cho mỗi tu sĩ chúng ta:
[…] Để giá trị trổi vượt cuộc đời thánh hiến bởi
khấn giữ các lời khuyên và để nhiệm vụ khẩn thiết của đời sống ấy trong hoàn
cảnh hiện tại mưu cầu lợi ích lớn lao cho Giáo hội hội dòng có hội viên khấn
giữ trinh khiết, khó nghèo và vâng lời, cũng như tiên liệu những nhu cầu của
các hội dòng ấy theo những đòi hỏi của thời đại chúng ta.Tất cả những người
được Thiên Chúa kêu gọi thực hành và quyết tâm khấn giữ trung thành các lời
khuyên Phúc âm đều hiến thân cho Chúa cách đặc biệt, khi noi gương Chúa Kitô,
Ðấng khiết trinh và khó nghèo (x. Mt 8,20; Lc 9,58), Ðấng vì vâng lời cho đến chết
trên thập giá (x. Ph 2, 8) nên đã cứu chuộc và thánh hóa nhân loại. Ðược thúc
đẩy như thế bởi đức mến mà Chúa Thánh thần đổ tràn trong lòng (x. Rm 5, 5), họ
càng ngày càng sống cho Chúa Kitô và Thân Thể Người là Giáo hội (x. Col 1, 24).
Bởi vậy, họ càng nồng nàn kết hiệp với Chúa Kitô bao nhiêu qua việc dâng mình
gồm trọn cả cuộc sống, đời sống Giáo hội càng phong phú hơn và việc tông đồ của
Giáo hội càng dồi dào mãnh liệt hơn bấy nhiêu.[12]
1. Giáo huấn của Hội thánh về
đức khiết tịnh
1.1. Đức
khiết tịnh với tình yêu Chúa Ba Ngôi
Trong
Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến, số 21,
thánh Gioan Phaolô II đã nêu lên cho chúng ta ý nghĩa sâu xa của đức khiết tịnh
trong tương quan với mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, khi ngài viết:
Sự khiết tịnh của những người độc thân trinh khiết, biểu lộ
một con tim không chia sẻ dâng hiến cho Thiên Chúa (x. 1 Cr 7,32-34), là phản
ảnh của tình yêu vô biên đang nối kết Ba Ngôi Vị Thần Linh trong chiều sâu
nhiệm mầu của đời sống Ba Ngôi; tình yêu mà Ngôi Lời nhập thể làm chứng cho đến
hy sinh mạng sống; tình yêu “đã được đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm
5,5), tình yêu thúc bách chúng ta đáp trả với trọn tình thương dành cho Thiên
Chúa và anh em.
Chiều
kích siêu việt của đức khiết tịnh là thông dự vào đời sống tình yêu Chúa Ba
Ngôi. Đây là một hồng ân đặc biệt mà Chúa ban cho người sống đời thánh hiến
đồng thời đòi hỏi chúng ta đáp lại bằng một tình yêu trọn vẹn không chia sẻ.
Tình yêu này chính Chúa Giêsu đã sống và làm chứng khi nhập thể làm người và
mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Đức khiết tịnh đòi hỏi chúng ta sống tình yêu
đó trong hai chiều kích: đối với Chúa và đối với tha nhân.
1.2. Đức
khiết tịnh đối với Chúa và tha nhân
Trước tiên, liên quan đến lời khấn khiết tịnh,
Giáo hội dạy chúng ta: “[…] Ðức khiết tịnh ‘vì nước Trời’ (Mt 19,12), mà các tu
sĩ khấn giữ, phải được quí trọng như một ân huệ cao cả của ơn thánh. Thật vậy,
ơn ấy giải thoát lòng con người cách đặc biệt (x. 1Cor 7, 32-35), để nồng nàn
mến Chúa và yêu mọi người hơn […].”[13]
Hội
thánh mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu của Ngài một cách tuyệt đối bằng một
tình yêu dâng hiến không đắn đo cả hồn lẫn xác, nghĩa là một tình yêu trọn vẹn
trong cả cuộc đời thánh hiến của mình để phụng sự Ngài. Người thánh hiến khước
từ tình yêu đôi lứa để yêu mến Chúa bằng một tình yêu không chia sẻ, nhưng yêu
mến Chúa đòi buộc chúng ta phải yêu người vì đây là hai giới răn cao trọng nhất
liên quan mật thiết với nhau. Vì yêu người, ta tôn trọng, quí mến và đối xử với
người khác cách lịch sự, nhã nhặn, khiêm nhường, chịu đựng, quảng đại, không chấp
nhất so đo, biết thông cảm và tin tưởng người khác với thái độ chân thành… Như
vậy đức khiết tịnh được đồng hóa với đức ái. Sống đức khiết tịnh không chỉ đơn
thuần là giữ mình trong sạch nhưng là nhắm đến đích điểm siêu vượt hơn đó là
mến Chúa yêu người hơn, do đó nhân đức này không những làm thăng hoa đời thánh
hiến khiến chúng ta yêu mến Chúa và gắn bó với Ngài một ngày một hơn mà còn
biến chúng ta trở nên chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.
1.3. Đức
khiết tịnh trong đời sống cộng đoàn
Liên quan đến đức khiết tịnh đời sống cộng
đoàn, Công Đồng dạy: “[…] Đức khiết tịnh được bảo trì an toàn hơn cả khi trong
đời sống cộng đoàn có tình huynh đệ đích thực giữa các tu sĩ”…].”[14]
Trong
đời sống cộng đoàn, đức khiết tịnh có tác động tích cực để xây dựng một cộng
đoàn hiệp thông khi mọi người găn bó với nhau như một Hội thánh thu nhỏ. Đó là
cộng đoàn của nhưng người tìm Chúa, sống yêu thương và phục vụ nhau theo gương
Chúa Giêsu. Đức khiết tịnh được thể hiện cụ thể bằng đức ái dưới tác động của
Thần Khí và vì yêu thương nhau theo gương Chúa Giêsu nên các thành viên trong
cộng đoàn dễ dàng đón nhận nhau, nhận ra Chúa Giêsu nơi người anh em của mình,
biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn, biết an ủi động viên lẫn nhau trong những lúc
khó khăn thử thách bằng tình yêu huynh đệ trong sáng và chân thành. Có thể nói
đời sống cộng đoàn là một trong những yếu tố quan trọng để đào luyện nên những
tu sĩ thánh thiện và hiệp thông, nhờ đó loại bỏ được những biến tướng mang tính
trần tục trong đời tu liên quan đến đức khiết tịnh như đồng tính luyến ái hoặc
bù đắp tình cảm bên ngoài.
1.4. Đức
khiết tịnh đối với sứ mạng Tông đồ và ý nghĩa cánh chung
Sống trọn vẹn hai chiều kích mến chúa và yêu
người của đức khiết tịnh để hoàn thiện bản thân nhưng cũng là để thực hành sứ
vụ tông đồ như Công Đồng dạy: “[…] Vì thế, đức khiết tịnh là dấu chỉ đặc biệt
của kho tàng trên trời và cũng là phương tiện thích hợp nhất cho các tu sĩ hân
hoan hiến mình phụng sự Thiên Chúa và làm việc tông đồ […]”[15] .Một
cộng đoàn yêu thương cũng là một cộng đoàn chứng nhân vì Chúa dạy chúng ta
rằng: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em
thương yêu nhau (Ga 13, 35). Tình yêu ấy
cũng được cụ thể hóa trong việc đem Chúa đến cho mọi người bằng việc rao giảng
Lời Chúa, bằng việc bác ái... Đó là sống sứ mạng tông đồ cách cụ thể bằng gương
sáng và việc làm tùy theo đặc sủng của mỗi Hội dòng.
Đức khiết tịnh còn mang ý nghĩa cánh chung và được truyền thống luôn luôn
hiểu như là một hé mở thực tại của cuộc đời vĩnh cửu, ngay từ bây giờ đang hoạt
động và biến đổi toàn thể con người khi Công đồng xác quyết:
[…] Do
đó, họ gợi ra trước mặt mọi Kitô hữu sự kết hợp lạ lùng do Thiên Chúa thiết lập
và sẽ tỏ hiện đầy đủ ở đời sau, là Giáo hội được nhận Chúa Kitô làm lang quân
độc nhất của mình. Sự khiết tịnh thánh hiến gợi
ra trước mặt người Kitô hữu sự kết hợp lạ lùng do Thiên Chúa thiết lập và sẽ tỏ
hiện đầy đủ ở đời sau.[16]
Quả
thật, Chúa Giêsu khẳng định: “Đối với những ai được xét là đáng hưởng phúc đời
sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Họ không
thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa,
vì là con cái sự sống lại” (Lc 35-37). Đây là
điều con người thế gian không hiểu được và họ cũng chẳng tin là các tu sĩ có
thể sống khiết tịnh suốt cả đời như thế. Trong một xã hội mà luân lý tính dục
gần như bị quên lãng thì việc sống trọn vẹn các chiều kích của đức khiết tịnh
là một thách thức nhưng cũng là một minh chứng về nước trời đang bắt đầu nơi
trần gian. Lối sống này trái nghịch với lối sống tự nhiên của họ nên chúng ta
thường phải nhận những lời châm chọc, chê bai… Âu đó cũng là thánh giá Chúa
muốn chúng ta phải chịu trên con đường dấn bước theo Ngài.
1.5. Bảo toàn đức khiết tịnh
Đức khiết tịnh là nhân đức “mỏng manh
dễ vỡ” được chứa đựng trong những “bình sành” cũng rất “mỏng manh”, đó là con
người xác thịt của chúng ta nên Hội thánh phải khuyến cáo:
Vậy,
các tu sĩ hãy trung thành giữ lời mình khấn, tin lời Chúa dạy, trông cậy vào ơn
Ngài, đừng tự phụ vì sức riêng mình, lại phải sống hãm mình và gìn giữ ngũ
quan. Cũng đừng bỏ qua những phương thế tự nhiên giúp cho tinh thần và thể xác
được lành mạnh. Như thế, họ sẽ không bị lung lạc vì những tà thuyết rêu rao
rằng sự tiết dục trọn vẹn là việc không thể giữ được hoặc có hại cho sự phát
triển con người; và như bởi một bản năng thiêng liêng, họ hãy khước từ tất cả
những gì đe dọa đức khiết tịnh. Hơn nữa hết mọi người, nhất là các Bề Trên, đều
phải nhớ rằng: đức khiết tịnh được bảo trì an toàn hơn cả khi trong đời sống
cộng đoàn có tình huynh đệ đích thực giữa các tu sĩ.[17]
Khấn
hứa và tuân giữ đức khiết tịnh chưa bao giờ là điều dễ dàng đối với người thánh
hiến nếu không có ơn Chúa trợ giúp. Không ít người đã bị sa ngã, lỗi phạm nặng
nề lời khấn này (điển hình là tội phạm ấu dâm của các linh mục tại Hoa Kỳ) đã
cho chúng ta thấy sự khốc liệt của cuộc chiến đấu với con người xác thịt của
mình. Đây là một ân ban đặc biệt của Chúa dành cho những người dấn thân sống
đời thánh hiến và cũng đòi hỏi một sự cộng tác tích cực từ phía chúng ta.
Trước
hết là phải hình thành cho chính mình một đời sống cầu nguyện, kết hợp liên lỉ
với chúa làm nền tảng vững chắc cho việc sống trọn vẹn các chiều kích của đức
khiết tịnh đối với Chúa, hướng đến anh em trong cộng đoàn và đối với tha nhân.
Tiếp theo là tập luyện các nhân đức đặc biệt
là đức khiêm hạ, tự biết mình mỏng manh yếu đuối và ý thức được con người “bất
trị” của mình (điều tôi muốn tôi lại không làm nhưng điều tôi không muốn tôi
lại làm) sẽ khiến chúng ta cảnh giác hơn với con người xác thịt của mình hết
lòng tin tưởng cậy dựa vào Chúa (vì Người đã kêu gọi thì Người sẽ ban ơn) để
giữ mình và chống trả hiệu quả những cơn
cám dỗ nặng nề liên quan đến bản năng tính dục sâu thẳm trong mỗi người chúng ta
Cuối
cùng là gìn giữ ngũ quan và dùng các phương thế tự nhiên để có một cuộc sống
quân bình từ ăn uống, học tập, nghỉ ngơi, giải trí, thể thao… lành mạnh.
Sống tích cực lời khấn
khiết tịnh bằng cách thực hành những phương thế trên đây và với ơn chúa, dần
dần sẽ tạo nên bản năng thiêng liêng trong mỗi người chúng ta. Bản năng kỳ diệu
này giúp chúng ta nhận ra ngay lập tức những nguy cơ đe dọa đến đức khiết tịnh
trong mỗi thời điểm, trong những hoàn cảnh thực tế của đời tu chúng ta, đồng
thời nó cũng khiến chúng ta phản ứng tức thời một cách thích đáng nhằm phòng
tránh và vượt qua những cơn cám dỗ hoặc
những thử thách đó, qua những cách biểu lộ xứng hợp với phẩm giá con người và
tư cách của người thánh hiến mà vẫn trọn tình với Chúa, trọn lòng yêu người bằng
lối sống thanh thoát trong lãnh vực tình cảm, không để dục tình làm náo loạn
con tim.
1.6. Ảnh hưởng của tục hóa với lời khấn khiết
tịnh
Khi khấn giữ lời khấn
khiết tịnh, người tu sĩ tự nguyện khước từ tình yêu đôi lứa và hiến dâng cho
chúa một tình yêu trọn vẹn không chia sẻ để phụng sự và yêu mến Chúa hết linh
hồn hết trí khôn… Quả thật Đức khiết tịnh mang nét đẹp thánh thiêng làm người
ta thanh thoát nhưng lại “mỏng manh dễ vỡ”. Chính Chúa Giêsu cũng đã dạy chúng
ta: “Hễ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người
ấy rồi” (Mt 5, 27). Vì vậy, mang thân phận con người yếu đuối, nếu không cẩn
thận và thiếu sự cậy dựa vào Chúa, chúng ta rất dễ lỗi lời khấn khiết tịnh và
tục hóa đời tu của mình.
Những nguyên nhân nội
tại
Mỗi người chúng ta
đều cảm nhận được sự mãnh liệt của bản năng tính dục của con người tự nhiên của
mình. Quả thật, sự bất kham của bản năng tính dục không dễ dàng bị khuất phục
như thánh Phaolô đã nói: “Điều tôi muốn làm, tôi lại không làm, điều tôi không
muốn làm, tôi lại làm…” Người tu sĩ có nguy cơ bị tục hóa khi chúng ta tương
đối hóa việc phụng sự Chúa, tham dự thánh lễ, kinh nguyện và thiếu sự chuyên
chăm cầu nguyện, kết hiệp cùng Chúa khiến tình yêu dành cho Chúa cũng nguội
lạnh dần.
Tiếp đến là sự dung
dưỡng con người thể lý của chúng ta quá mức, lại thiếu hãm mình khổ chế, khiến
bản năng đòi hỏi thêm mãnh liệt, và tệ hại hơn khi tiếp xúc với phụ nữ không ý
tứ giữ gìn ngũ quan, chủ quan cho rằng mình có bản lĩnh… Từ những lỗi trong tư
tưởng dẫn đến những vấp ngã nơi thân xác sau đó. Thiếu ơn Chúa nâng đỡ, do sự
nhu nhược ý chí hoặc kiêu căng, cố chấp của mình, không nghe tiếng nhắc bảo của
lương tâm, không dám bộc lộ với cha linh hướng, không thật lòng khi xưng tội…,
theo thời gian, sự ngã càng lúc càng trầm trọng, lời khấn khiết tịnh bị tục hóa
và có nguy cơ đánh mất ơn gọi của mình, nhất là đối với tu sĩ phải ra ngoài và
tiếp xúc với đời thường xuyên vì công việc mục vụ, tông đồ tiếp xúc với giáo
dân, đặc biệt là người khác phái, thì lời khấn khiết tịnh dễ có nguy cơ bị tục
hóa hơn khi sống trong cộng đoàn.
Trong
cộng đoàn, nếu không sống tích cực hai chiều kích mến Chúa và yêu người và
thiếu sự quan tâm đến việc học hỏi về tính dục cơ bản trong đời tu, người tu sĩ
cũng dễ bị tục hóa vì những nhận thức lệch lạc liên quan đến tính dục hoặc bị bản
năng lôi cuốn dẫn đến những biến tướng nghịch với đức khiết tịnh mang tính tai
họa cho đời tu, đó là hiện tượng đồng tính. Đây là điều cực kì nguy hiểm vì đây
là thứ tội đáng ghê tởm mà thánh Phaolô gọi là thứ dục tình đồi bại mà những
người cùng phái tính phạm phải (Rm 1,26-27). Nó có thể bắt đầu bằng việc kết
giao cha con thiêng liêng, anh em tinh thần… (mặc dù những loại hình tình cảm
này tự bản chất là không xấu). Ban đầu chỉ là những cuộc gặp gỡ chuyện trò với
mục đích tốt lành mang tính xây dựng, động viên, an ủi lẫn nhau khi gặp khó
khăn, chia sẻ kinh nghiệm đời tu và cuộc sống… Điều tai họa là càng ngày họ
càng không làm chủ được bản năng, thích gần gũi nhau, không thể thiếu nhau, đến
một lúc nào đó họ sa ngã mà không gượng nổi.
Những
nguyên nhân ngoại tại
Chúng
ta đang sống trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển về mọi lĩnh vực đặc
biệt lĩnh vực công nghệ thông tin…, cụ thể là mạng Internet hữu tuyến, vô tuyến
cùng đủ loại điện thoại di động, máy tính bảng, laptop đa chức năng… khiến việc
truy cập các trang mạng hiện nay trở nên quá dễ dàng và tiện lợi trong việc tìm
kiếm tài liệu nghiên cứu, học tập, công việc, cập nhật thông tin, kiến thức đạo
đời… Tuy nhiên, đi kèm với những những tiện ích mà Internet mang lại luôn tồn
tại những trang mạng xấu với nội dung đồi bại về luân lý, tính dục núp bóng
dưới mọi hình thức nhưng chẳng hề bị những người có trách nhiệm tầm soát, kiểm
duyệt, có chăng chỉ là qua loa lấy lệ. Với người sống đời thánh hiến thì những
trang mạng này là những nguy cơ đối với đức khiết tịnh. Ngay cả khi không chủ ý
truy cập vào những trang mạng đồi bại này thì những hình ảnh “tươi mát” (gọi
theo ngôn ngữ dung tục xã hội thời nay) cũng đột ngột nhảy ra đập vào mắt người
ta khi mở một trang mạng đàng hoàng để tìm thông tin hoặc xem tin tức trên
trang mạng, kể cả trang mạng chính thống của nhà nước. Tác nhân ngoại cảnh này
ảnh hưởng nặng nề đến việc giữ đức khiết tịnh vì nó đánh thẳng vào bản năng dục
tính con người qua đôi mắt, là cửa sổ tâm hồn và chỉ một phút yếu lòng vì tò mò
hoặc tự cho mình là có bản lãnh… rồi ghé vào đó thì quả là liều lĩnh.
Ngoài
ra cũng có những chương trình văn hóa, giải trí, điện ảnh, thời trang… trên các
phương tiện truyền thông đại chúng mà các nghệ sĩ diễn viên tham gia với phong
cách ăn mặc được gọi là trẻ trung, phá cách “tươi mát” để thu hút người xem và
những clip quảng cáo chèn vào các chương trình giải trí ,văn hóa xử dụng “ngôn
ngữ thân xác người phụ nữ” cứ lặp đi lặp lại, tưởng là vô hại nhưng về lâu về
dài sẽ ảnh hưởng nhất định đến tâm thức người xem không loại trừ ai. Yếu tố
ngoại cảnh này cũng ít nhiều tác động đến việc giữ đức khiết tịnh.
Đức
khiết tịnh cũng có nguy cơ bị tục hóa vì sự cô đơn. Đây thật sự là thách đố dai
dẳng đối với đời tu không trừ ai, đặc biệt là đối với các linh mục triều. Các
linh mục tu sĩ và các tu sĩ làm công tác tông đồ, mục vụ nơi xa xôi mà thiếu sự
nâng đỡ bảo vệ của cộng đoàn cũng thường phải đối mặt với thách đố này. Cảnh
sống vắng lặng đơn chiếc và nỗi cô đơn gặm nhấm từng ngày khiến người ta rất dễ
xuôi chiều và tìm kiếm tình cảm lấp vào khoảng trống đó. Tình trạng ấu dâm của
các linh mục Hoa Kỳ cho chúng ta thấy điều đó và sự cô đơn là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự sa ngã đáng buồn này. Dĩ nhiên, ở Việt Nam vấn nạn này không phải là không
có!
2. Giáo huấn của
Giáo hội về lời khấn khó nghèo
2.1. Đức khó nghèo đối với Chúa và
tha nhân
Liên quan đến đức khó nghèo, Công
đồng Vatican II dạy chúng ta:
Tự
nguyện sống khó nghèo để theo Chúa Kitô là dấu chứng cho việc theo Chúa
Kitô rất được trọng vọng, nhất là ngày nay. Vì thế, các tu sĩ hãy miệt mài trau
dồi và nếu cần, hãy biểu lộ sự khó nghèo ấy bằng những hình thức mới. Nhờ nhân
đức này, họ được san sẻ sự nghèo khó của Chúa Kitô. Ðấng tuy giàu có, đã trở
nên thiếu thốn vì chúng ta để chúng ta được giàu sang nhờ sự cùng cực của Người
(Cor 8, 9; Mt 8,20).[18]
Giáo hội đánh giá cao
nếp sống khó nghèo của người sống đời thánh hiến khi họ dấn thân theo Chúa Kitô
là Đấng vốn dĩ “là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy
thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 6-7). Sống
khó nghèo như thế là sống ý nghĩa của mối Phúc đầu tiên: “Phúc cho ai có tinh
thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ”. Ý tưởng này cũng đã được Đức Giáo Hoàng
Phanxicô triển khai như sau:
Trở nên nghèo
là để cho bản thân mình được giàu có nhờ bởi sự nghèo khó của Đức Kitô, khao
khát không phải nên giàu có bằng những sự giàu có khác hơn là những sự giàu có
của Đức Kitô Trở nên nghèo trong tinh thần có nghĩa là bước đi trên hành trình
này của Thiên Chúa: sự nghèo khó của Thiên Chúa, Đấng đã tự hạ chính bản thân
Ngài đến mức trở thành cơm bánh cho chúng ta, trong hy tế này [Thánh Lễ]. Ngài
tiếp tục hạ mình trong lịch sử của Giáo hội, trong việc tưởng niệm cuộc khổ nạn
của Ngài, bằng việc tưởng niệm về sự tự hạ của Ngài, tưởng niệm về sự nghèo của
Ngài, bởi bánh này mà Ngài làm cho chúng ta nên giàu có.[19]
Vì yêu mến Chúa, những người sống
đời thánh hiến tình nguyện sống nghèo để nên giống Chúa Kitô và chọn Ngài làm
gia nghiệp đời mình, nhờ đó chúng ta có thể đồng cảm, liên đới và chia sẻ cái
nghèo với những người nghèo trong xã hội hiện nay. Đây là tiêu chuẩn Chúa dùng
để phán xét chúng ta vì: “Khi xưa ta đói, các ngươi đã cho ăn…”. Hơn nữa, chúa
coi những kẻ bé mọn là anh em của Ngài ( Mt 25 34-37). Để thực thi nếp sống
nghèo này, Giáo hội dạy chúng ta: “[…] Khó nghèo trong đời tu dòng không chỉ
hạn hẹp trong sự lệ thuộc Bề Trên khi sử dụng của cải, nhưng là phải nghèo khó
trong thực tế và trong tinh thần[...].”[20] Đây là
thái độ sống phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Chúa, Đấng lo lắng cho
chúng ta đến từng sợi tóc trên đầu! Sống tinh thần nghèo khó này là lối sống
siêu thoát như Thánh Phanxicô khó nghèo nêu gương cho chúng ta: Phó thác mọi sự
cho Đấng Quan Phòng.
2.1.1. Sống nghèo về mặt vật chất
Cái nghèo về mặt vật
chất được hiểu như là khước từ sở hữu của cải về vật chất và xử dụng chúng theo
nhu cầu cần thiết mà thôi. Tùy theo những qui định của mỗi hội dòng hay tu hội
về sự khước từ hay sở hữu, mỗi người sống đời thánh hiến có thể có những hình
thức sở hữu hay xử dụng của cải vật chất khác nhau nhưng tựu trung là sống
nghèo, theo tiêu chuẩn người nghèo từ chuyện ăn mặc, tiêu dùng hoặc các tiện
nghi cuộc sống… Cái nghèo được diễn tả trong đời sống tu trì thường rất khác
biệt nhau tùy theo hoàn cảnh xã hội thực tế. Sống khó nghèo ở các dòng tu ở Hoa
Kỳ thì khác biệt với khó nghèo ở các dòng tu tại Việt Nam và các nước khác
nhưng đều có điểm chung là xử dụng thì giờ, của cải, phương tiện, tiện nghi để
sống và làm việc một cách phù hợp, đúng đắn, hiệu quả để phục vụ, để thăng tiến
đời tu và để cho công việc tông đồ được tiến triển.
2.1.2. Sống nghèo về mặt tinh thần
Cái nghèo về mặt tinh thần được hiểu như là sự
từ bỏ triệt để, không để lòng dính bén đến của cải vật chất hay quyền lực, địa
vị… mà chọn Chúa là gia nghiệp duy nhất để yêu mến, noi gương và phụng sự Ngài
là Đấng đã sinh ra trong cảnh cơ hàn, chung chia kiếp sống bấp bênh của kẻ
nghèo hèn, giao du, kết bạn với những kẻ tội lỗi, bần cùng, khốn khổ vì tật
bệnh và những kẻ tội lỗi hay bị xã hội khinh miệt, loại trừ, và cuối cùng chịu
chết nghèo trên thập giá (xc. Lc 15).
Cái nghèo tuyệt đối theo gương Chúa Giêsu sẽ giải phóng chúng ta khỏi mọi ràng
buộc do của cải hay quyền lực mang lại để phục vụ tha nhân với lòng yêu mến,
đồng thời tín thác vào lòng nhân hậu của Chúa Cha như Công Đồng khuyên dạy:
“[…] Các tu sĩ phải cảm thấy luật làm việc là luật chung cũng ràng buộc họ, và
trong lúc nhờ đó mưu cầu những gì cần thiết để sống và hoạt động, họ hãy trút
bỏ mọi âu lo quá đáng để cậy trông vào sự Quan Phòng của Cha trên Trời (xc. Mt
6,25).”[21]
2.2. Đức khó nghèo trong đời sống cộng đoàn
Đức khó nghèo trong đời
sống cộng đoàn được thể hiện qua hai chiều kích tinh vật chất và tinh thần khi
xử dụng của cải theo qui định của bề trên và với luật chung, tuy nhiên Công
đồng cũng đề cập đến chiều kích hiệp thông và chia sẻ trong tình liên đới với
Giáo hội và các cộng đoàn cùng hội dòng khi viết:
Trong
chức vụ riêng của mỗi người, các tu sĩ phải cảm thấy luật làm việc là luật
chung cũng ràng buộc họ…Chính các hội dòng, tùy hoàn cảnh địa phương, hãy nỗ
lực như tập thể làm chứng về đức khó nghèo, hãy sẵn lòng trích một phần của cải
để cung ứng cho những nhu cầu khác của Giáo hội... Các tỉnh cũng như các nhà
của hội dòng hãy san sẻ của cải cho nhau, để nơi dư thừa giúp đỡ nơi thiếu
thốn…[22]
Việc san sẻ của cải vật
chất cho các nhu cầu của Giáo hội hoặc giữa các cộng đoàn cùng dòng thường do
Bề trên đảm nhận, tuy nhiên sống tinh thần khó nghèo, tiết kiệm trong nếp sinh
hoạt đời tu và thái độ tích cực trong lúc làm việc và xử dụng thì giờ và sẵn
sàng hy sinh, chia sẻ, giúp đỡ anh em sẽ giúp chúng ta xây dựng một cộng đoàn
chứng tá về đức khó nghèo và đây cũng là mục đích có tính tông đồ của đức khó
nghèo mà mỗi tu sĩ phải đạt đến.
2.3. Đức khó nghèo với sứ mạng tông đồ và ý
nghĩa cánh chung
Trong bối cảnh xã hội mà người nghèo chiếm đa
số tại đất nước chúng ta, việc thực thi đức khó nghèo cách cụ thể là chia sẻ
với những người nghèo về mặt vật chất và tinh thần trong khả năng mình có là
yếu tố tích cực cho việc tông đồ vì khi chứng kiến lối sống đơn sơ, giản dị và
chia sẻ của người sống đời thánh hiến, qua lối sống và cung cách hành xử của
chúng ta, họ nhận ra Đức Kitô và qua đó nhận biết Thiên Chúa. Một cộng đoàn
chứng tá qua lối sống và chia sẻ là một bổn phận như Giáo hội dạy:
Chính các hội
dòng, tùy hoàn cảnh địa phương, hãy nỗ lực như tập thể làm chứng về đức khó
nghèo […] Hãy sẵn lòng trích một phần của cải để cung ứng nâng đỡ những người
thiếu thốn là những người mà mọi tu sĩ phải yêu thương với tâm tình của Chúa
Kitô (x. Mt 19,21; 25,34-46; Gc 2,15-16; 1Ga 3,17).[23]
Đức
Giáo Hoàng Phanxicô trong bài giảng lễ ngày quốc tế người nghèo 20/11/2017 còn
mời gọi chúng ta đi xa hơn khi nói rằng:
Thiên Chúa ban cho chúng ta các nén bạc, các khả năng, cần phải tận dụng
và phát triển để mứu ích cho tha nhân, nhất là cho người nghèo…Yêu thương người
nghèo như thế có nghĩa là chiến đấu chống lại mọi thứ nghèo đói tinh thần cũng
như vật chất.[24]
Đức
Giáo Hoàng cũng đã từng khẳng định: Giáo hội Công giáo là Giáo hội của người
nghèo. Theo Ngài, yêu mến người nghèo phải mang tính cụ thể và dấn thân hành
động chứ không chỉ lý thuyết suông. Sống sứ vụ tông đồ là đồng cảm, chia sẻ với
những người nghèo không những về nhu cầu vật chất, mà thông qua những dịp tiếp
xúc, gặp gỡ, hòa mình cùng chung chia cuộc sống nghèo, không thờ ơ trước nỗi
đau khổ của họ, chúng ta tìm cách thăng tiến phẩm giá của họ, đem Lời Chúa đến
với họ bằng chính lối sồng nghèo chứng tá của mình. Như thế, cái nghèo trở
thành cầu nối cho ta gặp gỡ Chúa Kitô nơi họ
và chia sẻ với họ niềm vui được làm con Chúa và huynh đệ với nhau.
Khi Chúa phán rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương
Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói,
các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống...” (Mt 25, 34-37) là Ngài
xác định cho người thánh hiến trách nhiệm phải có đối với người nghèo và mời
gọi phục vụ họ vì họ là những người anh em bé nhỏ của Chúa.
Sống ý nghĩa cánh chung của lời khấn khó nghèo cũng là nhìn
thấy ở nơi họ (những người nghèo), “[…] là những người mở ra cho chúng ta con
đường vào nước trời; họ là tấm giấy thông hành của chúng ta để vào nước trời.”[25] Như thế
người nghèo có giá trị vô giá và là “phương tiện và là điều kiện” để chúng ta
được vào nước trời và chính chúng ta cũng phải trở nên “phương tiện và là điều
kiện” để cho người khác gặp gỡ Thiên Chúa bằng lối sống thanh thoát, không dính
bén của cải trần gian để có được “một kho tàng trên trời” (Mt 6, 20).
2.4. Sự tục hóa đối với đức khó nghèo
Trong bối cảnh xã hội
mà những giá trị vật chất được đề cao, nếp sống khó nghèo có vẻ lạc lõng nhất
là lớp người trẻ dấn thân vào đời tu còn mang theo trong tư tưởng những nhận
thức trái ngược với đức khó nghèo khi xem nhà dòng là nơi nương náu khỏi cảnh
sống nghèo mà họ phải trải qua ngoài đời, có cơ hội thăng tiến (được tiến chức
linh mục, có địa vị, quyền hành...), được giáo dân kính trọng và rồi bổng lộc
đi kèm theo sau… Những tư tưởng trần tục này là những rào cản trên con đường
sống đời thánh hiến mà ngay cả tu sĩ đã khấn hứa cũng có thể mắc phải nếu không
cẩn thận đề phòng. Ta có thể nêu ra những nguy cơ tục hóa đức khó nghèo như
sau:
Trước tiên là sống đời
tu nhưng lại mơ ước những gì nặng tính trần tục, cụ thể là của cải, tiền bạc,
quyền lực, tham vọng… Sự tục hóa này khiến người sống đời tu rơi vào tình trạng
quá chú trọng và lệ thuộc vật chất mà quên đi cái nghèo phải sống là theo gương
Chúa Giêsu, Đấng sống nghèo và chết nghèo trên thập giá.
Tiếp đến là thiếu sự đồng cảm và tình liên đới
đối với người nghèo khiến người ta dễ rơi vào tình trạng sống trong cái nghèo
giả tạo vì sống trong nhà dòng, những nhu cầu vật chất đã có người lo nên dễ ỉ
lại nên không cảm nhận được sự bức bách của những người nghèo phải vất vả mưu
sinh hàng ngày. Thực tế là sự ỉ lại này cũng dễ xảy ra vì đời sống vật chất
trong nhà dòng là tương đối đầy đủ dù không được tiện nghi như ngoài đời và tâm
lí “mọi sự đã có bề trên lo” cũng vẫn tồn tại, nên tinh thần nghèo khó của
người thánh hiến nhiều khi còn mang nặng tính hình thức. Ngay cả việc lao động
cũng dễ rơi vào tình trạng thờ ơ, làm cho xong việc còn tính hiệu quả thì… phải
xem lại. Đặc biệt là thời mà các mạng xã hội phổ biến như facebook, twitter…
càng lúc càng có nhiều người tham gia hoặc khi tìm kiếm thông tin, kiến thức
trên Internet, nếu không để ý, chúng ta sẽ lãng phí thì giờ cách vô ích
Một nguy cơ khác có thể
dẫn đến sự tục hóa lời khấn khó nghèo là nhận thức lệch lạc về quyền lực và địa
vị trong đời sống thánh hiến đó là thay vì để phục vụ thì lại xem quyền lực,
địa vị là thước đo thành công của đời tu và tìm mọi cách để duy trì địa vị đó
như đảm bảo một đời sống thoải mái về những quyền lợi do chức vụ mang lại. Để
đạt được điều này, có người sẵn sang lấy lòng bề trên, anh em và nhằm tạo được
sự tín nhiệm và hy vọng dần dần đạt được mục đích. Lý tưởng khó nghèo theo
gương Chúa Giêsu rất dễ bị biến tướng và vô tình chúa của họ lúc này “là cái
bụng”, nghĩa là chỉ tìm lợi lộc mà thôi.
Cuối cùng là tính ích
kỉ, nguyên nhân dẫn đến một lối sống phản chứng mà theo tâm lý bình thường là
dễ ghét đối với những người sống chung quanh mình. Vì ích kỉ, người ta chỉ nghĩ
đến mình, không muốn chia sẻ của cải vật chất, không muốn hy sinh thì giờ cho
anh em. Khi phải chia sẻ, hy sinh thì cũng không bằng thái độ vui vẻ mà thường
tính toán được mất, so đo hơn kém rồi dẫn đến ganh tị, bực bội trong lòng. Đây
cũng là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, một lối sống chỉ nghĩ đến mình,
khiến người ta không sống sống cho Thiên Chúa và cũng chỉ yêu mến anh em ngoài
môi miệng, nghĩa là không sống các chiều kích mà đức ái hoàn hảo đòi hỏi là
hiệp thông, chia sẻ và sứ vụ tông đồ.
3. Giáo Huấn của Giáo hội về lời khấn vâng phục
3.1. Đức vâng phục đối với Chúa
Vâng phục được hiểu là
dâng hiến tự do và ý chí của mình để chỉ vâng phục ý Chúa. Người thánh hiến họa
lại cuộc đời và tiếp tục sứ mạng của
Chúa Giêsu, Đấng đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha và Ngài đã vâng
phục Chúa Cha đến mức tự hiến mình chết trên thập giá. Công đồng xác định cho
chúng ta những tiêu điểm quan trọng:
Nhờ khấn giữ
đức vâng lời, các tu sĩ tận hiến ý muốn mình như của lễ bản thân dâng lên Thiên
Chúa, nhờ đó họ được kết hợp với ý muốn cứu rỗi của Ngài cách kiên trì và chắc
chắn hơn. Vậy, theo gương Chúa Kitô, Ðấng đã đến để làm theo ý Chúa Cha (x. Ga
4, 34; 5, 30; Dt 10,7; Tv 39.9) “tự nhận thân phận tôi tớ” (Ph 2,7) và đã học
tập đức vâng lời từ những điều phải chịu đựng
(x. Dt 5,8).[26]
(x. Dt 5,8).[26]
Để có thể sống đức vâng
phục, việc đầu tiên là phải sống khiêm nhường theo gương Chúa Giêsu, khi Ngài
hạ mình rửa chân cho các môn đệ… Đó là mẫu gương phục vụ trong yêu thương mà
không phải một lúc mà chúng ta học được cho dù Chúa vẫn ban ơn tràn trề cho
chúng ta ngay lúc hiện tại. Tiến trình này là một sự đào luyện tiệm tiến, ngày
qua ngày trong bổn phận, trong những điều trái lòng trái ý phải chịu đựng…như
Chúa Kitô, là Chúa mà Ngài vẫn phải học tập đức vâng lời cho đến mức thập toàn
trên thánh giá! Sống nhân đức này suốt cả cuộc đời quả là chết dần cho con
người cũ mỗi ngày để mặc lấy con người mới trong Đức Kitô. Sức tự nhiên là
không thể, nhưng với ơn Chúa thì có thể và đây là lời giải thích cho ân sủng
đặc biệt Thiên Chúa ban cách nhưng không cho những người sống đời thánh hiến:
Tất cả là hồng ân.
3.2. Đức vâng phục trong cộng đoàn
Đức vâng phục được sống và thể hiện trong
khung cảnh cộng đoàn. Người tu sĩ vâng lời vị bề trên, đại diện Thiên Chúa và
đó là tận hiến ý muốn của mình như của lễ dâng lên Thiên Chúa mỗi ngày. Cụ thể,
Công đồng dạy:
Các tu sĩ,
được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, lấy đức tin tùng phục các vị Bề Trên, đại diện
Thiên Chúa, và nhờ các ngài hướng dẫn, họ phục vụ mọi anh em trong Chúa Kitô,
như chính Chúa Kitô vì tuân phục Chúa Cha đã phục vụ anh em và hiến mạng sống
để cứu chuộc mọi người (x. Mt 20, 28; Ga 10, 14-18). Như thế, họ được liên kết
chặt chẽ hơn với sứ mệnh phục vụ của Giáo hội và nỗ lực đạt đến mức tuổi sung
mãn của Chúa Kitô (x. Ep 4, 13).[27]
Liên kết với mầu nhiêm Chúa Ba Ngôi:
vâng phục Thánh Ý Chúa Cha qua vị bề trên theo gương Chúa Giêsu và được thúc
đẩy bởi Chúa Thánh thần, đức vâng phục của người thánh hiến nhắm đến hai chiều
kích: thực hiện sứ mệnh phục vụ của Giáo hội ngang qua dòng tu của mình và hoàn
thiện bản thân trên con đường trọn lành. Khi sống đức vâng phục như thế là
chúng ta đang thánh hiến chính mình và cộng tác vào chương trình cứu rỗi của
Thiên chúa. Nhưng cũng có khi lệnh truyền của bề trên lại trái ngược với nhận
định mang tính logique của mình, nếu bình tĩnh mà xét trên bình diện cộng đoàn
thì đó lại là một sự hài hòa hợp lý. Vả lại, bề trên và các vị hữu trách là
những người được cộng đoàn xem xét, tuyển lựa và bầu chọn, là những người khôn
ngoan từng trải và có kinh nghiệm sống đức ái với anh em cũng như đời sống nội
tâm kết hiệp với Chúa, nên nếu có sai lầm thì có thể là có dụng ý của ngài.
Phần chúng ta, chúng ta đón nhận, vâng phục và thi hành một cách tích cực lệnh
truyền với tâm tình khiêm hạ là chúng ta thể hiện niềm tin yêu đối với bề trên
là người đại diện Chúa. Vâng phục như thế mang tính hợp tác và xây dựng đồng
thời kiến tạo sự hài hòa, bình an trong cộng đoàn. Vâng phục như thế biểu hiện
một sự lệ thuộc của con cái, sự lệ thuộc hiếu tử mà thánh Gioan Phaolô II trong Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến số 21 cũng khuyên dạy:
Sự vâng phục, thực hành theo gương Đức Kitô, lấy thánh ý Chúa Cha làm
lương thực (xc. Ga 4, 34), biểu lộ vẻ đẹp giải phóng của sự lệ thuộc như con
cái chứ không phải như nô lệ, một sự lệ thuộc chất chứa tinh thần trách nhiệm
và được sống động bởi một niềm tin tưởng hỗ tương, phản ánh ra lịch sử mối hoà hợp tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong cộng đoàn, tính
phẩm trật luôn hiện diện nhưng lại khác với những cơ cấu, thể chế chính trị,
kinh tế…vì được năng động dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Sự liên kết giữa
vị bề trên với các thành viên trong cộng đoàn và giữa các thành viên với nhau
nhờ Chúa Thánh Thần được thể hiện bằng đức ái không những thăng tiến tình huynh
đệ mà còn xây dựng nên một cộng đoàn chứng tá cho Tin mừng khi mọi người cộng
tác với nhau để thực hiện công việc chung, nhờ đó của lễ vâng phục này mang giá
trị cứu rỗi và một cách nào đó là xây dựng Giáo hội và hoàn thiện chính mình
như Công đồng khuyên dạy:
Vậy
các tu sĩ hãy khiêm tốn vâng phục Bề Trên của mình theo tiêu chuẩn qui luật và
hiến chương, trong tinh thần tin kính và yêu mến đối với thánh ý Chúa, dùng tất
cả năng lực trí tuệ, ý muốn cũng như năng khiếu và ơn Chúa ban để thi hành các
giới lệnh và chu toàn những phận vụ đã được ủy thác cho mình, vì biết mình đang
góp công xây dựng Thân Thể Chúa Kitô theo như ý định Thiên Chúa. Như thế, đức
vâng lời trong đời tu trì chẳng những đã không giảm bớt phẩm giá, nhưng còn
giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa.[28]
Sự vâng lời như thế
mang tính tích cực và chủ động, nghĩa là cố gắng vận dụng những khả năng của
mình để hoàn thành công việc và đón nhận những mệnh lệnh của bề trên hợp pháp
theo những qui chuẩn của hội dòng bằng một thái độ vâng phục mang tính đồng
trách nhiệm, cộng tác vui vẻ, đơn sơ, khiêm tốn… không miễn cưỡng, với ý thức
của một con người trưởng thành. Điều này giả định là người tu sĩ đã đạt đến một
mức độ hoàn thiện nhân bản rất cao và một đức tin vững mạnh được thể hiện qua
đời sống thiêng liêng gắn bó chặt chẽ với Chúa khi sống lời Chúa dạy: “Lương
thực của Thầy là làm theo ý của Cha Thầy …” Đây là loại vâng phục mà Đức Giáo
Hoàng phanxicô mong muốn chúng ta phải có khi ngài viết: “[…] Đức vâng phục của
người thánh hiến, không phải thứ vâng lời “nhà binh”. Nếu ta không thấy rõ điều
gì khi phải vâng phục thì hãy nói chuyện, đối thoại với bề trên, và sau đó hãy
vâng phục…”[29]
Vâng lời theo kiểu “nhà binh” nặng tính cơ
chế, áp đặt và thiếu tinh thần huynh đệ, trái lại, tinh thần đối thoại cởi mở
lại là nét mới trong việc thực hành đức vâng phục trong đời tu của thời đại
chúng ta, qua đó người ra lệnh và kẻ thi hành đều chân thành lắng nghe Chúa
Thánh Thần, thể hiện tình huynh đệ khi biết thông cảm, lắng nghe và trao đổi ý
kiến trong sự tế nhị, tôn trọng phẩm giá và nhân vị của nhau, khi đó tính cách
lễ nghĩa, cấp bậc bị đặt qua một bên và cả hai đang giúp nhau sống khiêm nhường
thật sự vì nhìn thấy Chúa Kitô trong mỗi người. Vâng phục như thế là của lễ đẹp
lòng Thiên Chúa và là nguồn vui, sự động viên cho cả hai trong việc sống trọn
vẹn chiều kích của đức vâng phục.
3.3. Sự tục hóa đối với lời khấn vâng phục
- Nguy cơ tục hóa lời khấn vâng phục đối với bề trên
Bất
cứ một cộng đoàn tu nào cũng có Tu luật, Tu hiến… được Giáo hội chuẩn nhận, nhờ
đó cộng đoàn có một khuôn mẫu để các thành viên noi theo và như mọi cơ chế trần
gian, phải có người lãnh đạo để chỉ huy, phân chia nhiệm vụ, công việc... nhờ
đó mọi hoạt động trong cộng đoàn được vận hành suôn sẻ. Trong một cộng đoàn tu
đích thực, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện, tác động và hướng dẫn bề trên cũng
như các thành viên để thánh hóa và giúp mọi người sống trọn vẹn lời khấn vâng
phục của mình đối với Chúa và Giáo hội trong đặc sủng của dòng mình. Nếu chủ
quan, lời khấn vâng phục có thể bị tục hóa khi bề trên xử dụng quyền bính theo
kiểu thế gian, cụ thể như sau:
Trước
tiên, nếu vị bề trên lạm dụng quyền bính và thiếu đối thoại với các thành viên
dưới quyền mình sẽ dễ dẫn đến nguy cơ tục hóa lời khấn vâng phục của mình. Nếu
bề trên thường xuyên lạm dụng quyền hành để lãnh đạo cộng đoàn thì cộng đoàn
thường có được nề nếp bề ngoài nhưng sẽ có tâm lý sợ mà vâng lời nơi một số
thành viên và tâm lý bất mãn nơi một số thành viên khác nên sự hiệp thông và
tình huynh đệ không có thực chất giữa họ và bề trên. Do thiếu đối thoại, bề
trên không thể hiểu hết những khúc mắc, trở ngại của bề dưới trong những tình
huống cụ thể khi phải vâng lời khiến bề dưới bằng mặt chứ không bằng lòng, lâu
ngày sẽ dẫn đến tình trạng dồn ép tâm lý khiến bề dưới dễ bị trầm cảm.
Hơn nữa, Chúa Thánh Thần luôn hiện nơi các
thành viên trong cộng đoàn vì thế lắng nghe và đối thoại là cách tốt nhất để bề
trên nhận ra tiếng Chúa nơi các thành viên và cùng mọi người phân định ý Chúa,
đồng thời đó là thái độ tôn trọng phải có đối với nhau vì mọi người là anh em
của Chúa và tất cả đều tìm kiếm và làm theo Thánh ý Chúa.
Vị
bề trên cũng có nguy cơ tục hóa lời khấn của mình khi để tính thống trị làm chủ
và đó cũng là ý riêng để thỏa mãn tham vọng quyền lực của mình, bắt người khác
phải vâng lời nhằm chứng tỏ quyền uy của mình, cho mình là đúng và đến một lúc
nào đó rơi vào tình trạng cho mình là trung tâm (égocentrique), không còn biết
lắng nghe người khác. Tính thống trị này thường được bao biện là vì lợi ích của
cộng đoàn, nhưng khi bề trên hành xử độc đoán như vậy, bề dưới trở thành công
cụ chứ không còn là người anh em của mình nữa.
Hậu quả là vì sợ hãi và thiếu đối thoại khiến
cho quan hệ giữa các thành viên mang tính đề phòng, khó lòng cởi mở, gần gũi
với bề trên, do đó mối dây liên kết huynh đệ mang tính giả tạo không thực chất
như đức ái đòi hỏi. Như thế cộng đoàn không còn mang tính thánh hiến nữa và chỉ
như một tổ chức xã hội què quặt, thiếu tính nhân văn đang nhan nhản trong xã
hội Việt Nam
chúng ta hiện nay.
Tiếp
đến, nếu không cẩn thận, tính háo danh cũng khiến bề trên dễ rơi vào nguy cơ để
lời khấn vâng phục của mình bị tục hóa. Ham mê, thèm muốn địa vị, chức tước và
công trạng là điều thường tình với con người tự nhiên vốn cân đo thành công của
cuộc đời theo những chuẩn mực trần tục trên và người ta thích khoe khoang, qua
đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo của mình. Thực tế là để có được thành công hay
sự phát triển của cộng đoàn đó là nhờ ơn Chúa và đóng góp của mọi thành phần
trong cộng đoàn chứ không phải riêng của bề trên hay một cá nhân đơn lẻ nào. Bề
trên thay mặt Chúa lãnh đạo cộng đoàn, nhưng bề trên cũng do cộng đoàn bầu
chọn, có bổn phận vâng phục Chúa và lắng nghe cộng đoàn đoàn, do đó tự đề cao
mình, mà xem nhẹ sự cộng tác của cộng đoàn thì vô tình đang làm vinh danh mình
chứ không phải vinh danh Chúa!
Nguy
cơ tục hóa đối với lời khấn vâng phục của các thành viên bề dưới trong cộng
đoàn
Đích
điểm đời tu là nên hoàn thiện theo gương Chúa Giêsu trong nếp sống thánh hiến
của mình, là phục vụ như Chúa Giêsu xuống trần để phục vụ và vâng phục thánh ý
Chúa Cha đến hiến cả mạng sống mình vì chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu, người
thánh hiến vâng phục Thánh ý Chúa qua bề trên, tuy nhiên những nhận định chưa
chuẩn về đời tu khiến họ có những suy nghĩ mang nặng tính trần tục, cụ thể như
sau:
Lời khấn vâng phục có thể bị tục hóa nếu người
thánh hiến làm theo ý riêng hoặc không tuân hành mệnh lệnh bề trên hợp pháp
dưới nhiều hình thức mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô khiển trách nặng nề khi viết:
Đó cũng là lời ngôn sứ chống lại mầm mống sự vô chính phủ mà
ma quỉ gieo rắc. Sự vô chính phủ, hành động theo ý riêng là con của ma quỉ, chứ
không phải là con của Thiên Chúa... Ngôn sứ ở đây là nói với dân chúng rằng có
một con đường dẫn đến hạnh phúc, sự cao cả, con đường làm bạn đầy vui mừng,
chính là con đường của Chúa Giêsu.[30]
Ngài
không chấp nhận sự vô chính phủ, nghĩa là sự ngang ngược, không tuân giữ tu
luật, tu hiến của dòng tu, tu hội, không tôn trọng phẩm trật, trật tự trong
cộng đoàn và khi hành động theo ý riêng người ta thường nại đến quyền tự do cá
nhân để biện hộ cho hành động mù quáng của mình. Cộng đoàn thánh hiến không
phải là một cơ chế xã hội nơi mà người ta đấu tranh cho quyền lợi của mình bằng
mọi cách, kể cả mánh khóe, thủ đoạn, sống chết “thắng làm vua, thua làm giặc”!
Cộng đoàn tu trì cũng có tính cơ chế nghĩa là có bề trên, bề dưới, nhưng là để
phục vụ trong yêu thương dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhắm đến sứ vụ tông
đồ, làm sáng danh Chúa.
Sự
vô chính phủ và ý riêng là những tác nhân gây chia rẽ, phe phái trong cộng
đoàn, dù công khai hay ngấm ngầm đều gây nên những hậu quả nghiêm trọng mang
tính phá hoại cho cá nhân người đó và cho cả cộng đoàn, biến cộng đoàn thành cơ
chế trần tục, trái ngược tinh thần vâng phục của Chúa Kitô và Giáo Huấn Giáo
hội. Người sống đời thánh hiến vâng phục bề trên theo gương hiếu tử của Chúa
Giêsu, hẳn nhiên là bề trên là con người, cũng có những bất toàn, sai sót
(thường ít xảy ra vì cộng đoàn thường không có, hoặc hiếm khi sai lầm khi bầu
chọn bề trên và nếu có vấn đề, lương tâm các vị có trách nhiệm trong cộng đoàn
cũng buộc họ phải trình bề trên thượng
cấp khi thấy bề trên hành xử sai lỗi thường xuyên và không còn lắng nghe ban cố
vấn), nhưng không nên vì thế mà chống đối hoặc đấu tranh theo kiểu thế gian.
Trái
lại, khiêm tốn đối thoại với tâm tình con cái, huynh đệ sẽ là giải pháp hợp lí
để giải quyết, nếu phải vâng phục thì hãy xác tín rằng đó là vì phục vụ và vì
lợi ích của cộng đoàn và cho chính mình nữa. Vả lại, bề trên cũng có chính ý
của mình và trong những trường hợp tế nhị, đã tham khảo ý kiến các vị cố vấn
trước khi truyền lệnh, nếu có “sai sót” hẳn cũng là chủ ý của ngài nhằm rèn
luyện nhân đức hay một lý do nào khác, có khi lại là tiến trình rèn luyện để
mình thêm nhân đức cần thiết cho một sứ vụ quan trọng mà thay mặt cộng đoàn, bề
trên muốn mình đảm nhận! Dù sao, nẻo đường thập giá không miễn trừ cho một
người nào khi dấn thân theo Chúa. Từ bỏ cái “tôi” luôn là một sự từ bỏ khó
khăn, hy sinh tự do là một hy sinh phải trả giá, nhưng đó lại là một tiến trình
tiệm tiến của những người thánh hiến chết đi con người cũ và mặc lấy con người
mới trong Chúa Giêsu.
Lời khấn vâng phục
cũng có thể bị tục hóa nếu người thánh hiến bị tính háo danh chi phối, nghĩa là
chú trọng quá mức đến danh phận phải có trong đời tu. Nếp nghĩ này thường là ai
cũng có, và đó là suy nghĩ rất đời thường của đa số tu sĩ trẻ và các bậc phụ
huynh, ngay cả những người đã sống đời tu lâu năm cũng dễ bị vướng vào, như thế
lý tưởng đời tu được thay thế bằng việc đạt được một chức vị nào đó, vinh qui
bái tổ cho rỡ ràng gia môn như trường hợp xin ngồi bên tả bên hữu Chúa của hai
Tông đồ Gioan và Giacôbê ngày xưa, cách này hay cách khác, vẫn tồn tại trong
tâm thức con người. Điều này có thể hiểu được và nếu dốc lòng mến Chúa yêu người
và cố gắng phấn đấu trong đời tu để nên hoàn thiện bản thân thì có lẽ Chúa còn
ban thêm gấp bội chứ không chỉ là chức vị mình có. Tuy nhiên, nếu không để ý để
tự điều chỉnh, tính háo danh khiến người ta phấn đấu chệch hướng trong đời tu
và có nguy cơ là nếu thành công người ta dễ tự mãn, trái lại nếu không đạt được
mục đích, thì dễ chán nản, buông xuôi, sống an phận thủ thường, kéo lê đời tu
trong phiền muộn, mặc cảm thua kém.
Về khía cạnh này, có những thành viên tìm cách lấy lòng bề
trên vì mục đích được tín nhiệm nhằm được bề trên cất nhắc, tiến chức… Khi làm
như vậy vô tình họ coi thường phẩm giá con người của chính mình và của cả bề
trên nữa vì một cách chủ quan họ đang “lèo lái” bề trên theo ý họ.Thái độ rất
“đời”này thường gây phản cảm với những người khác và là chướng ngại cho sự hiệp
thông giữa các thành viên trong cộng đoàn, thậm chí còn nảy sinh tâm lý đề
phòng lẫn nhau vì sợ bị thưa trình bề trên chuyện này chuyện nọ. Những lệch lạc
nhận thức về lời khấn vâng phục nêu trên sẽ khiến họ sống như con cái của nô
lệ, chứ không phải con cái tự do và một cách nào đó, họ đang tục hóa lời khấn
vâng phục của mình.
KẾT LUẬN
Trong Huấn Thị Xuất phát lại từ Đức Kitô, việc tuân
giữ các Lời Khuyên Phúc âm được nói đến như một phương thế để diễn tả lòng mến
mà người tu sĩ dành cho Chúa:
Các
lời khuyên Phúc âm như khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục mà đức Kitô sống
trong nhân tính trọn vẹn của người với tư cách là Con Thiên Chúa và được ôm ấp
vì yêu mến Thiên Chúa, tỏ lộ như một con đường thực hiện nhân vị cách viên mãn
ngược lại sự phi nhân hoá. Chúng là những thần dược chữa trị sự sa đoạ của tinh
thần, đời sống và văn hoá, chúng công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa và
niềm vui sống theo các mối phúc lộc Tin mừng.[31]
Đức Giêsu đã sống
cách trọn vẹn ba lời khuyên Phúc âm và để lại cho chúng ta một gương mẫu cho
chúng ta dõi bước theo Ngài. Ngài mời gọi chúng ta can đảm từ bỏ chính mình dấn
thân theo Ngài, nghĩa là loại bỏ con người trần tục của mình, và sống trọn vẹn
ba lời khuyên Phúc âm để nên thần dược cho một thế giới cần được chữa trị, một
thế giới mà sự tục hóa đang lây lan, tàn phá dữ dội đời sống tinh thần, văn hóa
của cả thời hậu hiện đại chúng ta đang
sống không loại trừ một ai.
Tóm lại, trong một xã hội bị tục hóa như xã hội chúng ta đang
sống hiện nay, việc sống trọn vẹn các chiều kích của các lời khấn: khiết tịnh,
nghèo khó, vâng phục là một thách đố nặng nề đối với mỗi người sống đời thánh
hiến. Lộ trình từ bỏ chính mình, vác thập giá theo Chúa Giêsu, Đấng vốn dĩ là
Thiên Chúa nhưng đã hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
và chết trên thập giá, là chặng đường người sống đời thánh hiến phải trải qua
để nên đồng hình đồng dạng với Người.
[1] Chủ nghĩa thế tục là một thế giới quan phát xuất từ phong trào thế
tục hóa, quá trình tinh thần về sự chia cách giữa nhà nước và tôn giáo và các
quá trình cụ thể về việc ban giao tài sản, quyền lực của các cơ sở tôn giáo cho
nhà nước hay các thế lực trần tục. Nó đưa đến việc các chức năng chính trị,
kinh tế, khoa học thoát ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, tạo ra một nhà nước
trung lập về niềm tin tôn giáo.
Chủ nghĩa thế
tục đã có nguồn gốc trí thức từ các nhà triết gia Hy Lạp cổ và La Mã như Marcus
Aurelius và Epicurus;
từ các nhà tư tưởng trong thời kỳ Khai sáng như Denis Diderot, Voltaire, Baruch
Spinoza, James Madison, Thomas
Jefferson, và Thomas Paine;
và từ những nhà tư tưởng tự do và vô thần như Robert Ingersoll và Bertrand
Russell. Từ “secularism” (chủ nghĩa thế tục) được dùng đầu tiên bởi
nhà văn Anh George Jacob Holyoake
1851. Mặc dù từ này mới, tư tưởng tự do mà nó dựa vào đã có từ lâu.
Holyoake
đã tạo ra từ “secularism” để diễn tả quan điểm của ông ta kêu gọi thiết lập một
trật tự xã hội tách rời ra khỏi tôn giáo, mà không phải tích cực gạt bỏ hay chỉ
trích các niềm tin tôn giáo. Là một người có tư tưởng bất khả tri, Holyoake lý luận là "Chủ
nghĩa thế tục không phải là một tư tưởng chống lại niềm tin Ki tô, mà chỉ độc
lập từ nó. “Tri thức thế tục chỉ quan tâm tới những vấn đề có thể tìm được
trong cuộc đời này bằng kinh nghiệm đã trải qua”.
Nhiều
nhà thần học nhìn theo lối tích cực cho là quá trình thế tục hóa là quá trình
đưa đến sự trưởng thành của tôn giáo và xã hội, phi linh thiên hóa vũ trụ. Các
định chế và ứng xử của tôn giáo hấp thu những giá trị và chuẩn mực của khoa học
và kỹ thuật đang ngày càng chi phối xã hội trần thế.
[2] Trào lưu thế tục hóa và đời sống đức tin hôm nay
.w.w.w.tgpsaigon.net › truy cập ngày 20/11/2017.
[3] Công bố Tự Sắc của Đức Thánh Cha thành lập Hội Đồng Tòa Thánh www.tgpsaigon.net › Truy cập ngày 20-11-2017
[4] Chủ nghĩa cá nhân hay còn gọi là cá nhân chủ nghĩa, chủ
nghĩa cá thể là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một cách nhìn
nhận trên phương diện xã hội, chính trị hoặc đạo đức trong đó nhấn mạnh đến lợi
ích của mỗi cá nhân, sự độc lập của con người và tầm quan trọng của tự do và tự
lực của mỗi cá nhân. Những người theo chủ nghĩa cá nhân chủ trương không hạn
chế mục đích và ham muốn cá nhân. Họ phản đối sự can thiệp từ bên ngoài lên sự
lựa chọn của cá nhân - cho dù sự can thiệp đó là của xã hội, nhà nước, hoặc bất kỳ một nhóm hay một thể chế nào khác. Chủ nghĩa cá nhân do
vậy đối lập với chủ nghĩa toàn luận, chủ nghĩa
tập thể, chủ
nghĩa cộng đồng, và chủ nghĩa
công xã, tức là đối lập với những chủ
thuyết nhấn mạnh đến việc công xã, nhóm, xã hội, chủng tộc, hoặc các mục đích
quốc gia cần được đặt ưu tiên cao hơn các mục đích của cá nhân. Chủ nghĩa cá
nhân cũng đối lập với quan điểm truyền thống, tôn giáo, tức đối lập với bất cứ quan niệm nào cho rằng cần sử dụng các chuẩn mực đạo đức hay luân lý ở bên ngoài, khách thể, để hạn chế sự lựa chọn hành động của cá
nhân. Xc. Chủ nghĩa cá nhân vi.wikipedia.org/wiki.Truy cập 20-11-2017.
[5] Chủ nghĩa tự do cá nhân hay chủ
nghĩa tự do ý chí (tiếng Anh: libertarianism, từ tiếng Latinh: liber, tự
do) là học thuyết triết
học chính trị ủng hộ tự do như là mục tiêu chính yếu. Người theo chủ nghĩa này theo đuổi việc
mở rộng sự tự
trị (tự do khỏi sự can thiệp từ
bên ngoài) và tự do quyết định,
nhấn mạnh tự do chính
trị, các hiệp hội tình nguyện và
quyền ưu việt của phán đoán cá nhân. Xc. Chủ nghĩa tự do cá nhân.
vi.wikipedia.org/wiki/. Truy cập 20-11-2017.
[6] Xã hội tiêu dùng là một hình thái xã hội được
nhìn nhận trên cơ sở hệ quy chiếu tất các mối quan hệ xã hội về hai phạm
trù sản xuất và tiêu dùng trong đó hình
thái xã hội này đề cao yếu tố tiêu dùng, các hoạt động tiêu thụ, mua sắm, vui chơi, giải trí. Theo lý thuyết
về xã hội tiêu dùng (chủ nghĩa tiêu thụ) của Thorstein Veblen thì đây
là một trật tự xã hội và kinh tế trên cơ sở phát triển nhu cầu mua bán hàng hoá, dịch vụ với số lượng lớn
để thỏa mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu tiêu thụ, thụ hưởng ngày càng cao của
đời sống nhân dân và ngày càng phổ biến với quá trình toàn cầu hóa.
[7] Xc. Tuyên
Ngôn về Giáo Dục Ki Tô Giáo. vntaiwan.catholic.org.tw
/vatican2/education.htm. Truy cập 18/10/2017
[8] Xc.w.w.w.vatican.va
[9] Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae Caritati, số 12.
[10] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, OP. Trào lưu thế tục hóa và đời sống đức tin hôm
nay. tgpsaigon.net ›
Tín lý, truy cập ngày 22-11-2017.
[11] Xc. Tóm Lược Hiến Chế Tín Lý về Hội thánh Lumen
Gentium.số 6. www.giaoly.org/...hien-che-tin-ly-ve-hoi
thanh-lumen-gentium.Truy cập ngày 22-11-2017.
[12] Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae
Caritati, số 12.
[13] Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae Caritati, số 12.
[14] Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae
Caritati, số 12.
[15] Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae
Caritati, số 12.
[16] Ibid.
[17] Ibid, số 12.
[18]. Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae Caritati, số 13.
[19] Joseph
C. Pham Chuyển ngữ từ Vatican Radio. ĐGH Phanxicô - Thần Học Về Sự Nghèo Khó www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/CacDGH/
Phanxico/.../65SuNgheoKho.ht..
[20] Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae
Caritati, số 13.
[21] Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae
Caritati, số 13.
[24] ĐGH Phanxicô -
Bài Giảng Lễ Ngày Thế Giới Người Nghèo 2017 ... Joseph C. Pham (Chuyển
ngữ từ Vatican Radio), masimpress.com/duc-giao-hoang/dgh-phanxico-bai...
Truy cập ngày 30-11-2017
[27]Xc. Vat. II, Sắc Lệnh Perfectae
Caritati, số 14.
[29]Xc. G.
Trần Đức Anh OP chuyển ngữ. Đức Thánh Cha tiếp các tu sĩ bế mạc Năm Đời Sống Thánh Hiến - Đài vi.radiovaticana.va/news/2016.
đức_thánh...đời_sống_thánh_hiến/.1205150.Truy cập ngà y 30-11-2017.
[30] Xc. G. Trần Đức Anh OP. Đức Thánh Cha tiếp các tu sĩ bế mạc Năm Đời
Sống Thánh Hiến Chuyển ngữ
từ vi.radiovaticana.va/news/01/02/2016 11:38) www.simonhoadalat.com/GIAOHOI/Nam2016/Thang02/02.Truy cập ngày 28-12-2017.
[31] Trích lại theo Đỗ Thôn Nhu SSS. Can đảm đối diện với thử thách và thách đố | Dòng Thánh Gia Việt Nam dongthanhgiavn.net/can-dam-doi-dien-voi-thu-thach-va-thach-do-2.
Đăng nhận xét